Tại sao basedow gây lồi mắt

Chứng lồi mắt ảnh hưởng đến vẻ đẹp của khuôn mặt người bệnh, khiến họ mất ăn, mất ngủ. Rất nhiều bệnh nhân đã yêu cầu các bác sĩ tìm mọi cách điều trị cho mình hết chứng bệnh này.

Trong bệnh Basedow lồi mắt là dấu hiệu hay gặp nhất. Theo những công trình nghiên cứu mới nhất, dấu hiệu này gặp được trong 40 – 45% các trường hợp. Chính vì vậy người ta còn gọi bệnh Basedow với một cái tên khác là bệnh bướu cổ lồi mắt.

Phân loại mức độ lồi mắt

Lồi mắt thường xảy ra ở cả hai mắt, đôi khi rõ rệt ở một bên hơn là bên kia. Cũng có những bệnh nhân chỉ bị lồi một bên mắt nhưng rất hiếm gặp.

Đi kèm với chứng lồi mắt bệnh nhân thường cảm thấy chói mắt, chảy nước mắt sống, cảm giác như có bụi bay vào mắt hoặc rất nóng rát. Nặng hơn bệnh nhân có thể bị khô và loét giác mạc là nguyên nhân gây lên mù lòa vĩnh viễn.

Trong thực hành bệnh viện, các bác sĩ hay áp dụng bảng phân loại Werner của Hiệp hội Tuyến giáp Mỹ với 6 mức độ: độ 1 và 2  là nhẹ, độ 3 là vừa, độ 4 – 6 là nặng.

Tại sao basedow gây lồi mắt

Bệnh nhân thường bị lồi hai bên mắt nhưng cũng có bệnh nhân chỉ lồi một bên mắt

Với những trường hợp khó khăn trong chẩn đoán và phân loại, người ta sử dụng thước đo độ lồi mắt Hertel. Độ lồi mắt khác nhau tùy theo chủng tộc và dân tộc, ở người Việt Nam bình thường độ lồi mắt vào khoảng 12mm, độ lồi tăng lên trong bệnh nhân Basedow.

Điều trị như thế nào?

Một số trường hợp chứng lồi mắt có thể thay đổi cùng với tiến triển của bệnh sau khi điều trị. Khoảng 30% số bệnh nhân sẽ hết lồi mắt sau khi phẫu thuật, thường là những bệnh nhân lồi mắt ở mức độ nhẹ và vừa.

Có 3 phương pháp điều trị chứng lồi mắt gồm: sử dụng thuốc corticoides liều cao, xạ trị và phẫu thuật.

Với những bệnh nhân lồi mắt độ 1, thường không cần phải điều trị.

Những bệnh nhân lồi mắt độ 2, việc điều trị bao gồm:

– Đeo kính sẫm màu.

– Nhỏ hoặc tra các loại pomade nước mắt nhân tạo để tránh biến chứng khô giác mạc.

Nhỏ một loại thuốc nước đặc biệt để làm giảm mức độ cường cơ vận nhãn. Thuốc này được cho theo chỉ định của bác sĩ nhãn khoa.

Những bệnh nhân lồi mắt từ độ 3 trở lên, việc điều trị phức tạp hơn nhiều và không phải lúc nào cũng có hiệu quả:

– Thuốc corticoides liều cao như Prednisone 100mg một ngày (20 viên) từ 5 – 7 tuần. Tuy nhiên, cần chú ý khả năng dung nạp kém với corticoides ở người Việt Nam so với bệnh nhân phương Tây. Biến chứng  hay gặp nhất của việc sử dụng thuốc là viêm loét dạ dày có thể gây xuất huyết tiêu hóa và phù do giữ nước.

– Xạ trị: dùng máy tạo chất phóng xạ chiếu vào vùng hốc mắt: tuy nhiên phương pháp này chỉ có hiệu quả điều trị lồi mắt trong giai đoạn sớm và không có tác dụng trong giai đoạn sẹo đã hình thành phía sau hốc mắt.

– Điều trị bằng phẫu thuật: được sử dụng cho những trường hợp thất bại với điều trị bằng corticoides và xạ trị, bao gồm:

Khâu cò mí mắt: nhằm làm giảm độ hở của mi mắt.

Phẫu thuật chỉnh hình làm giảm độ co rút của cơ vận nhãn.

Phẫu thuật làm giải áp hốc mắt trong những trường hợp lồi mắt ác tính có tổn thương thần kinh thị gây giảm và mất thị lực hoặc do yêu cầu thẩm mỹ của bệnh nhân.

Phẫu thuật tạo hình sau giải áp hốc mắt.

Tất cả những phẫu thuật này được thực hiện bởi các bác sĩ nhãn khoa và tạo hình.

PGS.TS. NGUYỄN HOÀI NAM

SKNT - Lồi mắt ở bệnh nhân Basedow có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, thường cả hai bên, 10 - 20% trường hợp lồi mắt chỉ có một bên. Lồi mắt có thể xuất hiện ở những bệnh nhân Basedow đang có nhiễm độc hormon tuyến giáp, ở những bệnh nhân bình giáp sau điều trị bằng các thuốc kháng giáp tổng hợp, phóng xạ hoặc bằng phẫu thuật thậm chí ở cả những bệnh nhân Basedow đã suy giáp sau điều trị

Có khoảng trên 50% bệnh nhân Basedow có biểu hiện bệnh lý mắt trên  lâm sàng.

Tổn thương mắt thường ở cả hai bên, đôi khi rõ rệt hơn ở một bên so với bên kia.

+ Triệu chứng cơ năng: chói mắt, chảy nước mắt, cộm như có bụi hay vào  mắt, hoặc nóng rát.

+ Triệu chứng thực thể:

- Lồi mắt: lồi mắt ở bệnh nhân Basedow có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, thường cả hai bên, 10 - 20% trường hợp lồi mắt chỉ có một bên. Lồi mắt có thể xuất hiện ở những bệnh nhân Basedow đang có nhiễm độc hormon tuyến giáp, ở những bệnh nhân bình giáp sau điều trị bằng các thuốc kháng giáp tổng hợp, phóng xạ hoặc bằng phẫu thuật thậm chí ở cả những bệnh nhân Basedow đã suy giáp sau điều trị. Theo thống kê có khoảng 20% bệnh nhân Basedow xuất hiện bệnh lý mắt trước khi có biểu hiện cường giáp trên lâm sàng; 40% xuất hiện đồng thời và 40% xuất hiện sau khi đã bình giáp. Về tiến triển, lồi mắt có khi duy trì rất lâu ở mức độ nhẹ hoặc có thể tiến triển nặng lên nhanh, mức độ của bệnh và mức độ của lồi mắt không song song với nhau. Độ lồi mắt phụ thuộc vào yếu tố chủng tộc và dân tộc. Độ lồi mắt sinh lý của người da vàng có thể tới 17 mm, của người da trắng: 20 mm, của người da đen: 22 mm. Độ lồi mắt trung bình của người Việt Nam là 12 ± 1,7 mm (Mai Thế Trạch - 1996). Lồi mắt kèm theo phù mi mắt, phù giác mạc, xung huyết giác mạc. Càng phù nhiều thì mắt càng không ấn vào được nữa.

Mô tả các bộ phận và dấu hiệu của mắt bị tổn thương, Sheikh M.(1997) đã tổng hợp:

Tóm tắt tổn thương bệnh lý mắt do Basedow:

+ Bộ phận mắt bị tổn thương:

- Mi mắt.

- Giác mạc.

- Cơ ngoại nhãn.

- Chứng lồi mắt.

- Dây thần kinh thị giác.

+ Dấu hiệu hoạt động của bệnh lý mắt:

- Đau ở sau nhãn cầu

- Đau khi liếc mắt

- Mẩn đỏ ở mi.

- Phù mi.

- Phù kết mạc

- Nề nổi cục

Để đánh giá mức độ tổn thương của mắt trong bệnh Basedow, người ta dùng xếp loại của Werner (American thyroid association):

Mức độ tổn thương mắt trong bệnh Basedow.

Độ

0

Không có biểu hiện.

1

Co cơ mi trên (dấu hiệu Dalrymple, Von Graefe).

2

Tổn thương phần mềm ở hốc mắt (phù mi mắt).

3

Lồi mắt >3mm so với bình thường.

4

Tổn thương cơ vận nhãn: cơ thẳng dưới và giữa.

5

Tổn thương giác mạc.

6

Tổn thương dây thần kinh thị giác.

Không nhất thiết phải có sự chuyển từ độ 1 sang độ 2 rồi mới sang độ 3, 4. Các biểu hiện có thể thay đổi cùng với tiến triển của bệnh sau điều trị. Trong xếp loại này: độ 1 liên quan trực tiếp đến cường giáp, khi cường giáp đã kiểm soát được thì nó có thể mất; từ độ 2 đến độ 6 là do sự thâm nhiễm các tế bào lympho và dịch phù của các mô, cơ ở hốc mắt và sau nhãn cầu gây ra. Nếu các cơ sau nhãn cầu bị phù nề, chúng có thể bị chèn ép vào dây thần kinh thị giác gây ra mù loà.

Sự phù nề các cơ hốc mắt có thể chứng minh được bằng xạ hình cắt lớp điện toán (CT - scanner).

- Rối loạn trương lực thần kinh của các cơ vận nhãn: do co cơ mi trên (cơ Muller):

. Dấu hiệu Dalrymple: hở khe mi còn gọi là “lồi mắt giả”.

. Dấu hiệu Von Graefe: mất đồng tác giữa nhãn cầu và mi mắt.

. Dấu hiệu Stellwag: mi mắt nhắm không kín.

. Dấu hiệu Joffroy: mất đồng tác giữa nhãn cầu và cơ trán.

. Có thể có dấu Jellinek: viền sậm màu ở quanh mi mắt.

. Dấu hiệu Moebius: liệt cơ vận nhãn gây song thị, hội tụ của 2 mắt không đều.

  +  Cơ chế sinh bệnh học bệnh lý mắt do Basedow:

Cơ chế bệnh sinh của lồi mắt trong bệnh Basedow chưa hoàn toàn được sáng tỏ. Yếu tố quyết định trong cơ chế bệnh sinh của triệu chứng này là vai trò của chất kích thích tuyến giáp kéo dài (long acting thyroid stimulator - LATS) và yếu tố gây lồi mắt (exophthalmos producing substance - EPS) được tiết ra từ tuyến yên với một lượng khá lớn.

Những rối loạn bệnh lý trong lồi mắt là phù, tăng thể tích sau nhãn cầu và tổ chức liên kết của cơ ngoài nhãn cầu, ứ đọng trong các tổ chức này các mucopolysacharit và các axit có tính hút nước mạnh (axit hyaluronic và axit chondrohytinsulfuric). Cản trở lưu thông tĩnh mạch, tăng sinh tổ chức liên kết của nhãn cầu, thâm nhiễm các tế bào lympho và tương bào (plasmocyte).

Trong tổ chức liên kết của nhãn cầu, tăng số lượng các tế bào mỡ sản xuất ra lipit dự trữ, nhưng nếu bệnh nặng thì có thể giảm số lượng tế bào mỡ. Nguyên nhân cơ bản của lồi mắt là tăng sinh thâm nhiễm, phù tổ chức sau nhãn cầu, tăng lực đẩy nhãn cầu ra phía trước và xơ hoá các cơ quan ngoài nhãn cầu (giảm lực giữ nhãn cầu ở vị trí sinh lý). Do vậy lồi mắt trở thành khó hồi phục.

 Các tự kháng thể (TRAb) sau khi hình thành sẽ kết hợp với thyroglobulin tạo nên phức hợp kháng nguyên - kháng thể. Phức hợp này tới hốc mắt qua đường máu hoặc các ống bạch mạch cổ trên. Tại đó phức hợp này kết hợp với các cơ hốc mắt gây ra viêm cơ, làm cơ sở cho biểu hiện mắt của bệnh Basedow. Các lympho T hỗ trợ cũng có thể làm các kháng nguyên ở hốc mắt trở nên nhạy cảm và duy trì các triệu chứng ở mắt.

Cần phải lưu ý triệu chứng lồi mắt giả ở bệnh Basedow do khe mắt rộng, mắt sáng long lanh, nhưng độ lồi mắt bình thường. Lồi mắt có thể gặp ở  người cận thị nặng, thiên đầu thống, lồi mắt bẩm sinh hoặc gia đình, lồi mắt do não úng thủy, u mắt, do các khối u của não.

Lồi mắt một bên ngoài bệnh Basedow có thể gặp do bệnh lý gây chèn ép hoặc viêm một bên nhãn cầu: u máu nhãn cầu, u tuyến lệ, viêm tổ chức nhãn cầu.

Bs. Đ.Đ.T