Sự khác nhau giữa tiếng việt và tiếng nhật

So sánh ngữ âm tiếng Nhật với tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.88 KB, 30 trang )

So sánh ngữ âm tiếng Nhật với tiếng Việt - sự khác biệt cấu tạo của âm
tiết
  Tiểu luận Học phần LIN6013: Các vấn đề ngữ âm học và âm vị học

Học viên: Washizawa Takuya

I. Mở đầu
Như chúng ta đã biết hai ngôn ngữ tiếng Nhật và tiếng Việt vừa có điểm tương
đồng vừa có sự khác nhau về nhiều mặt. Những mặt đó bao gồm mặt ngữ âm, từ
vựng, cú pháp và ngữ dụng. Riêng ở lĩnh vực ngữ âm, hai ngôn ngữ này có đặc
điểm ngữ âm hoàn toàn khác nhau và người nói ngôn ngữ này cảm thấy phát âm
ngôn ngữ kia thật khó.
Tuy nhiên, nếu chúng ta so sánh và phân tích ngữ âm của hai ngôn ngữ này thì
cũng có thể tìm ra được một số đặc trưng chung. Thông qua những đặc điểm chung
đó, chúng ta biết được hai ngôn ngữ này khác nhau về điểm gì một cách chính xác
hơn.
Nói cụ thể, hai ngôn ngữ này có hệ thống phụ âm cuối âm tiết gần nhau và đều
có phụ âm cuối âm tiết thay đổi dựa vào bối cảnh.
Tiểu luận này xin giới thiệu về hệ thống ngữ âm và âm vị tiếng Nhật. Đồng thời
so sánh, đối chiếu với tiếng Việt và phân tích những điểm giống và khác nhau giữa
tiếng Nhật và tiếng Việt một cách sâu sắc. Tôi mong muốn rằng thông qua tiểu luận
này có cơ hội để suy nghĩ không những về sự khác biệt của ngữ âm tiếng Nhật và
tiếng Việt mà còn về sự khác biệt của hai ngôn ngữ nói chung và tiến tới tìm hiểu
sự khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam.


Trước hết, tôi giới thiệu đơn giản về ngữ âm và cấu trúc âm tiết của tiếng Nhật
và tiếng Việt ở phần 1. Sau đó ở phần 2, tôi so sánh những đặc điểm về hệ thống
ngữ âm và âm vị của hai ngôn ngữ đó và đặt vấn đề. Ở phần 3 tôi phân tích và so
sánh, đối chiếu một cách chính xác về các mặt ngữ âm giữa tiếng Nhật và tiếng
Việt. Cuối cùng, trong phần kết luận tôi xem xét, đánh giá những phân tích này để


hiểu sự khác biệt của hai ngôn ngữ.

II. Nội dung
1. Nhập môn: Giới thiệu về âm tiết của tiếng Nhật và tiếng Việt
Tiếng Nhật và tiếng Việt thường được coi là hai ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau,
(Washizawa: tại sao phần mở đầu, câu đầu lại nói là có cả điểm giống và điểm
khác????) cả về ngữ âm, từ vựng, cú pháp, và ngữ dụng. Ở tiểu luận này tôi thảo
luận về ngữ âm và âm vị, mà chỉ về mặt này cũng có thể tìm ra được nhiều điểm
khác nhau trong hai ngôn ngữ, khiến cho nhiều người nói thứ tiếng này gặp khó
khăn khi học tiếng kia.
Không ít người nói rằng điểm khác nhau giữa hai ngôn ngữ chủ yếu nằm ở cấu
trúc âm tiết. Người nói tiếng Nhật học tiếng Việt cảm thấy cấu trúc âm tiết của
tiếng Việt rất phức tạp và gặp khó khăn về việc khu biệt một số nguyên âm và phụ
âm cuối âm tiết. Trong khi đó, người nói tiếng Việt học tiếng Nhật gặp khó khăn về
việc khu biệt đặc điểm ngắn và dài của nguyên âm và có hay không có “xúc âm
(促音)” cuối âm tiết.
Trên thực tế, nếu chúng ta so sánh sơ đồ âm vị của hai ngôn ngữ, có thể tìm ra
được nhiều điểm gần nhau. Phụ âm đầu âm tiết của hai ngôn ngữ gần nhau, và cả
hai ngôn ngữ có phụ âm cuối âm tiết gần nhau, so với tiếng Anh mà hầu hết phụ


âm đầu cũng có thể trở thành phụ âm cuối âm tiết, hoặc tiếng Trung Quốc hiện đại
chỉ có 2 phụ âm /n/, /ŋ/ và /ɽ/ (hoặc /ʐ/) ở cuối âm tiết. Và cả tiếng Nhật và tiếng
Việt đều có cuối âm tiết biến đổi dựa vào bối cảnh: trong tiếng Nhật, “bát âm ( 撥
音)” (là /N/ → [n], [m], [ŋ], [ɴ]) và “xúc âm” (là /Q/ → [t], [p], [k]) biến đổi dựa
vào âm đầu của âm tiết tiếp theo; trong tiếng Việt, âm cuối âm tiết [ŋ], [ɲ], [ŋ͡m], và
[k], [c], [k͡p] biến đổi dựa vào nguyên âm trước.
Vì vậy, ngữ âm tiếng Nhật và tiếng Việt có nhiều điểm gần nhau. Tuy nhiên, do
lý do dưới đây, người ta cảm thấy ngữ âm tiếng Nhật và tiếng Việt hoàn toàn khác
nhau: đơn vị cơ bản của âm vị trong tiếng Nhật và tiếng Việt khác nhau. Trong khi

tiếng Việt coi âm tiết là đơn vị cơ bản và nếu chia tách thì làm âm đầu và vần,
trong tiếng Nhật thì đơn vị cơ bản là “mora”. Bát âm /N/, xúc âm /Q/ và nguyên
âm thứ hai của nguyên âm đôi và trường âm đều được coi là một mora, và nếu một
âm tiết bao gồm những yêu tố này thì được coi là có nhiều đơn vị.
Trong tiếng Nhật, đơn vị mora này rất quan trọng về tất cả mọi mặt phát âm, các
luật âm vị, từ pháp, và ngữ nghĩa, khiến người học gặp khó khăn. Nhưng nói một
cách khác, nếu chúng ta hiểu rõ sự khác biệt về đơn vị cơ bản này thì dễ hơn nhiều
để hai bên hiểu cách phát âm của ngôn ngữ bên kia.
2. Mô tả: So sánh và đối chiếu hệ thống ngữ âm của tiếng Nhật và tiếng Việt
2.1. Phụ âm đầu
2.1.1 Phụ âm đầu trong tiếng Việt
Danh sách âm vị của phụ âm đầu âm tiết của tiếng Việt là:
(/p/) /b/ /m/ /f/ /v/ /t/ /t‘/ /d/ /n/ /l/ /s/ /z/ (/r/)


(/ʈ/ /ʂ/ /ʐ/ ) /c/ /ɲ/ /k/ /ŋ/ /x/ /ɣ/ /h/ /Ɂ/ 1
Ở đây, 3 âm vị /ʈ/, /ʂ/, và /ʐ/ được tìm ra ở các phương ngôn miền Trung và miền
Nam và đối ứng với các chữ “tr-”, “s-” và “r-”, nhưng không được tìm ra trong hội
thoại hàng ngày ở nhiều phương ngôn miền Bắc. Ở miền Bắc, các âm vị này được
phát âm giống như /c/, /s/, và /z/, đối ứng các chữ “ch-”, “x-” và “d-/gi-”. Tuy
nhiên, có nhiều trường hợp mà người ta phát âm chữ “tr-” như [ʈ-], “s-” như [ʂ-],
“gi-” như [ʐ-] và “r-” như [r-] đặc biệt ở nhà trường để phân biệt các ngữ âm này
với các âm vị /c/, /s/, và /z/.2 Có âm vị /Ɂ/ trong tiếng Việt hay không là điểm có
tranh luận.3
Âm tố /p/ chỉ được tìm ra trong một số từ vay mượn từ tiếng nước ngoài, và ở
nhiều trường hợp không phân biệt với âm vị /b/ hay /f/. Âm vị /r/ cũng xuất hiện
trong một số từ vay mượn và những trường hợp đặc biệt nêu trên. 4
Tôi cũng đề cập đến bán nguyên âm trước âm chính của tiếng Việt. Bình thường
bán nguyên âm này được bao gồm trong “vần” tiếng Việt và được phân tích cùng
với nguyên âm. Nhưng khi so sánh với ngữ âm tiếng Nhật, phân tích bán nguyên

âm cùng với phụ âm thì tiện hơn.
Các từ “oanh”, “uyên”, “quý”, “khỏe”, “hoặc”, “luật” v.v. có bán nguyên âm /w/,
và âm đầu và bán nguyên âm của các từ này có thể viết như /Ɂw-/, /Ɂw-/, /kw-/,
/xw-/, /hw-/, /lw-/.
Nhiều phương ngôn miền Trung và miền Nam có bán nguyên âm [j] đối ứng các

Các âm vị xuất hiện mang ngữ âm như theo (“~” có nghĩa là có thể thay đổi tùy
theo từng phương ngôn hay sự khác biệt cá nhân):
/b/ → [b] ~ [ɓ] ; /t‘/ → [tʰ] ; /d/ → [d] ~ [ɗ] ; /ʈ/ → [ʈ͡ʂ] ;
/ʐ/ → [ʐ] ~ [ɽ] ~ [r] ; /c/ → [c] ~ [t͡ɕ]
2
Đ. T. Thuật, tr. 159-160.
3
Đ. T. Thuật, tr. 155-156.
4
Đ. T. Thuật, tr. 157.
1


chữ “d-”, “gi-” hoặc “v-”.5
Tóm tắt lại, chúng ta có thể làm được sơ đồ âm vị như dưới :

Vô thanh,
Tắc

Môi

Răng

(Quặt


Ngạc

Ngạc

Họng

(p)

lợi
t

lưỡi)
(ʈ)

cứng
c

mềm
k

(Ɂ)

không bật hơi
Vô thanh,
Bật hơi
Hữu thanh

Mũi
Xát Vô thanh

Hữu thanh
Bên
Bán nguyên âm
(Rung)

t‘
b
m
f
v

d
n
s
z
l

ɲ
(ʂ)
(ʐ)

ŋ
x
ɣ

h

w
(r)


Ở đây, “( )” có nghĩa là âm vị đó không xuất hiện trong từ gốc thuần Việt và từ
Hán Việt hoặc trong hội thoại hàng ngày ở Hà Nội và nhiều tỉnh phía Bắc.

Và sơ đồ của tất cả ngữ âm bao gồm biến thể phương ngôn chủ yếu là như dưới:

Vô thanh,
không bật hơi
Tắc
5
H. T. Châu, tr. 147-9.

Môi

Răng

Quặt

(Lợi

Ngạc

Ngạc

Họng

lưỡi
ʈ

Ngạc)


p

lợi
t

cứng
c

mềm
k

(Ɂ)


Vô thanh,
Bật hơi
Hữu thanh
Mũi
Xát Vô thanh
Hữu thanh
Bên
Bán nguyên âm
Tắc – Xát
Rung
Hút vào

t‘
b
m
f

v

d
n
s
z
l

ɲ
ʂ
ʐ

w

h

j
ʈ͡ʂ

ɓ

ŋ
x
ɣ

t͡ɕ

r
ɗ


Với sơ đồ này, chúng ta có thể biết được không những ngữ âm mà một người
nói tiếng Việt phát âm mà còn ngữ âm quen biết mà người ta thường xuyên nghe
người sinh ra ở địa phương khác phát âm.

2. 1. 2 Phụ âm đầu trong tiếng Nhật
Danh sách âm vị của phụ âm đầu âm tiết trong tiếng Nhật là :
/p/ /b/ /m/ /w/ /t/ (/c/) /d/ /n/ /s/ /z/ /j/ /r/ /k/ /g/ /h/
Số lượng của chúng không nhiều, nhưng các phụ âm này xuất hiện với ngữ âm
đa dạng theo quy tắc.
a. Ngạc hóa
/s/ → [ɕ] ([ʃ]) / ___ /i/, /j/

(/sj/ → [ɕ] dưới cũng thế)

Ví dụ: /isi/ → [iɕi] (いし, 石,6 “đá”)
6

Bên tay trái là chữ viết thuần biểu âm trong tiếng Nhật, và bên tay phải bao gồm


/isja/ → [iɕa] (いしゃ, 医者, “bác sĩ”)
/t/ → [t͡ɕ] ([t͡ʃ]) / ___ /i/, /j/
Ví dụ: /kuti/ → [kut͡ɕi] (くち, 口, “miệng”)
/otja/ → [ot͡ɕa] (おちゃ, お茶, “trà”)
/h/ → [ç] / ___ /i/, /j/
Ví dụ: /hito/ → [çito] (ひと, 人, “người”)
/hjaku/ → [çaku] (ひゃく, 百, “trăm”)

b. Tắc-xát hóa (của âm tắc)
/t/ → [t͡s] / ___ /u/

Ví dụ: /natu/ → [nat͡su] (なつ, 夏, “mùa hè”)

c. Môi hóa
/h/ → [ɸ] / ____ /u/7
Ví dụ: /huku/ → [ɸuku] (ふく, 服, “quần áo”)

Âm vị /z/ ([+Hữu thanh], [+Lưỡi], [-Tắc], [-Môi]) có liên quan đến hiện
tượng ngạc hóa và tắc xát hóa, và xuất hiện với 4 ngữ âm [d͡z], [z], [d͡ʑ] ([d͡ʒ]), và
[ʑ] ([ʒ]). Nếu /z/ đặt giữa nguyên âm thì phát âm với âm xát, và nếu là đầu âm của
từ hay là sau âm tiết đóng thì phát âm với âm tắc-xát.
/d/ → /z/ / ___ V {+cao}

(nghĩa là không có kết hợp âm /di/ và /du/)

chữ Hán, là cách viết thông thường.
7
Trong lịch sử, âm vị /h/ từng có ngữ âm [ɸ], và sau khi biến đổi thành ngữ âm [h]
cũng còn lại âm [ɸ] trước /u/ và /w/.


/z/ → [z] / V___ /a/, V___/u/, V___/e/, V___/o/
[ʑ] / V___/i/, V___/j/
[d͡z] / [w ___, C____ và ___/a/, ___/u/, ___/e/ , ____/o/
[d͡ʑ] / [w ___, C____ và ___/i/, ___/j/

Ví dụ: /hiza/ → [çiza] (ひざ, 膝, “đầu gối”)
/zaseki/ → [d͡zaseki] (ざせき, 座席, “chỗ ngồi”)
/azi/ → [aʑi] (あじ, 味, “mùi vị”)
/bizjo/ → [biʑo] (びじょ, 美女, “đẹp gái”)
/ziko/ → [d͡ʑiko] (じこ, 事故, “tai nạn”)

/zjama/ → [d͡ʑama] (じゃま, 邪魔, “phiền hà”)

Có một số nhà nghiên cứu đặt âm vị /c/ ({-Hữu thanh}, {+Tắc xát}, {+Lưỡi})
cho ngữ âm [t͡ɕ] và [t͡s] để viết quy tắc như
/t/ → /c/ / _V {+cao}
Nhưng âm vị /c/ này là điểm đang tranh luận. Trong từ vựng thuần Nhật và từ Hán
Nhật thì không có kết hợp âm vị [ti], [tj] và [tɯ], nên không cần đặt âm vị /c/ và có
thể giải thích bằng quy tắc biến đổi. 8 Nhưng trong từ vựng mượn từ tiếng nước
ngoài thì có những kết hợp âm vị này, nên khi thảo luận chính xác thì chúng ta phải
sử dụng âm vị /c/ này.
Có nhiều người phát âm âm vị /g/ như [ŋ] nếu không phải là âm đầu từ và khu
8

Ví dụ nổi tiếng là Hattori (1960:288).


biệt với [g] ở đầu từ nên có một số nhà nghiên cứu đặt âm vị /ŋ/ độc lập với /g/.9
Ví dụ: /gogatu/ → [goŋat͡sɯ] (ごがつ, 五月, “tháng năm”)
Nhưng số người phát âm như thế càng ngày càng ít đi và trường hợp mà hai âm vị
này là đôi tối tiểu khu biệt cũng rất ít, nên nhiều nhà nghiên cứu phản đối ý kiến
này.
Âm vị /p/ xuất hiện ở bối cảnh rất hạn chế trong từ vựng thuần Nhật và từ Hán
Nhật, hầu hết là chỉ sau âm tiết đóng (sau âm /N/ hay /Q/, xem 2.3.2.). Phần lớn
trường hợp mà âm vị này xuất hiện là trong từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài và
từ tượng thanh, chính giống như âm vị /p/ trong tiếng Việt.
Ví dụ: /jaQpari/ → [jappaɾi] (やっぱり, “như tôi đã nghĩ”)
/siNpai/ → [ɕimpai] (しんぱい, 心配, “lo lắng”)
/pazjama/ → [paʑama] (パジャマ, “áo pijama”)

Âm vị /r/ được phát âm như [ɾ] (âm vỗ) giữa từ và như [ɺ] (âm bên vỗ) ở đầu từ

hay sau /N/. Trong từ vựng thuần Nhật, hầu hết /r/ được tìm ra giữa từ, và /r/ ở đầu
từ được tìm ra trong từ vựng Hán Nhật và từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài.
Ví dụ: /tori/ → [toɾi] (とり, 鳥, “con chim”)
/rijuu/ → [ɺijuː] (りゆう, 理由, “lý do”)
/kaNri/ → [kanɺi] (かんり, 管理, “quản lý”)
/razio/ → [ɺaʑio] (ラジオ, “ra-đi-ô, máy phát thanh”)

9

Ví dụ nổi tiếng là Hattori (1960:338).


Bán nguyên âm /j/ có thể kết với tất cả phụ âm. Nhưng cụm phụ âm như thế rất
ít trong từ thuần Nhật và tìm được nhiều trong từ Hán Nhật và trong từ mượn từ
tiếng nước ngoài để biểu đạt các âm [ʃ], [ʒ], [tʃ], [dʒ], [ç], [ɲ] v.v. Hầu hết bán
nguyên âm /j/ bình thường được đặt trước các nguyên âm /a/, /u/, và /o/. Chúng ta
tìm ra cách kết hợp /je/ chủ yếu trong từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài. Cách kết
hợp /ji/ không tồn tại.
Ví dụ: /kjaku/ → [kʲaku] (きゃく, 客, “khách”)
/gjuunjuu/ → [gʲuːnʲuː] (hay [gʲuːɲuː])(ぎゅうにゅう,牛乳, sữa)
/bjoosja/ → [bʲoːɕa] (びょうしゃ, 描医, “miêu tả”)
/sjuuto/ → [ɕɯːto] (シュ医ト, “sút bóng”)
< “shoot [ʃuːt]” tiếng Anh
/beezju/ → [beːʑɯ] (ベ医ジュ, “màu be”)
< “beige [bɛːʒ]” tiếng Pháp
/tjooku/ → [t͡ɕoːku] (チョ医ク, “phấn viết”)
< “chalk [tʃɔːk]” tiếng Anh
/zjuusu/ → [d͡ʑɯːsɯ] (ジュ医ス, “nước hoa quả)
< “juice [dʒuːs]” tiếng Anh
/konjaQku/ → [konʲakku] (コニャック, “cognac”)

<“cognac [koɲak]” tiếng Pháp
Bán nguyên âm /w/ bình thường không kết hợp với phụ âm khác. Nếu kết hợp
thì với /h/ để thành âm [ɸ] trong từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài, nhiều trường
hợp là để thay vì âm [f] trong tiếng nước ngoài. Có rất ít trường hợp mà /w/ kết
hợp với phụ âm /t/ (thành âm [t͡s]) và /k/. Trong từ vựng thuần Nhật và từ vựng


Hán Nhật, nguyên âm sau /w/ là /a/. Có lúc người ta phát âm trợ từ /o/ như /wo/ để
nhấn mạnh. Hầu hết kết hợp /wi/, /we/, và /wo/ được tìm ra trong từ vựng mượn từ
tiếng nước ngoài. Kết hợp /wu/ không tồn tại. Có một âm vị /β/ chỉ để phân biệt
ngữ âm như [v] trong tiếng nước ngoài với /b/, nhưng trong trường hợp nhiều
người ta phát âm giống như /b/.
Ví dụ: /hwairu/ → [ɸaiɾu] (ファイル, “file”) < “file [fail]” tiếng Anh
/kaNtwoone/ → [kant͡soːne] (カンツォ医ネ, “ca hát Ý”)
< “canzone [kantsoːne]” tiếng Ý
/βaioriN/ → [βaioɾin] (ヴァイオリン, “violon”)
(hoặc đơn gian là /baiorin/ [baioɾin] バイオリン)
< “violin [vaiolin]” tiếng Anh

Như kết luận, sơ đồ âm vị của phụ âm đầu âm tiết tiếng Nhật là như dưới:

Tắc

Môi

Răng

Lợi

Ngạc


ngạc



p

lợi
t

thanh
Hữu

b

d

g

m

n
s

(ŋ)

Họng

k


thanh
Mũi
Xát


thanh
Hữu
thanh

(β)

z

h


(Tắc-xát)



(c)

thanh
Bán nguyên âm
“Lưu âm”

w

j
r


Và sơ đồ ngữ âm của phụ âm đầu âm tiết tiếng Nhật như dưới đây:

Tắc

Môi

Răng

Lợi

Ngạc

Ngạc

ngạc



p

lợi
t

cứng
c

mềm
k


thanh
Hữu

b

d

Ɉ

g

n
s

ɕ

ɲ
ç

ŋ



m
ɸ

thanh
Hữu

(β)


z

ʑ

thanh


t͡s

t͡ɕ

thanh
Hữu

d͡z

d͡ʑ

Họng

thanh
Mũi
Xát

Tắc-xát

thanh
Bán
nguyên


w

j

h


âm
Vỗ
Bên vỗ

ɾ
ɺ

Phụ âm đầu của tiếng Việt và tiếng Nhật dường như hoàn toàn khác nhau, nhưng
khi phân tích bằng cấu tạo của các âm vị, chúng ta hiểu được một cách chính xác
về điểm giống nhau và điểm khác nhau. Điều này sẽ được nói rõ trong phần 3.

2.2. Nguyên âm
2.2.1. Nguyên âm trong tiếng Việt
Tiếng Việt có 9 cái nguyên âm đơn là:
/a/ /ɛ/ /e/ /i/ /ɤ/ /ɯ/ /ɔ/ /o/ /u/
Và cũng có 3 cái nguyên âm đôi là:
/i͜e (i͜ə)/ /ɯ͜ɤ (ɯ͜ə)/ /u͜o (u͜ə)/
/ɤ/ được phát âm như [ɤ] (sau, không tròn môi, trung bình) hay [ɘ] (giữa, không
tròn môi, trung bình). /ɯ/ được phát âm như [ɯ] (sau, không tròn môi, cao) hay [ɨ]
(giữa, không tròn môi, cao).
Vẽ sơ đồ thì như dưới:


Cao

Trước

Giữa (sau, không tròn Sau (tròn môi)

i

môi)
ɯ

u


Trung bình
Thấp
Đôi

e
ɛ
i͜e (i͜ə)

ɤ
a
ɯ͜ɤ (ɯ͜ə)

o
ɔ
u͜o (u͜ə)


2 nguyên âm /a/ và /ɤ/ có khu biệt giữa ngắn và dài khi có âm cuối.
Ví dụ:
Trước âm cuối /ŋ/, /ɤ/ dài không được đặt.
Và 2 nguyên âm /ɛ/ và /ɔ/ có khu biệt giữa ngắn và dài chỉ khi có phụ âm cuối /ŋ/
([ŋ], [ɲ], [ŋ͡m]) và /k/ ([k], [c], [k͡p]). Ở trường hợp này, âm dài không được tìm ra
nhiều, chủ yếu trong từ tượng thanh và từ vay mượn.
Ví dụ: “cảnh” /kɛ̆ŋ/ [kɛ̆ɲ] “kẻng” /kɛŋ/ [kɛŋ]
“sách” /ʂɛ̆k/ [ʂɛ̆c]

“séc” /ʂɛk/ [ʂɛk]

“xong” /sɔ̆ŋ/ [sɔ̆ŋ͡m] “xoong” /sɔŋ/ [sɔŋ]
“sóc” /ʂɔ̆k/ [ʂɔ̆k͡p]

“soóc” /ʂɔk/ [ʂɔk]

Hai bán nguyên âm /w/ và /j/ (thường được phân tích cùng với phụ âm cuối) có
thể trở thành âm cuối sau âm chính nêu trên. Nhưng âm /w/ không tiếp được sau
/u/, /o/, /ɔ/, /u͜o/, và /ɤ/ dài, và âm /j/ không tiếp được sau /i/, /e/, /ɛ/, và /i͜e/.

2.2.2. Nguyên âm trong tiếng Nhật
Tiếng Nhật có 5 nguyên âm tức là:
/a/ /i/ /u/ /e/ /o/
Trong nhiều phương ngôn bao gồm phương ngôn Tokyo, âm vị /u/ được phát âm


không tròn môi như [ɯ] ở nhiều trường hợp.
Tất cả 5 nguyên âm có khu biệt giữa ngắn và dài, cả trong âm tiết đóng và mở.
Nhưng âm dài thường được coi là hai nguyên âm liên tục như /aa/, /ii/. Có một số
nhà nghiên cứu đặt “âm vị làm dài nguyên âm” /R/,10 nhưng không phổ biên.

Tất cả 2 kết hợp nguyên âm có thể trở thành nguyên âm đôi. Nguyên âm đôi có
tính chất gần với nguyên âm dài, như trong quy tắc trọng âm cao độ (giải thích
sau)..
2.3. Phụ âm cuối
2.3.1. Phụ âm cuối trong tiếng Việt
Có một số tranh luận về phụ âm cuối như viết sau, nhưng ở đây viết một quan
điểm trong đó. Trong tiếng Việt có 6 cái phụ âm mà người ta nói được cuối âm tiết.
Tức là:
/p/ /m/ /t/ /n/ /k/ /ŋ/
Sau nguyên âm với vị trí của lưỡi trước, tức là /ɛ/, /e/, và /i/, âm cuối /k/ và /ŋ/
thay đổi thành âm [c] và [ɲ]. Và sau nguyên âm với vị trí của lưỡi sau, tức là /ɔ/,
/o/, và /u/, âm cuối /k/ và /ŋ/ thay đổi thành âm [k͡p] và [ŋ͡m]. Nhưng sau nguyên
âm đôi /i͜e/ và /u͜o/ thì không thay đổi và giữ ngữ âm [k] và [ŋ]. Điều đó là lý do mà
các nguyên âm đôi này có lúc được coi là /i͜ə/ và /u͜ə/ để thuyết minh là /k/ và /ŋ/
sau âm này không thay đổi vì vị trí lưỡi của âm /ə/ không phải là trước hay sau.
Một ngoại lệ nữa đáng nói đến là sau nguyên âm /ɛ/ dài và /ɔ/ dài. Tuy số lượng
của từ bao gồm kết hợp /ɛk/, /ɛŋ/, /ɔk/, /ɔŋ/ (chứ không phải là /ɛ̆k/, /ɛ̆ŋ/, /ɔ̆k/, /ɔ̆ŋ/)
10

Ví dụ nổi tiếng là Kindaichi (1950).


rất ít và chỉ nằm ở những từ tượng thanh và từ mượn từ tiếng nước ngoài, nhưng sự
tồn tại của âm này làm cho vấn đề cấu trúc âm tiết phức tạp hơn. Chung ta sẽ xem
về điều này ở phần sau.
Trong nhiều phương ngữ, nguyên âm và phụ âm cuối có hệ thống khác, nhưng
chúng ta không nói đến điều đó trong tiểu luận này vì đó là vấn đề quá phức tạp và
không phổ biên hay nổi tiếng trong nhà trường cả nước như trường hợp của phụ
âm đầu.


2. 3. 2. Phụ âm cuối trong tiếng Nhật

Trong tiếng Nhật có hai loại phụ âm cuối gọi là “xúc âm (soku-on, 促音)” và
“bát âm (hatsu-on, 撥音)”. Các âm vị này thường xuyên được viết là /Q/ và /N/.
Xúc âm /Q/ thường có phụ âm đầu tiếp theo (không mũi và bình thường là vô
thanh), và có ngữ âm giống nhau với phụ âm tiếp theo. Cũng được thuyết minh là
làm dài phụ âm tiếp theo.
Ví dụ: /sjuQpatu/ → [ɕɯppat͡sɯ] (しゅっぱつ, 出医, “xuất phát”)
/kiQte/ → [kitte] (きって, 切手, “tem”)
/juQkuri/ → [jukkuɾi] (ゆっくり, “chầm chậm”)
/aQsari/ → [assaɾi] (あっさり, “nhẹ nhàng”)

Bát âm /N/ cũng được phát âm bằng nhiều loại ngữ âm dựa vào âm xung quanh.
Ngay trước âm môi tắc hay mũi tức là /p/, /b/, và /m/ thì /N/ được phát âm như
[m].


Ví dụ: /zeNbu/ → [d͡zembu] (ぜんぶ, 全部, “tất cả”)
/niNmu/ → [nimmu] (にんむ, 任務, “nhiệm vụ”)

Ngay trước âm răng tắc hay mũi tức là /t/, /d/, và /n/ thì /N/ được phát âm như
[n].
Ví dụ: /haNtai/ → [hantai] (はんたい, 反医, “phản đối”)
/aNnai/ → [annai] (あんない, 案医, “hướng dẫn”)

Ngày trước âm ngạc /k/ và /g/, /N/ được phát âm như [ŋ].
Ví dụ: /saNka/ → [saŋka] (さんか, 医加, “tham gia”)
/saNgatu/ → [saŋŋat͡sɯ] (さんがつ, 三月, “tháng ba”)

Trong trường hợp khác, /N/ đuọc phát âm như âm con lưỡi mũi [ɴ] hay là mũi

hóa các âm vị xung quanh.
Ví dụ:
/hoN/ (ほん, 本, “sách”) → [hoɴ] hay [hõõ]
/iNoogo/ → [iɴoogo] hay [iĩoogo]
(いんおうご, 印医語, “ngôn ngữ Ấn-Âu”)
/zeNiN/ → [zeẽiĩ] (ぜんいん, 全員, “tất cả mọi người”)
/hoNjaku/ → [hoj̃jaku] (ほんやく, 医医, “phiên dịch”)
/jaNwari/ → [jaw̃waɾi] (やんわり, “êm dịu”)
/haNseN/ → [has̃seẽ] (はんせん, 反医, “phản chiến”)


Hai cái âm vị cuối âm /Q/ và /N/ này có một số đặc điểm chung với cuối âm
tiếng Việt. Chúng ta sẽ xem điều đó ở phần sau.

2.4. Siêu đoạn
2.4.1 Thanh điệu trong tiếng Việt
Tiếng Việt có thanh điệu điển hình. Mỗi một âm tiết có thanh điệu cố định của
mình để khu biệt nghĩa và người ta không thể đoán được dựa vào yêu tố khác nào.
Tiếng Việt có 6 loài thanh điệu. Ở đây tôi viết điệu trị bằng 5 lớp cao độ.
1) “Thanh ngang” 44
2) “Thanh huyền” 21
3) “Thanh ngã” 215 có tắc họng
4) “Thanh hỏi” 213
5) “Thanh sắc” 25
6) “Thanh nặng” 31 có tắc họng
Sơ đồ thanh vị của các thanh điệu là như dưới đây:
Thanh điệu
1
2
3

4
5
6

Âm vực
[±Cao]
+
+
+
-

Đường nét
[±Bằng]
+
+
-

[±2 Hướng]
+
+
-


2.4.2. Trọng âm cao độ trong tiếng Nhật
Tiếng Nhật cũng có hệ thống siêu đoạn cao độ để khu biệt nghĩa của từ. Đó là
trọng âm cao độ. Trong quy luật trọng âm cao độ, đơn vị cơ bản là “mora” (hoặc
“phách”, “nhịp”) chứ không phải là âm tiết. Các âm tiết với nguyên âm đơn, âm
/Q/, /N/, nguyên âm thứ hai của nguyên âm đôi, và phần sau của trường âm được
coi là một mora.
Vì thế, số âm tiết và mora là như dưới:

/hoN/ (“sách”)

1 âm tiết /hoN/ 2 mora /ho/-/N/

/gaQkoo/ (がっこう, 医校, “trường học”) 
2 âm tiết /gaQ/-/koo/ 4 mora /ga/-/Q/-/ko/-/o/
/haiku/ (はいく, 俳句, “haiku (thơ ngắn kiểu Nhật)”)
2 âm tiết /hai/-/ku/

3 mora /ha/-/i/-/ku/

/tooN/ (ト医ン, “giọng” ← “tone” trong tiếng Anh)
1 âm tiết /tooN/ 3 mora /to/-/o/-/N/
Trong mỗi một từ hay nhóm từ, các mora được phát âm với hai cao độ, cao
hay thấp, theo quy luật.
Ví dụ, trong phương ngôn Tokyo, nhóm từ 3 mora /hasi-ga/ (はしが) có 3 cách
phát âm với ý nghĩa khác nhau. Mỗi một mora được phát âm cao hay thấp: (H=cao,
L=thấp)
ha si - ga → “đũa - (chủ cách)”
H L

L

(Mô hình “1”)

(箸が)


ha si - ga → “cầu - (chủ cách)”
L H L


(Mô hình “2”)

ha si - ga → “cạnh - (chủ cách)”
L H H

(橋が)

(端が)

(Mô hình “0”)

Nếu một từ có N cái mora, có (N+1) cách thức trọng âm cao độ. Người ta mô tả
mô hình của trọng âm cao độ bằng con số. Con số đó chỉ vị trí của mora “hạt nhân”
đếm từ đầu từ. Người ta đặt quy luật trọng âm như dưới:
- Tất cả từ chỉ có một cái hay không có mora hạt nhân.
- Mora hạt nhân là H, và tất cả mora sau mora hạt nhân là L.
- Mora thứ nhất và thứ hai của từ thường có cao độ khác nhau.
Nếu không mora hạt nhân thì đó là mô hình “0”. Một số trợ từ và trợ động từ
không độc lập thường tiếp theo từ khác để thành một nhóm từ như “-ga” (chủ cách)
không có mora hạt nhân của mình và không thay đổi vị trí của từ trước. Vì vậy, ví
dụ thứ hai và thứ ba của từ /hasi/ đều có trọng âm LH, nhưng khi trợ từ “-ga” tiếp
theo thì biết được mora thứ hai là mora hạt nhân hay không.
Chúng ta bây giờ đặt một số ví dụ của từ có 4 mora để dễ hiểu (biểu hiện cách
thức cao độ của các mora khi nói các từ + “-ga” ):
Mô hình 1 HLLLL

/kamakiri/ (かまきり, “bọ ngựa”)

Mô hình 2 LHLLL


/origami/ (おりがみ, 折り紙,
“origami (nghệ thuật gắp giấy Nhật Bản)”)

Mô hình 3 LHHLL /kaminari/ (かみなり, 雷, “sấm sét”)
Mô hình 4 LHHHL /okunote/ (おくのて, 医の手,


“thủ đoạn bí mật cuối cùng”)
Mô hình 0 LHHHH /ojajubi/ (おやゆび, 親指, “ngón cái”)

Vì hầu hết quy luật âm vị học tiếng Nhật dựa vào đơn vị cơ bản là mora, có
người nghĩ là khái niệm âm tiết không cần thiết trong tiếng Nhật. Nhưng âm tiết
tiếng Nhật liên quan đến vấn đề của “mora đặc thù”.
Mora đặc thù là mora thành bằng âm vị /Q/, /N/, nguyên âm thứ hai của nguyên
âm đôi, hoặc phần sau của trường âm. Nói vẻ khác, nếu một âm tiết có nhiều hơn 1
mora thì các mora sau thứ hai là mora đặc thù.
Trong quy luật trọng âm, mora đặc thù không thể trở thành mora hạt nhân được.
Ví dụ, âm /kaN-ga/ (かんが) có hai loại trọng âm với ý nghĩa khác nhau, là LH-H
(勘が, “trực giác”-chủ cách, mô hình 0) và HL-L (医が, “cách nhìn”-chủ cách, mô
hình 1), nhưng không thể nói bằng mô hình 2, là LH-L, vì mora thứ 2 là mora đặc
thù /N/. Bởi vì quy luật trọng âm này, khái niệm âm tiết cũng quan trọng trong
tiếng Nhật.
Trong ngữ âm các phương ngữ tiếng Nhật, trọng âm cao độ có tính đa dạng
nhất. Trong nhiều phương ngữ ở khu vực Kansai như ở Kyoto, Osaka và Kobe,
không những vị trí mora hạt nhân mà còn cao độ của mora thứ nhất là tiêu chí mô
hình trọng âm. Điều này có nghĩa là quy luật thứ ba nêu trên trong phương ngữ
Tokyo không được áp dụng trong các phương ngữ này, và có mô hình nhiều hơn.
Trong một số phương ngữ phía Đông Bắc, tất cả mora trước mora hạt nhân là thấp
và sau đó là cao. Trong một số phương ngữ phía tây ở Kyushu, chỉ có hai mô hình

tức là có hạt nhân hay không, và tất cả từ có hạt nhân thì chỉ mora trước cuối cùng
là cao, và tất cả từ không có hạt nhân thì chỉ mora cuối là cao. Trong phương ngữ
Kagoshima (phía nam của Kyushu, và một trong những phương ngữ chỉ có hai mô
hình), âm tiết, chứ không phải là mora, là đơn vị cơ sở trong quy luật trọng âm.


Trong một số phương ngữ ở các tỉnh Fukushima, Ibaraki, Tochigi, và Miyazaki,
hoàn toàn không có tiêu chí khu biệt cao độ cả.
Như vậy, thanh điệu tiếng Việt và trọng âm cao độ tiếng Nhật có vẻ khác nhau
nhiều, nhưng trong phần sau, chúng ta sẽ so sánh hai cái để tìm điểm giống nhau
và khác nhau chính xác.
3. Giải thuyết: phân tích điểm giống nhau và khác nhau giữa ngữ âm tiếng
Việt và ngữ âm tiếng Nhật
Trong phần này, chúng ta phân tích và so sánh ngữ âm để tìm cách học ngữ âm
tiếng của nhau dễ hơn.
3.1. Phụ âm đầu và bán nguyên âm
Ngoài ra các âm chỉ xuất hiện trong từ vựng vay mượn, cách phát âm đặc biệt
(như trong nhà trường v.v.), và nhiều phương ngôn không được coi là tiêu chuẩn,
âm mà cả hai ngôn ngữ có chung là:
[b] [m] [w] [t] [d] [n] [s] [z] [t͡ɕ] [k] [ŋ] [h] (12 cái)
Âm chỉ tiếng Việt có là:
[f] [v] [tʰ] [l] [c] [ɲ] [x] [ɣ] (8 cái)
Âm chỉ tiếng Nhật có là:
[ɸ] [t͡s] [d͡z] [ɾ] [ɺ] [ɕ] [ʑ] [d͡ʑ] [ç] [j] [g] (11 cái)
Nếu bao gồm các âm xuất hiện trong từ vựng vay mượn, cách phát âm đặc
biệt,và nhiều phương ngữ, thì âm có chung là:
[p] [b] [m] [w] [t] [d] [n] [s] [z] [t͡ɕ] [j] [k] [ŋ] [h] (14 cái)
Âm chỉ tiếng Việt có là:



[f] [v] [ɓ] [tʰ] [l] [r] [ɗ] [ʈ] [ʂ] [ʐ] [ʈ͡ʂ] [c] [ɲ] [x] [ɣ] (15 cái)
Âm chỉ tiếng Nhật có là:
[ɸ] [β] [t͡s] [d͡z] [ɾ] [ɺ] [ɕ] [ʑ] [d͡ʑ] [ç] [g] (11 cái)
Với một góc nhìn thì ta thấy phụ âm đầu của tiếng Việt và tiếng Nhật không
giống nhau, nhưng chúng ta có thể nói là hai ngôn ngữ này đều có đối lập giữa hữu
thanh và vô thanh (không giống như tiếng Hàn Quốc), và giữa tắc và xát (không
giống như những ngôn ngữ nhóm Polynesia). Vì hệ thống cơ bản này không khác
nhau, nên những khó khăn về sự khác biệt phát âm thì dễ hơn để vượt qua.
Khi người nói tiếng Việt học tiếng Nhật, trước hết, nếu người ta biết cách phát
âm phụ âm đầu trong phương ngữ chủ yếu và phân biệt được [z], [ʐ] và [j], [s] và
[ʂ] thì học ngữ âm tiếng Nhật dễ hơn nhiều. Tuy phát âm hoàn toàn giống như
người nói tiếng Nhật mẹ đẻ, nhưng nếu đối ứng các ngữ âm như dưới thì có thể
phân biệt các ngữ âm đầy đủ:
[ɸ] ← [f]
[β] ← [v]
[d͡z] ← [z] (vì [d͡z] và [z] chỉ là hai cách xuất hiện của một âm vị /z/)
[ɾ] [ɺ] ← [l] (hai âm này đều là âm vị /r/)
[ɕ] ← [ʂ]
[ʑ] [d͡ʑ] ← [ʐ]
[g] ← [ŋ] [ɣ] ([g] và [ŋ] đều là âm vị /g/)
Âm [ç] thì khó, nhưng vì đó là âm ngạc hóa của /h/, nên một giải pháp là nói
như [hia] [hi] [hiu] [hio]. Nhưng nó không phân biệt được /hio/ ([çio]) và /hjo/
([ço]).
Âm [t͡s] không có phương pháp gì ngoài ra luyện tập để nói được. Trong từ
vựng thuần Nhật và Hán Nhật thì thường tiếp với nguyên âm /u/ và không có âm


[tɯ] nên một giải pháp là nói như [tɯ], nhưng trong từ vựng vay mượn có một số
từ có âm [tɯ] nên không phân biệt được với [tsɯ].
Khi người nói tiếng Nhật học ngữ âm tiếng Việt thì có một số vấn đề về sự

phân bố tương bổ (bù nhau). Ví dụ, tiếng Nhật có âm [ɸ] và có thể phân biệt với
[h] trước các nguyên âm /a/, /i/, /e/, /o/ (/ha/=[ha], /hwa/=[ɸa]), nhưng trước
nguyên âm /u/ thì thường nói [ɸ] và không thể nói [h] được. Vì thế, hầu hết không
có vấn đề gì về phát âm [h] trong tiếng Việt trừ chỉ trước nguyên âm /u/, /ɯ/, và
bán nguyên âm /w/. Chẳng hạn, khó phân biệt từ “hung” và “phung”, “hương” và
“phương”, “huy” và “phi”
Giống như thế, âm [nj] tiếng Nhật có thể thay vì âm [ɲ] tiếng Việt, nhưng
trước nguyên âm /i/ thì khó phân biệt. Ví dụ, “niên” và “nhiên”.
Trước đây tiếng Nhật không có âm [ti] và phát âm [t͡ɕi] thay vì đó trong từ
vựng vay mượn, nhưng hiện nay nhiều người nói tiếng Nhật có thể phát âm âm [ti]
và nói như thế trong từ vựng vay mượn. Vì thế, vốn là có vấn đề giữa [t] và [t͡ɕ]
trước /i/ khi phát âm tiếng Việt, nhưng hiện nay không có.
Âm [ɾ] hay [ɺ] có thể thay vì [l], âm [g] có thể thay vì âm [ɣ] và âm [β] có thể
thay vì âm [v], nhưng sẽ khó phân biệt với âm [r], [ŋ], và [b].
Âm [tʰ] và [x] thì hoàn toàn không có trong tiếng Nhật và phải luyện tập.
Như vậy, phụ âm tiếng Nhật và tiếng Việt có vẻ khác nhau, nhưng những âm
thật cần luyện tập là [t͡s] trong tiếng Nhật và [tʰ] và [x] trong tiếng Việt, và âm khác
thì có âm có thể thay vì đó.
3.2. Nguyên âm
Người nói tiếng Việt có thể phát âm được tất cả 5 nguyên âm tiếng Nhật [a], [i],
[e], [o], và [u] (hay [ɯ]). Ngược lại, người nói tiếng Nhật cần luyện tập phát âm [ɛ]
[ɔ] [ɤ] và sự phân biệt giữa [u] và [ɯ]. Vì số lượng của cả mức độ cao và mức độ


vị trí của lưỡi đều khác nhau giữa hai ngôn ngữ, hệ thống nguyên âm của hai ngôn
ngữ thì hoàn toàn khác nhau.
Về đối lập giữa nguyên âm ngắn và dài và về nguyên âm đôi thì chúng ta sẽ
xem ở 3.4.
3.3. Phụ âm cuối
Tất cả phụ âm cuối [m], [n] và [ŋ] đều là cách xuất hiện của bát âm /N/ và [p],

[t], và [k] đều là cách xuất hiện của xúc âm /Q/. Cho nên, nếu người nói tiếng Nhật
nhận thức cách thay đổi của âm vị nay trước các phụ âm đầu của âm tiết tiếp theo,
và luyện tập phát âm không dựa vào phụ âm đầu tiếp theo, thì phát âm được những
phụ âm cuối trong tiếng Việt này. Cho người nói tiếng Việt, lựa chọn một trong
[m], [n] hay [ŋ] cho /N/ và trong [p], [t], hay [k] cho /Q/ thì được. Nếu hiểu biết
các điều kiện thay đổi thì tốt hơn, nhưng không cần thiết, vì tiếng Nhật không phân
biệt các âm này.
Ở đây tôi nói về điểm chung của các âm vị /N/ và /Q/ tiếng Nhật và các âm
vị /ŋ/ và /k/ tiếng Việt. Tất cả âm vị này chỉ được chỉ định mấy cái đặc trưng đó, và
đặc trứng khác, chủ yếu là vị trí cấu âm, thì chỉ định theo âm xung quanh.
/N/ [+ Mũi] → [± Cản trở] / ____ V, C [ Tắc]

[± Môi]
→ [± Lưỡi]
[± Ngạc]

[± Môi]
/ ____ C [± Lưỡi]
[± Ngạc]


Sự tương đồng giữa tiếng Nhật và tiếng Việt

Hôm nay thử suy nhĩ về sự tương đồng giữa tiếng Nhật và tiếng Việt. Tất nhiên đây cũng là ý kiến chủ quan nên xin mời bà con cùng tranh luận.

Sự khác nhau giữa tiếng việt và tiếng nhật

– Ảnh hưởng của chữ Hán: Ai cũng biết Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam là những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nặng Nhất. Một điểm chung là cả ba nước đều bị ảnh hưởng của chữ Hán. Trong tiếng Viết dù không còn dùng chữ Hán nữa thì vẫn còn âm Hán Việt và từ Hán Việt. Trong tiếng Nhật thì hiện nay chữ Hán đóng vai trò rất quan trọng. Nếu không có chữ Hán thì có lẽ tiếng Nhật cũng không thể phát triển hay tồn tại. Do ảnh hưởng của chữ Hán có những điểm tương đồng nên người Việt học tiếng Nhật cảm thấy nhiều điểm thuận lợi. Có nhiều từ Hán có cách phát âm và nghĩ tương tự trong cả tiếng Nhật và tiếng Việt. Ví dụ: Tiếng Việt có “Quốc Ca” thì tiếng Nhật là 国歌 (kokka) hay “Quốc Kỳ” tiếng Nhật cũng có 国旗(kokki).

– Số đếm: Tiếng Việt có cách đếm số trên 10 bằng cách ghép số hàng chục và hàng đơn vị với nhau. Ví dụ: 15 = là sự kết hợp của số 10 (hàng chục) và số 5 (hàng đơn vị). Tượng tự như vậy trong tiếng Nhật cũng có 十五 cũng là sự kết hợp của 十 và 五. Ngoài ra, nhiều người Việt học tiếng Nhật cảm thấy khó khi phải nhớ hệ thống đơn vị đếm của tiếng Nhật như là ひとつ、二つ(1 cái, 2 cái v.v…). Tuy thế, nếu bạn để ý so sánh thì sẽ thấy rằng trong tiếng Việt cũng có 1 con, 1 cái, 1 tấm, 1 mảnh v.v…. Có lẽ đây cũng là điểm tương đồng khá lớn giữa tiếng Việt và tiếng Nhật!

– Cách nói tắt: Có một nhà nghiên cứu tiếng Nhật đã chỉ trích ra rằng sinh viên Trung Quốc khi được hỏi là 川端を読みましたか?(Em đã đọc Kawabata chưa)? Thì không hiểu câu hỏi là gì. Tất nhiên câu này có ý hỏi là “Em đã đọc các tác phẩm của Kawabata chưa?”. Có lẽ nếu khi được hỏi câu tương tự thì sinh viên Việt Nam sẽ hiểu ra ý của người hỏi. Lý do là vì trong tiếng Việt cũng có cách nói tương tự. Hay trong tiếng Nhật có câu nói hay được trích dẫn là 私はうなぎです( Dịch sát nghĩa thì sẽ là “tôi là con lươn”)Nhưng thực tế đây là cách nói khi người Nhật vào nhà hàng và ý nói “tôi chọn món lươn”. Để ý kỹ chúng ta sẽ thấy rằng trong tiếng Việt cũng ít nhiều sử dụng cách nói này.

– Lễ nghĩa: Nhiều người Việt vẫn cho rằng hệ thống kính ngữ của tiếng Nhật khó học. Điều này quả không sai. Tuy vậy, trong tiếng Việt không hẳn là không có kính ngữ. Hãy thử nhìn vào đạt từ nhân xưng ngôi thứ nhất ta có “Tôi”, “tớ”, “ông”, “em” …Tùy tình huống mà sẽ được sử dụng một cách linh họat. Cách sử dụng kính ngữ trong tiếng Nhật cũng tương tự. Nó tùy vào hoàn cảnh mà được người nói lựa chọn.

Nói tóm lại là nếu bạn chịu khó so sánh với tiếng Việt một chút xíu thì việc học tiếng Nhật của bạn sẽ đơn giản hơn nhiều.

Viêt-SSE sưu tầm

Xem thêm bài viết liên quan
  • Tự học tiếng Nhật hữu ích với Smart phone
  • HỌC NÓI TIẾNG NHẬT TỰ NHIÊN
  • KHÁM PHÁ 7 GIÁO TRÌNH “LUYỆN” TIẾNG NHẬT BỔ ÍCH
  • Cách phân biệt 「ぎみ」「げ」「がち」「っぽい」
  • CÁCH NÓI VÀ ĐÁP LẠI LỜI CẢM ƠN TRONG TIẾNG NHẬT
  • NHỮNG CÂU NÓI TRONG TIẾNG NHẬT TRÊN BÀN NHẬU
  • HỌC CÁCH DIỄN TẢ SỰ ĐỒNG Ý TRONG TIẾNG NHẬT
  • 100 TỪ VỰNG CHO NGƯỜI MỚI BẮT ĐẦU
  • CÁCH TỰ GIỚI THIỆU BẢN THÂN BẰNG TIẾNG NHẬT ĐƠN GIẢN
Xem thêm các chủ đề: học tiếng Nhật
Tweet

Bài viết cùng danh mục

  • Những từ có nghĩa giống nhau trong tiếng Nhật
  • Từ vựng khi đi tàu, tra tàu ở Nhật
  • Tên các chức danh trong công ty Nhật Bản
  • 5 bí kíp để “giữ lửa” học tiếng Nhật bền lâu
  • Từ vựng tiếng Nhật khiến bạn cảm thấy tiếng Nhật thật đẹp
  • Cách học từ vựng tiếng Nhật hiệu quả nhất
  • Tự học tiếng Nhật hữu ích với Smart phone
  • HỌC NÓI TIẾNG NHẬT TỰ NHIÊN
  • KHÁM PHÁ 7 GIÁO TRÌNH “LUYỆN” TIẾNG NHẬT BỔ ÍCH
  • Những cách chúc mừng sinh nhật bằng tiếng Nhật

Thứ nhất, chữ cái tiếng Nhật và tiếng Việt chịu ảnh hưởng từ chữ Hán.


Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam là 4 quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn hóa của Trung Hoa nhiều nhất, từ truyền thống lễ hội đến ngôn ngữ. Cả 4 nước đều chịu ảnh hưởng rất nhiều về chữ Hán tự. Hiện nay tiếng Việt đã không còn dùng Hán tự làm chữ viết nữa, nhưng vẫn còn tồn tại cách phát âm và từ vựng Hán Việt. Trong khi đó, tiếng Nhật vẫn chịu ảnh hưởng về ngôn ngữ Trung Hoa rất nhiều. Đặc biệt là bảng chữ cái tiếng Nhật cũng có đến 3 bảng với 1 bảng dành riêng cho chữ Kanji, hay còn gọi là Hán tự cổ. Nếu để ý, chúng ta có thể nhận thấy rằng đa số từ vựng tiếng Nhật được dùng trong đời sống hàng ngày đều chủ yếu là chữ Hán.

Thứ hai, viết tắt chữ cái tiếng Nhật và tiếng Việt.


Nếu bạn chăm đọc sách báo bằng tiếng Nhật do người bản xứ viết, nhất là tiểu thuyết, truyện tranh sẽ nhận thấy rằng trong văn bản giao tiếp thường ngày hay giản lược rất nhiều câu chữ để rút gọn câu. Những trường hợp viết tắt chủ yếu là loại bỏ động từ trong câu. Trong khi đó tiếng Việt cũng có nhiều trường hợp sử dụng cách viết này khi diễn tả lại những đoạn đối thoại nhằm giúp chúng trở nên tự nhiên và “dân dã” hơn.
Sự khác nhau giữa tiếng việt và tiếng nhật

Xem Thêm : Chương trình học tiếng Nhật trực tuyến hiệu quả

Giải đáp câu hỏi của bạn

Q.
A.

Ôn tập những bài có liên quan: