Phạm ngọc thảo là ai

Thầm lặng đi thẳng vào lòng địch

Trong cuốn sách “Những chiến công thầm lặng” trưng bày tại Bảo tàng Tổng cục II, hồ sơ về Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân, Phạm Ngọc Thảo được đánh số 15 với những thông tin ngắn gọn nhưng đủ sức góp phần trả lời cho những ai tò mò về cuộc đời và sự nghiệp của ông.

Phạm ngọc thảo là ai
Đại tá Phạm Ngọc Thảo

Đại tá Phạm Ngọc Thảo sinh năm 1922, tại tỉnh Long Xuyên. Ông là con thứ chín nên còn có tên gọi khác là Chín Thảo.

Đại tá Phạm Ngọc Thảo tham gia cách mạng năm 1945.Năm 1946, ông được cử ra Bắc học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1). Sau khi tốt nghiệp khóa 1 ở trường này, ông lập tức trở về miền Nam.

Cuối năm 1947, được cấp trên giao làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ (cơ quan tình báo của ta). Với tinh thần trách nhiệm, trong một thời gian ngắn, ông đã thống nhất được các lực lượng tình báo toàn Nam Bộ.

Năm 1949, ông được điều sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 chủ lực Khu 9, tiểu đoàn đã chiến đấu nhiều trận thắng lợi lớn, góp phần mở rộng vùng giải phóng.

Sau Hiệp định Geneva 1954, ông nhận nhiệm vụ ở lại miền Nam, với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập đi sâu, leo cao vào chế độ ngụy quyền miền Nam, phục vụ yêu cầu tình báo chiến lược.

Bằng những hoạt động khéo léo và đầy biến hóa của mình, tranh thủ những yếu tố tranh tối tranh sáng đầy bất ổn của chính trường Sài Gòn, chiến sĩ tình báo Phạm Ngọc Thảo đã xây dựng được cho mình vị trí khá nổi bật trong xã hội với những mối quan hệ thượng lưu đa dạng và rộng rãi.

Nhờ trí thông minh và kiến thức uyên bác, Phạm Ngọc Thảo được trí thức Sài Gòn hoan nghênh và anh em Ngô Đình Diệm tin dùng. Chính Ngô Đình Diệm đích thân phong tặng Phạm Ngọc Thảo cấp bậc trung tá và cử làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre).

Những năm làm tỉnh trưởng, với bình phong bất lợi nhưng ông đã cung cấp nhiều tin tức, tài liệu liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu, thả hơn 2.000 tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân “tảo thanh” của địch vào chỗ không người. Những đóng góp này của Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã góp phần quan trọng vào việc bảo toàn lực lượng cách mạng, góp phần thắng lợi của phong trào Đồng Khởi Bến Tre.

Chuyên gia đảo chính

Những năm 1964-1965, là người có ảnh hưởng lớn đối với chính trường Sài Gòn, Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã tham gia, tổ chức hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển nền chính trị miền Nam. Các cuộc đảo chính này đã gây mất ổn định nghiêm trọng chế độ ngụy Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam.

Phạm ngọc thảo là ai
Đại tá, tỉnh trưởng Bến Tre Phạm Ngọc Thảo.

Sau hai cuộc đảo chính bất thành, mặc dù cấp trên yêu cầu rời khỏi Sài Gòn nhưng Đại tá Phạm Ngọc Thảo vẫn quyết trụ lại để tiến hành cuộc đảo chính cuối cùng.

Việc lớn không thành, ông bị bắt và bị tra tấn rất dã man, tuy nhiên, ông không để lộ tung tích của mình. Cay cú trước khí phách hiên ngang của người chiến sỹ cộng sản, địch đã ra tay giết hại. Ông mất vào đêm 17/7/1965 khi mới 43 tuổi. Cho đến lúc hy sinh, không ai biết ông là một chiến sỹ tình báo cộng sản.

Năm 1995, Đại tá Phạm Ngọc Thảo được Đảng, Nhà nước truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân và quân hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Ông Trần Bạch Đằng, nguyên Phó trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam từng nhận xét rằng, các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến.

Đại tá Phạm Ngọc Thảo được đánh giá là nhà tình báo đặc biệt có một không hai.

Sau này, trong dòng đề tựa trong cuốn Ván bài lật ngửa, nhà văn Trần Bạch Đằng, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý, đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. (Thảo) và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng".

Nhà văn Trần Bạch Đằngđã sử dụng chính hình tượng của Đại tá Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do cố diễn viên Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm).

Mời bạn đọc xem thêm video: Rùng mình với con trai 12 tuổi đâm chết cha ruột rồi dựng hiện trường giả | THDT


Thu Hà (TH)

Phạm ngọc thảo là ai
Đại tá Phạm Ngọc Thảo cùng vợ và diễn viên Sandra Dee, tại Universal Studio, USA.

Nhà báo Lý Nhân: Nói có sách mách có chứng

Nhà báo Lý Nhân (sinh năm 1936) đang hoàn thành cuốn sách về anh hùng Phạm Ngọc Thảo với tựa Sống đảo chính, Chết anh hùng. Để hoàn thành cuốn sách này, tác giả Lý Nhân vừa là nhân chứng sống cùng thời, vừa gặp trực tiếp người trong cuộc và thông qua sách báo từng viết về anh hùng Phạm Ngọc Thảo.

Năm 2018, nhà báo Lý Nhân đã có chuyến đi Mỹ gặp gỡ một số nhân chứng và tìm được thêm tài liệu để viết về nhân vật. Sau chuyến đi này, ông đã nhận được thư tay của bà Phan Thị Nhiệm, vợ của Anh hùng Phạm Ngọc Thảo, với nội dung rất kỳ vọng cuốn sách sẽ được in trong năm 2019. Bà viết: “Rất mừng vì một chiến hữu của chồng tôi còn sống và khỏe mạnh”.

Anh hùng Phạm Ngọc Thảo từng được tiểu thuyết hóa thành nhân vật Nguyễn Thành Luân của tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý (tức nhà báo Trần Bạch Đằng) và được chuyển thể thành bộ phim cùng tên Ván bài lật ngửa do nghệ sĩ Lê Hoàng Hoa đạo diễn, cuốn hút người xem một thời.

Anh hùng Phạm Ngọc Thảo trong tiểu thuyết và phim có khác gì với nhân vật trong sách sắp tới của tác giả Lý Nhân, đó là điều mong chờ của người đọc.

Nhà báo Lý Nhân tên thật Phan Kim Thịnh, sinh tại tỉnh Hà Nam. Năm 1954 ông theo gia đình di cư vào Nam. Sau khi học xong trung học vào năm 1959, ông chọn nghề báo và sống với nghề cho đến nay.

Nhiều người hoạt động văn nghệ tại miền Nam trước 1975 biết Báo Quê hương do ông Ngô Đình Nhu chủ trương. Lý Nhân làm Báo Quê hương với chân thư ký quèn, ngồi trực để nhận bài, rồi đem bài giao cho nhà in. Ngoài ra, ông còn tiếp khách đến đưa bài và trả tiền nhuận bút cho các tác giả. Ở đây, ông được gặp nhiều nhân vật như Phạm Xuân Ẩn (làm ở Việt tấn xã và Hãng thông tấn Reuters), Trần Đại Minh (làm ở Hãng thông tấn AFP)... Khi ở Báo Quê hương, mọi người không nghi ngờ nhau là người đối lập hay cộng sản.

“Với anh Phạm Xuân Ẩn, đôi lúc anh em đùa nói: anh Ẩn là dân Mỹ, là người của Mỹ, vì anh Ẩn nói hay viết cái gì bọn Mỹ cũng tin và đánh giá cao”, nhà báo Lý Nhân kể. Báo Quê hương còn có sự cộng tác của Nguyễn Phan Châu (tức Tạ Chí Diệp), Vũ Hạnh, Sơn Nam, Nguyễn Nguyên (Nguyễn Ngọc Lương)…

Năm 1962, Báo Quê hương giải tán, Phan Kim Thịnh chạy giấy phép ra tờ tạp chí Văn học làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Nhà báo Lý Nhân nhớ lại: “Nhiều số Văn học theo chủ đề về các văn nghệ sĩ miền Bắc đã bị tịch thu, với nội dung họ ghi trong giấy mời là truy tố ra tòa án về cái tội: Tuyên truyền và đề cao các văn nghệ sĩ cộng sản miền Bắc”.

Có thể nói, nhà báo Lý Nhân - Phan Kim Thịnh là chứng nhân của một thời kỳ khi ông trực tiếp chứng kiến nhiều sự kiện thu hút sự quan tâm của dư luận khi đó. Trước năm 1975, những vụ tòa án xử các vụ như xử chém đầu tướng Ba Cụt, xử bắn Ngô Đình Cẩn…, ông đều tới chứng kiến, chụp ảnh, ghi âm để làm tư liệu khi cần. Đó là lý do khiến sau này ông có những tư liệu sống động để viết nên những bài báo và những cuốn sách mà bạn đọc biết đến.

Chính trường miền Nam một thời, những “đệ nhất, đệ nhị” phu nhân với các câu chuyện hậu trường luôn hấp dẫn người đọc. Nhà báo Lý Nhân cũng có những cuốn sách về Nam Phương hoàng hậu - vợ vua Bảo Đại, về Trần Lệ Xuân - vợ ông Ngô Đình Nhu và ông đang chuẩn bị in 2 cuốn về bà Nguyễn Thị Mai Anh - vợ ông Nguyễn Văn Thiệu và bà Đặng Tuyết Mai - vợ cũ ông Nguyễn Cao Kỳ.  

Nhà báo Lý Nhân cho biết: “Cách nay hơn 10 năm, bà Đặng Tuyết Mai về Sài Gòn mở quán Phở Ta trên đường Lê Quý Đôn. Tôi có rủ bạn đến ăn, bà Mai biết tôi đã mời tôi nói chuyện viết hồi ký cho bà. Tôi trả lời rằng, nếu có viết sẽ viết theo nhận định của tôi về bà Mai thông qua những gì tôi biết, vì xưa nay tôi không viết theo “toa đặt hàng” của bất kỳ nhân vật nào để kiếm danh hay kiếm tiền”.

Chính vì luôn giữ mình ở tư thế không viết theo các “toa đặt hàng” của các nhân vật, mà luôn đứng ở tư thế nhân chứng hoặc đi tìm trong tài liệu sách báo và gặp gỡ trực tiếp người trong cuộc, nên rất nhiều cuốn sách đứng tên Lý Nhân - Phan Kim Thịnh có một giá trị tin cậy trong dòng chảy bất tận của thời gian.

Hoàng Nhân

sggp.org.vn  Thứ Hai, 4/3/2019 09:07

Chú tôi, đại tá Albert Phạm Ngọc Thảo qua hồi ức của gia đình

Mark Tran

Viết cho BBC Tiếng Việt

Khi chúng tôi gần đến bảo tàng cách mạng ở Bến Tre, một tòa nhà cổ thời thuộc địa Pháp, tôi có cảm giác quen thuộc kỳ lạ. Tôi nhận ra mình đã đến đây, từ lâu lắm.

Cùng một vài người thân, tôi đến Bến Tre vì nghe nói một phần bảo tàng dành trưng bày về chú tôi, Phạm Ngọc Thảo, còn được gọi là Albert, cựu đại tá quân đội miền Nam Việt Nam.

Được nhiều người ngưỡng mộ vì sự nhanh trí hài hước, tự trọng, tử tế với cấp dưới, và cũng bị nhiều người nghi ngờ, danh tiếng của ông Thảo đã tăng lên từ cái chết của ông trong thời chiến. Trong một diễn biến khó tin, ông sau này còn được đảng cộng sản vinh danh vì "thành tích" chống chính quyền Sài Gòn.

Năm 1995, 30 năm sau cái chết của ông, Hà Nội công nhận ông là Anh hùng lực lượng vũ trang. Thi hài của ông được đặt ở một nghĩa trang liệt sĩ, ngoại vi thành phố Hồ Chí Minh.

Theo lời của Đảng, ông đã là điệp viên kép thời chiến, phá hoại chính quyền Sài Gòn.

Thời đó, người Mỹ, trong các điện tín mật, mô tả ông Thảo là "điệp viên rành nghề và lâu năm".

Cũng đúng thôi. Ông tham gia đảo chính 1963 lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Chính biến này đưa đất nước vào vòng xoáy bất ổn, tình hình quân sự thì xấu đi. Hai năm sau, Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson có quyết định gửi lục quân vào Việt Nam, mở đầu 10 năm Mỹ can thiệp quân sự dẫn tới thất bại ngoại giao tệ hại.

Trong cuộc đảo chính tổng thống Diệm, ông Thảo đã lên đài phát thanh loan báo cuộc lật đổ, và hứa hẹn dân chúng rằng họ sẽ sớm được mua gạo, nước mắm ở chợ.

Ông Thảo đã gọi điện cho ông Diệm kêu gọi tổng thống đầu hàng.

Sau năm 1963, ông Thảo lại âm mưu chống người kế nhiệm ông Diệm, tướng Nguyễn Khánh. Đảo chính 1965 thất bại vì ông Khánh kịp bay ra khỏi sân bay Tân Sơn Nhứt khi xe tăng phiến quân kéo vào.

Nhưng ông Khánh sau đó phải từ chức, được thay bằng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu.

Ông Thảo bị kết án tử hình vì cuộc đảo chính chống ông Khánh. Lần này, ông hết may mắn. Ông bị bắt giữ, tra tấn tới chết. Ông chết ở tuổi 43 vào tháng Bảy 1965.

Dưới thời ông Diệm, ông Thảo không chỉ là kẻ âm mưu đảo chính. Ông còn giúp phá hoại chương trình ấp chiến lược. Chương trình này vốn mất lòng dân, nhưng ông Thảo cứ kêu gọi các tỉnh trưởng và ông Diệm tiếp tục để gia tăng bất mãn chống chế độ.

Trong thời chiến, ông Thảo có lúc ngắn ngủi từng là tỉnh trưởng Bến Tre, khi đó có tên Kiến Hòa. Chính tại đây, ông Thảo khắc sâu danh tiếng là một trong những chỉ huy giỏi nhất miền Nam khi chống Việt Cộng. Sau khi ông tới vùng này, chiến sự giảm bớt, thế là ông được cho là có công đè bẹp giặc.

Sau này người ta mới biết hóa ra ông có thỏa thuận ngầm với Việt Cộng để ra vẻ là ông đã bình định tỉnh này thành công. Câu chuyện thành công đó khiến ông được sự quan tâm của các nhà báo ảnh hưởng như Joseph Alsop và ông trùm chống nổi dậy Robert Thompson.

Chú Thảo của tôi đã từng sống trong ngôi nhà mà nay là bảo tàng ở Bến Tre.

Tôi nhớ một lần, anh trai Pierre và tôi đến thăm chú Thảo. Ông dẫn chúng tôi đi thuyền - lúc ấy chắc tôi khoảng tám tuổi.

Tôi nhớ chú hỏi anh tôi có thích ăn sầu riêng không.

Từ ban công, chú chỉ vào khu rừng.

"Việt Cộng ở đó," ông nói.

Gần 60 năm đã qua. Hôm nay, chúng tôi đi theo một tour của nhân viên bảo tàng.

Đại tá Phạm Ngọc Thảo cùng vợ và diễn viên Sandra Dee, tại Universal Studio

Một phòng ở trên dành để trưng bày về ông Phạm Ngọc Thảo. Có bức hình ông Thảo và vợ, Phạm Thị Nhiên, cùng ngôi sao Hollywood Sandra Dee.

Lại có bức hình ông Võ Viết Thanh, người khi còn trẻ định ném lựu đạn để giết ông Thảo.

May cho ông Thảo, lựu đạn không nổ. Ông thả Thanh đi với lý do chỉ là trẻ con nóng tánh.

Ông Thanh không phải là người duy nhất bị ông Thảo lừa. Sau chiến tranh, nhiều nhà báo Mỹ nổi danh như Stanley Karnow và Robert Shaplen ngạc nhiên là họ đã bị viên đại tá miền Nam lừa phỉnh.

Trong phòng có nhiều câu trích dẫn ca ngợi ông Thảo, như của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Người hướng dẫn nói ông Kiệt xem ông Thảo là độc nhất vô nhị trong số điệp viên nhị trùng của miền Bắc, vì ông đã phá hoại chính thể miền Nam, đặc biệt qua hai cuộc đảo chính.

Lời của ông Trần Bạch Đằng. Ông Đằng sau này viết sách Ván bài lật ngửa, được cho là lấy cảm hứng từ Phạm Ngọc Thảo

Nghe nói ông Thảo chỉ báo cáo cho Lê Duẩn, tổng bí thư tương lai. Hai người có quan hệ thân thiết trong thời chống Pháp.

Nhân viên bảo tàng nói họ đang xây dựng kho tư liệu về ông Thảo và muốn liên lạc những ai biết ông.

Tôi thấy lạ vì hẳn phải có cả kho tài liệu ở Hà Nội. Ông Thảo tham gia kháng chiến chống Pháp ngay từ 1945 trước khi tham gia tình báo. Với ngần ấy năm làm cho Việt Minh, hẳn phải có nhiều tư liệu trong kho chính phủ.

Một số nhà bình luận tự hỏi vì sao phải mất ngần ấy năm Hà Nội mới công nhận ông Thảo là Anh hùng.

Edward Miller từng viết trong sách Misalliance rằng ngay cả bây giờ, người ta vẫn không rõ về nghị trình thực của ông Thảo. Miller ghi nhận rằng Đảng Lao Động Việt Nam chỉ mô tả sơ sài về hoạt động điệp báo của ông Thảo, trái hẳn cách họ viết về các điệp viên cộng sản nổi danh khác.

Một thành viên gia đình thì tin rằng thái độ của ông Thảo với miền Bắc thay đổi theo thời gian, và ông trở nên thiện cảm với ông Diệm. Có những ghi chép nói rằng ông Thảo đã bỏ nhiều giờ nói chuyện với tổng thống, cố gắng cứu ông Diệm và Nhu trong đảo chính 1963. Người trong gia đình này cũng tin rằng âm mưu ám sát Thảo khi còn làm tỉnh trưởng Bến Tre thực ra là do ai đó hay phe nào đó trong đảng cộng sản thực hiện, vì ghen tị hay nghi ngờ rằng ông Thảo không còn trung thành.

Người này nói: "Ông Thảo cho rằng cần đánh Mỹ nhưng không phải là chiếm miền Nam."

Nhưng nhiều năm sau khi ông Thảo chết, miền Bắc lại gọi ông là Anh hùng.

Người trong gia đình này lại giải thích: "Giống như bóng đá, khi anh đá giỏi, đội nào cũng muốn anh gia nhập."

Nếu thật sự là như vậy, ông Thảo sẽ không phải là người duy nhất trong hàng ngũ người miền Nam chiến đấu cho miền Bắc và rồi nghi ngờ đồng chí miền Bắc.

Hình chụp ở bảo tàng Bến Tre

Điều khiến ông Thảo trở nên hấp dẫn là việc người ta khó chỉ ra sự trung thành của ông ở đâu. Có vẻ như ông sống cuộc đời nhị trùng, không được bên nào tin tưởng. Đây cũng là số phận của Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn được phong anh hùng năm 1996, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc, mất một năm gửi đi học tuyên truyền về chủ nghĩa Marx-Lenin.

Theo Larry Berman viết trong sách Perfect Spy, ông Ẩn không phải là người hâm mộ hệ thống cộng sản.

Một người anh em của ông Phạm Ngọc Thảo, Gaston, từng là đại sứ Hà Nội ở Đông Đức, cũng chỉ trích chính sách cộng sản sau khi ông rời Việt Nam sang Pháp.

Những người biết ông Thảo, như Phạm Xuân Ẩn và Trương Như Tảng, gọi ông Thảo là người yêu nước chứ không phải dân ý thức hệ. Họ nói mục tiêu của ông là độc lập chứ không phải thanh lọc tư tưởng.

Chính ông Thảo từng nói với nhà báo Anh Denis Bloodworth: "Chín phần mười những ai gia nhập Việt Minh không phải là dân đỏ. Họ là người dân tộc như tôi, hợp tác với cộng sản để kết liễu sự độ hộ của Pháp."

"Đây là những người Việt Nam chân chính, có thể thống nhất đất nước."

"Những người ở phe bên kia không hề muốn thay ông chủ Pháp bằng chủ Nga Xô hay Trung Quốc. Những người phe bên này cũng không muốn thay chủ Pháp bằng Mỹ."

Dĩ nhiên, ông Thảo nói vậy khi đang đội lốt làm đại tá Nam Việt Nam, nên có thể chúng ta cũng không nên hoàn toàn tin.

Cho đến hôm nay, ông Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là hình tượng bí hiểm.

bbc.com/vietnamese/forum-47117479  4 tháng 2 2019

Tiểu thư đô thành và cuộc gặp định mệnh với Phạm Ngọc Thảo

Ở Hà Nội, trên một con đường nhỏ nằm sát bên Bộ tư lệnh Phòng không - không quân, có một bảo tàng nhỏ tọa lạc trong một khuôn viên kín đáo. Nơi đó lưu lại những chứng tích về một thời quá khứ hào hùng: chiếc xe Renault của thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn; chiếc cặp da nổi tiếng từng dùng đánh tráo tài liệu; hay khẩu súng từng chia lửa với đồng đội trong Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 của cụm trưởng H.63 Tư Cang bắn từ nhà Tám Thảo...

Tám Thảo giúp Cụm trưởng Tư Cang chỉnh lại bộ quân phục, nhân một dịp gặp gỡ của H.63, lưới tình báo anh hùng với cơ cán đi sâu Phạm Xuân Ẩn nổi tiếng. Ảnh: VinhLT.

Trên bức tường vinh danh những huyền thoại tình báo Việt Nam, có duy nhất một tấm ảnh người đàn ông đeo quân hàm sỹ quan Đại tá, nhưng lại trong bộ quân phục của Việt Nam Cộng hòa (VNCH).

Đó là Đại tá, Anh hùng LLVTND Phạm Ngọc Thảo, nhân vật nguyên mẫu mà nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (bút danh của nhà văn Trần Bạch Đằng, từng là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ) đã dựng thành nhân vật Nguyễn Thành Luân trong bộ phim "Ván bài lật ngửa" nổi tiếng.

 Phạm Ngọc Thảo khi là tỉnh trưởng Kiến Hòa (tỉnh Bến Tre ngày nay).

Hoa trong tuyến lửa

Trong di cảo còn lưu giữ lại đến giờ, Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn đã dành hẳn những dòng viết đầy trang trọng cho người phụ nữ ấy: "Năm 1960, Tám Thảo (Mỹ Nhung) chính là người đã móc nối cho Hai Trung (bí số 2T) trở lại với tổ chức. [...] Đến sau này, khi phải chiến đấu âm thầm trong lòng địch, đôi lúc vì quá cô đơn giữa kẻ thù, Hai Trung đã tự ý tìm đến gia đình cô, để được nói chuyện, được sống thật và được cân bằng lại chính mình".

Tám Thảo hay Mỹ Nhung: Cô là ai mà nhà tình báo lỗi lạc Phạm Xuân Ẩn dành trọn niềm tin đến như vậy?

Chuyện về cô khó có thể bắt đầu bằng hình ảnh nào khác ngoài một bức tranh về người con gái đẹp bước ra từ nhung lụa. Quê gốc Bắc Ninh, là con một gia đình tư sản giàu có ở Sài Gòn, ngay từ bé, Mỹ Nhung chẳng phải làm gì, chỉ biết học, chơi và xem tiểu thuyết.

Tiểu thư Mỹ Nhung khi còn ở Sài Gòn.

Năm 1948, tiểu thư Mỹ Nhung theo gia đình rời Sài Gòn về Vĩnh Long kháng chiến. Khi ấy cô mới 16 tuổi, chưa từng biết nấu nướng, chỉ mê sách, điện ảnh và hoa. Thế nên trong hành trang chiến đấu, vũ khí của cô chỉ là... tiểu thuyết. Hàng ngày, cô bé Nhung được tận mắt chứng kiến cảnh các chị bên hội phụ nữ đi rải truyền đơn.

Trước mỗi lần “xuất trận”, các chị đều kín đáo đặt truyền đơn lên một góc xe hơi, đợi đến khi xe nổ bánh, gió thổi bạt lại làm tung tròn những lá truyền đơn lên không trung rồi rụng xuống lả tả. Cô nhìn mà cứ mê đi.

Không được đi rải truyền đơn vì còn "con nít", song Mỹ Nhung vẫn không chịu lùi bước. Nhân lúc có người chèo đò ngang sông, cô liều nhảy xuống xin quá giang để được đi “chiến đấu”. Mãi rồi cũng lần mò được ra chiến khu, cô tiếp tục tự đi tìm tổ chức.

Tại đây, cô xin được một công việc rất vinh quang của tuổi 16. Đó là hằng ngày, bé Mỹ Nhung phải tập... dậy sớm và học bơi xuồng. Được cách mạng chấp nhận, cô tiểu thư vốn quen được chiều chuộng gật đầu ngay. Thế là từ đó, cứ sáng sớm, cô lại đẩy xuồng ra giữa dòng sông, tập bơi, tập lái.

Nhưng với cô, chèo xuồng khó đến độ cô toàn lóng ngóng để nước tràn vào trong. Dưới ánh nắng lung linh, xuồng của cô cứ quay tròn trên mặt nước. Chẳng biết làm sao, cô đành ghé tạm bên những bụm hoa trôi, vừa để neo xuồng tát nước, vừa tranh thủ... hái hoa rồi chất đầy lên khắp xuồng.

Đến khi biết chèo rồi, cô nhận thêm nhiệm vụ đưa cán bộ qua sông. Cứ mỗi khi nghe tiếng gọi “Mỹ ơi” (tên gọi thời ở chiến khu), cô lại tất bật đẩy xuồng ra giữa dòng đón cán bộ. Ở đây, cô đã gặp một con người mà đến tận bây giờ, cuộc đời của ông vẫn là kho bí mật chưa được tiết lộ đầy đủ.

“Cuộc đời tôi có nhiều cái may mắn, thuở bé đã được gặp một trong những anh hùng tình báo vĩ đại nhất Việt Nam, lớn hơn thì làm đồng đội với chính họ: anh hùng Phạm Xuân Ẩn, anh hùng Tư Cang...”, Tám Thảo kể lại.

Những lần gặp gỡ của cô chỉ là khoảnh thời gian đưa người sang sông, nhưng đến tận bây giờ, khi chiến tranh đã qua thêm nửa cuộc đời nữa, ấn tượng của cô về người cán bộ đó vẫn còn nguyên vẹn.

“Buổi sáng đầu tiên đưa anh đi, nhìn anh cười, tôi tin anh ngay lập tức. Anh không đẹp, mắt lé, da ngăm ngăm, nhưng nụ cười của anh thì luôn nói với mọi người rằng, anh là người tốt”.

Thế rồi sáng nào cũng vậy, người đàn ông bí ẩn đó được cô bé Mỹ Nhung chở đi trên chiếc xuồng bé xíu chất đầy hoa. Đến khi chiều xuống, ông trở về, trên tay luôn là một bó hoa rừng nho nhỏ. Cô không biết ông đi đâu, làm gì, nhưng nhìn là biết chặng đường của ông đi hằng ngày rất dài, bởi khi cô được nhận hoa ông tặng thì lúc nào hoa cũng đã... héo rũ ra.

Nhận hoa, cả cô và ông cùng cười. Những bông hoa ấy sau này cứ ngát hương đi theo cô trong suốt hành trình bí mật. Nó giống như sợi dây nối thiêng liêng giữa những người đồng đội: họ thậm chí có thể tìm thấy nhau, nhận ra nhau chỉ ngay từ trong linh cảm.

Người đàn ông mắt lé, da ngăm, tướng mạo phong độ, thường xuyên không quên mang những bông hoa đã héo rũ từ rừng về tặng cho cô bé Mỹ Nhung chèo đò ngày đó, là Đại tá Phạm Ngọc Thảo.

Đại tá Phạm Ngọc Thảo, người được mệnh danh là "vua đảo chính" Sài Gòn.

"Vua đảo chính" ở Sài Gòn

Phạm Ngọc Thảo (1922-1965) xuất thân từ một gia đình trí thức giàu có ở Vĩnh Long, theo đạo Công giáo toàn tòng. Thân sinh của ông là cụ Adrian Phạm Ngọc Thuần, một kỹ sư trắc địa và là một điền chủ giàu có nổi tiếng Nam bộ, mang quốc tịch Pháp. Anh chị em ông cũng có quốc tịch Pháp nên sang Pháp du học, đều trở thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư.

Dù học ở Pháp, dù là “dân Tây”, dù có cuộc sống giàu sang nhưng anh chị em Phạm Ngọc Thảo đều hướng về đất nước, đều khát khao giành độc lập cho Tổ quốc. Anh ruột ông, luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Thanh Niên Tiền phong chống Pháp cùng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch từ năm 1943, sau đó tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và làm đến chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại CHDC Đức.

Một người anh khác, ông Lucien Phạm Ngọc Hùng cũng từ Pháp về nước tham gia kháng chiến, sau này là Ủy viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam…

Phạm Ngọc Thảo sinh ngày 14/2/1922, sau khi đỗ tú tài ở Sài Gòn, do Đại chiến thế giới 2 nổ ra, ông không sang Pháp mà ra Hà Nội học, tốt nghiệp bằng kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943. Theo chân người anh, ông tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945 ngay từ những ngày đầu và khi Pháp quay lại xâm chiếm Nam bộ, ông tuyên bố hủy bỏ quốc tịch Pháp, lên đường cầm súng đi kháng chiến.

Năm 1946, ông được cử đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp khóa 1 trường này, ông lập tức trở về miền Nam chiến đấu và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của kháng chiến: Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ (chức vụ tương đương Trung đoàn trưởng).

Cuộc đời ông chứa đựng nhiều bí ẩn, mà đến nay còn chưa được lộ sáng đầy đủ.

Hiệp định Genève được ký kết, Phạm Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để “phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước”.

Theo ông Võ Văn Kiệt, nhiệm vụ mà ông Lê Duẩn giao cho ông Thảo là tìm cách thâm nhập càng sâu càng tốt vào bộ máy chính quyền Sài Gòn và tùy cơ ứng biến. Ông Thảo không phải là một điệp viên, không có trách nhiệm báo cáo bất cứ chuyện gì với bất kỳ ai, khi có việc cần thiết có thể trao đổi với người lãnh đạo nào mà ông Thảo thấy đủ tin tưởng, nếu không thấy cần thiết thì không trao đổi. Ông Thảo hoạt động độc lập, tự do hành động, không bị bất cứ một chế định nào.

Sau khi "lật ngửa ván bài" không che giấu lai lịch từng tham gia kháng chiến của mình, Phạm Ngọc Thảo đường hoàng bước vào Phủ Tổng thống của chế độ Ngô Đình Diệm, sau lời giới thiệu của giám mục Ngô Đình Thục, nhưng quan trọng nhất là ông đã gây được sự chú ý mạnh của anh em Diệm - Nhu bằng loạt bài phân tích chiến lược quân sự “Thế nào là một quân đội mạnh?” (Bách khoa (BK) số 1-1957); “Đánh giặc mà không giết người” (BK số 2); “Góp ý kiến về thiên Mưu công trong binh pháp Tôn Tử” (BK số 3); “Một số ý kiến về lãnh đạo tinh thần một đơn vị quân đội” (BK số 4); “Vấn đề kinh tế tự túc trong quân đội” (BK số 5-6)…; “Lực lượng quân sự cơ động và lực lượng địa phương” (BK số 13); “Quân đội và nhân dân” (BK số 14); “Quân đội bình định đem lại bình an hay oán hận” (BK số 16); “Quan niệm về quân sự hiện đại” (BK số 17)... đăng tải trên tạp chí Bách khoa của ông Huỳnh Văn Lang làm chủ bút, thể hiện một tư duy thiên bẩm về chiến lược "quân đội quốc gia" và kiến thức uyên bác của một chỉ huy từng trực tiếp cầm quân du kích kháng Pháp.

Sau một thời gian làm tỉnh trưởng Kiến Hòa (tỉnh Bến Tre ngày nay) để thực hiện chính sách "gần dân" của Tổng thống Diệm, bị cách mạng ám sát hụt vì bị cách mạng đánh giá "là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử", năm 1962, Phạm Ngọc Thảo lên đường sang Mỹ học một khóa quân sự cao cấp, sau đó được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống.

Trước khi Mỹ muốn gạt Diệm, dựng lên một chính quyền thân Mỹ nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang đã lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu “cải sửa” chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ.

Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ, Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm lãnh sự ở Ai Cập.

Ngày 1/11/1963, một nhóm tướng lĩnh quân đội VNCH được người Mỹ "bật đèn xanh" lật đổ nền Đệ nhất VNCH, anh em Diệm- Nhu chết thảm. Hội đồng quân nhân cách mạng do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền, 2 tháng sau thì bị Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm "chỉnh lý" lật đổ.

Năm 1964, khi đang ở Mỹ làm tùy viên văn hóa, quân sự (từ đầu tháng 10/1964), đến cuối năm, Nguyễn Khánh nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo nên triệu hồi ông, với ý định bắt ngay khi trở về, nhưng Đại tá Thảo đã khôn ngoan tránh được.

Ngày 19/2/1965, tại Sài Gòn, Phạm Ngọc Thảo móc nối với tướng Lâm Văn Phát và một số tướng lĩnh tổ chức đảo chính, lực lượng là cả một sư đoàn. Chỉ trong 24h, lực lượng đảo chính đã chiếm Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô (trại Lê Văn Duyệt), Đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất.

Tuy nhiên, Nguyễn Khánh đã được Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát. Đàm phán không xong với Nguyễn Cao Kỳ, cuộc đảo chính thất bại. Khánh cũng bị Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ lật cờ, đưa ra nước ngoài làm đại sứ lưu động.

Hội đồng tướng lĩnh của nhóm Thiệu - Kỳ đến tháng 6/1965 lật đổ chính phủ dân sự, mở tòa án binh kết án tử hình vắng mặt Phạm Ngọc Thảo, trao giải thưởng 3 triệu đồng (tiền Sài Gòn) cho ai bắt được ông.

Được lệnh rút ra căn cứ, nhưng Phạm Ngọc Thảo vẫn thuyết phục được ông Võ Văn Kiệt đồng ý để ông ở lại, chuẩn bị lực lượng tiến hành cuộc đảo chính tiếp theo, nhằm ngăn chặn chính quyền Thiệu - Kỳ mở đường để người Mỹ đưa quân can thiệp trực tiếp vào miền Nam Việt Nam, leo thang chiến tranh.

Bị truy bắt gắt gao, Phạm Ngọc Thảo vẫn ở lại Sài Gòn, được các giám mục, linh mục, giáo dân Công giáo cùng nhiều bạn bè trong và ngoài quân đội giúp đỡ, bảo vệ, cho xuất bản tờ "Việt Tiến" để tập hợp lực lượng. Nguyễn Văn Thiệu nhận thấy mối đe dọa an nguy thường trực từ Phạm Ngọc Thảo, quyết tâm trừ khử để diệt hậu họa.

Ông bị an ninh chính quyền Sài Gòn bắt, đem đi thủ tiêu vào ngày 15/7 nhưng chỉ bị thương nặng, được các linh mục và nữ tu đem về một tu viện chăm sóc. Sau đó, ông bị cơ quan an ninh quân đội VNCH bắt lại vào ngày 16/7/1965. Tại Bộ Tổng tham mưu, Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ đã tra tấn, bóp hạ bộ ông cho đến chết ngay trong đêm hôm đó.

Nguyễn Ngọc Loan với phát súng bắn thẳng vào đầu tù binh Việt Cộng Nguyễn Văn Lém tại Sài Gòn năm 1968. Bức ảnh này đã gây ra sự phẫn nộ trên toàn thế giới về hành vi tàn bạo khi đối xử với tù binh chiến tranh.

Ngày 17/7/1965, Linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ bút Báo Xây Dựng, là người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo nhận được điện thoại của một ký giả làm cho một hãng thông tấn ngoại quốc báo tin ông Thảo đã bị giết rồi.

Vị linh mục còn cho hay: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài, kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”.

Mãi những năm gần đây, khi trả lời về cái chết của Đại tá Phạm Ngọc Thảo với báo Thanh niên, ông Nguyễn Cao Kỳ mới xác nhận: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.(*)

Cuộc đời của tình báo viên Phạm Ngọc Thảo kết thúc ở tuổi 43. Ông đã đi suốt chặng đường trọn vẹn đầy kỳ lạ của mình, một mình tung hoành giữa hang hùm với tài trí và sức thuyết phục đặc biệt.

Thiếu tướng, Anh hùng LLVTND Phạm Xuân Ẩn nói về ông: "Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi... Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều".

Thiếu tướng Sáu Trí (Nguyễn Đức Trí), nguyên Thủ trưởng cơ quan tình báo Miền (J22) nhận định: “Trong lịch sử tình báo ta, câu chuyện ly kỳ như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo Việt Nam” .

"Đồng chí Phạm Ngọc Thảo là một cán bộ tình báo chiến lược, được Trung ương trực tiếp chỉ đạo đi sâu, leo cao vào những vị trí trọng yếu của địch. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng, đồng chí đã lập được nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc.

Đồng chí đã được truy phong quân hàm Đại tá và được công nhận liệt sĩ. Xét thành tích đặc biệt xuất sắc của đồng chí trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 30/8/1995, đồng chí được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân", tài liệu chính thức về cuộc đời như huyền thoại của Đại tá Phạm Ngọc Thảo ghi nhận.

(*) Trong bài viết có tham khảo tư liệu của các đồng nghiệp.

Trường Minh

baophapluat.vn/ Thứ Năm, 27/8/2015 06:38 GMT+7

Những giọt nước mắt của ông Mười Hương

“Trong lịch sử tình báo ta, câu chuyện ly kỳ như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo Việt Nam” (Lời tướng Nguyễn Đức Trí (Sáu Trí), nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo Miền)

Tấm hình đăng kèm theo đây do nhà báo Chin Kah Chong của hãng tin Pan-Asia Newspaper Alliance (PANA News) của Nhật Bản chụp Phạm Ngọc Thảo mang lon đại tá quân đội Sài Gòn lúc chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh. Ông Chin đã gửi tặng tấm hình cho chúng tôi trong dịp sang lại Việt Nam cách đây không lâu. Ông bảo ông đã hai lần gặp Phạm Ngọc Thảo, ông kể lại không khí của cuộc đảo chính mà ông trực tiếp chứng kiến hồi đó, nhưng ông không lý giải được về hoạt động của vị đại tá này dù ông rất ngưỡng mộ.

Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng

Cho đến nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là một bí ẩn khó có thể giải mã. Không phải vì xung quanh ông vẫn còn những bí mật quân sự, cũng không phải xung quanh ông có những điều “nhạy cảm” khó nói. Khó giải mã là do tầng tầng lớp lớp những biến cố lịch sử, những quan hệ, sự thiên biến vạn hóa của chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật, nghệ thuật chiến tranh tồn tại trên chiến trường, trên chính trường và trong cuộc sống nhưng nằm ngoài sách vở và các bản tổng kết.

Sau khi bộ phim nổi tiếng Ván bài lật ngửa bắt đầu công chiếu từ năm 1982, khi biết nhân vật Nguyễn Thành Luân được nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng dựa trên nguyên mẫu là Phạm Ngọc Thảo, những giai thoại về Phạm Ngọc Thảo dần dần lưu truyền rộng rãi trong dân chúng. Nhà văn - nhà cách mạng Trần Bạch Đằng từng là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ, là một trong số rất ít người biết rất rõ Phạm Ngọc Thảo, nhưng Ván bài lật ngửa vốn là một cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim, tất nhiên Nguyễn Thành Luân dù mang dáng dấp Phạm Ngọc Thảo nhưng vẫn là một nhân vật hư cấu. Lúc ấy ngôi mộ của Phạm Ngọc Thảo vẫn chỉ là một nấm mồ vô danh.

Mãi đến ngày 30.8.1995, đại tá QĐND Việt Nam, liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo mới được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lý do của sự chậm trễ này chưa bao giờ được công bố chính thức.

Sau năm 1987, báo chí trong nước có viết một số bài về Phạm Ngọc Thảo, nội dung còn sơ lược, chủ yếu dựa vào lý lịch và bản thành tích được công bố. Trong khi ở nước ngoài, nhiều người từng ở “phía bên kia” quen biết Phạm Ngọc Thảo cũng viết về ông, bên cạnh việc thuật lại các góc độ khác nhau những sự kiện mà họ chứng kiến là những phỏng đoán, nhất là sự phỏng đoán xung quanh 2 vấn đề mà họ không giải thích được: Vì sao mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận Phạm Ngọc Thảo là “người của mình”? Nếu Phạm Ngọc Thảo là tình báo “Việt cộng” thì khi cuộc đảo chính tháng 2.1965 thất bại, ông hoàn toàn có thể chạy ra căn cứ một cách an toàn, nhưng vì sao ông không đi mà ở lại tại một xứ đạo để cuối cùng phải chết một cách bi thảm?

Phạm Ngọc Thảo - Oanh liệt trong thầm lặng

Đại tá quân đội Sài Gòn Phạm Ngọc Thảo chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh - Ảnh: Chin Kah Chong

Không thể đem những lý lẽ thông thường để luận giải cuộc đời bi tráng của người anh hùng phi thường này. Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng. Địch coi ông là tên “Việt cộng” nằm vùng nguy hiểm, ông không ngại, thậm chí còn viết báo công khai ca ngợi tinh thần vì dân vì nước của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Pháp. Ngại nhất là ta, bởi vì ngay tại Sở Chỉ huy của kháng chiến cũng chỉ vài người được biết ông là người của ta, nên khi ông thả hàng ngàn tù chính trị, cơ quan chỉ huy kháng chiến cấp dưới lập tức kết luận ông là tên tỉnh trưởng mị dân nguy hiểm nhất cần phải trừ khử. Ông đã nhiều lần thoát chết, không phải do sự nương tay của ta, mà do may mắn.

Sinh thời cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bao giờ cũng rơm rớm nước mắt mỗi khi nhắc đến Phạm Ngọc Thảo. Ông bảo Phạm Ngọc Thảo do đích thân ông Lê Duẩn giao nhiệm vụ ở lại miền Nam làm tình báo chiến lược, không phải để cung cấp tin tức, mà đi sâu vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn nhằm xoay chuyển thời cuộc, chuẩn bị cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Đối với ông Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo kiệt xuất, là người anh hùng hội đủ nhân, trí, dũng. Ông vẫn tiếc là không cứu được Phạm Ngọc Thảo mặc dù ông đã làm hết cách.

Còn ông Mười Hương thì vừa nói đến Phạm Ngọc Thảo đã khóc như một đứa trẻ. Lần đầu gặp ông, khi chúng tôi hỏi vì sao Phạm Ngọc Thảo được công nhận liệt sĩ và phong anh hùng chậm như vậy, ông nức nở: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ T.Ư - TN) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn từng nói với chúng tôi rằng, sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.

Sự lo xa của ông Mười Hương là tình nghĩa rất đáng trân trọng. Giọt nước mắt của ông đủ để giải thích lý do vì sao Phạm Ngọc Thảo chậm được thừa nhận một cách công khai. Quốc gia đại sự không bao giờ bỏ sót cái tình, và suy cho cùng cũng vì cái tình mà có quốc gia đại sự.

Trước khi viết loạt bài này, ngoài việc nghiên cứu những tài liệu ghi chép từ các nhà tình báo lão thành hoạt động trong mạng lưới tình báo Miền, chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với ông Mười Hương (Trần Quốc Hương), nguyên Bí thư T.Ư Đảng, người trực tiếp tổ chức hoạt động cho những nhà tình báo lừng danh Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ… sau Hiệp định Genève, trao đổi với cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, với ông Sáu Trí, ông Mười Nho (người phụ trách công tác tình báo đặc khu Sài Gòn - Gia Định đầu những năm 1960), chúng tôi còn gặp 1 trong 2 nhân vật được Tỉnh ủy Bến Tre giao nhiệm vụ ám sát Phạm Ngọc Thảo. Chúng tôi cũng đã có dịp nói chuyện với cựu Phó tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ Nguyễn Cao Kỳ, người lên chức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp T.Ư (Thủ tướng) ngay sau khi cuộc đảo chính năm 1965 thất bại. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo nhiều tài liệu liên quan đến ông Thảo trên báo chí Sài Gòn trước năm 1975.

(còn tiếp)

Hoàng Hải Vân

Thanhnien.vn

Anh hùng tình báo Phạm Ngọc Thảo

Những trang đời huyền thoại

Anh hùng LLVT nhân dân, nhà tình báo chiến lược tài ba Phạm Ngọc Thảo là nguyên mẫu của nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết và bộ phim “Ván bài lật ngửa”.

Cuộc đời hoạt động tình báo trong lòng địch như “giữa biển giáo, rừng gươm” của Phạm Ngọc Thảo đến nay vẫn còn nhiều bí mật, trong khi bộ phim “Ván bài lật ngửa” đã quá nổi tiếng nên phân biệt, làm rõ đâu là những câu chuyện đời thực của Phạm Ngọc Thảo, đâu là những “hư cấu” thêm của nhà văn là điều mà chúng tôi quan tâm...

Hồ sơ chính xác về điệp viên bí ẩn

Quá trình tìm tòi tài liệu có độ chính xác cao về Anh hùng Phạm Ngọc Thảo của chúng tôi gặp nhiều khó khăn. Hồ sơ, tài liệu về Phạm Ngọc Thảo vốn dĩ rất ít ỏi, mà đơn vị cũ của ông thì luôn kín như bưng. Phạm Ngọc Thảo có một thời kỳ là học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1), với tư cách là một học viên từ năm 1946, nhưng tư liệu về ông ở ngôi trường bề dày truyền thống bậc nhất Quân đội nhân dân Việt Nam cũng rất mờ nhạt. Có lúc, chúng tôi đã nản thì may quá, nhờ người mách nước, chúng tôi đến Bảo tàng Tổng cục II và lần đầu tiên được đọc những dòng hồ sơ chính thống đã được công khai về Phạm Ngọc Thảo.

Trong cuốn sách “Những chiến công thầm lặng” trưng bày tại Bảo tàng Tổng cục II, hồ sơ về Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân, Đại tá Phạm Ngọc Thảo được đánh số 15 với những thông tin ngắn gọn nhưng đủ sức góp phần trả lời cho những ai tò mò về cuộc đời và sự nghiệp của ông:

“Đồng chí Phạm Ngọc Thảo (tức Phạm Thao), sinh năm 1922, tại tỉnh Long Xuyên, dân tộc Kinh. Tham gia cách mạng năm 1945, nhập ngũ năm 1946. Lúc hy sinh, đồng chí là Đại tá, cán bộ Cục Nghiên cứu, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tháng 8 năm 1945, đồng chí tham gia giành chính quyền ở Sài Gòn. Đầu năm 1946, đồng chí được tổ chức cử ra miền Bắc học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1). Ra trường, đồng chí trở lại miền Nam hoạt động ở địa bàn khu (Khu 8, Khu 9).

Cuối năm 1947, được trên giao làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ (cơ quan tình báo của ta). Với tinh thần trách nhiệm, trong một thời gian ngắn, đồng chí đã thống nhất được các lực lượng tình báo toàn Nam Bộ. Năm 1949, được trên điều sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 chủ lực Khu 9, tiểu đoàn đã chiến đấu nhiều trận thắng lợi lớn, góp phần mở rộng vùng giải phóng. Sau Hiệp định Geneva 1954, nhận chỉ thị của tổ chức, đồng chí ở lại miền Nam, dựa vào thế lực là một gia đình trí thức, theo Thiên Chúa giáo, thân cận với gia đình họ Ngô, đồng chí đã thâm nhập đi sâu, leo cao vào chế độ ngụy quyền miền Nam, phục vụ yêu cầu tình báo chiến lược.

Thời gian làm việc trong chế độ ngụy, Phạm Ngọc Thảo lần lượt là:

- Năm 1956, được phong đại úy, tỉnh trưởng bảo an Vĩnh Long.

- Năm 1957, được đề bạt thiếu tá, thuộc sở nghiên cứu chính trị-xã hội của phủ tổng thống (cơ quan mật vụ của ngụy do bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách).

- Năm 1958, được bổ nhiệm làm tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre).

- Cuối năm 1961, do bị nghi ngờ là nội tuyến của Việt Cộng nên địch điều đồng chí đi học nước ngoài, đến giữa năm 1962 về đảm nhiệm chức tham vụ chuyên môn phủ tổng thống.

Với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định quan điểm đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, với ý thức kỷ luật cao, đồng chí luôn thể hiện là một cán bộ tình báo mưu trí, sáng tạo, giành thế chủ động tấn công địch.

Những năm làm tỉnh trưởng, với bình phong bất lợi nhưng đồng chí đã cung cấp được nhiều tin tức, tài liệu liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu nên đã ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do các cuộc hành quân quy mô lớn của địch gây ra. Lợi dụng chức vụ tỉnh trưởng, đồng chí đã đẩy được một trung đoàn của sư đoàn bộ binh 3 của ngụy, 5 tiểu đoàn biệt động do địch đưa về đàn áp phong trào du kích Bến Tre ra khỏi tỉnh. Hoặc khi địch mở cuộc hành quân ở khu vực nào đó, đồng chí đã bí mật báo cho lực lượng ta biết để đối phó…

Năm 1965, không may sa vào tay địch, chúng tra tấn đồng chí rất dã man, song không hề lay chuyển được ý chí sắt đá của đồng chí. Cay cú trước khí phách hiên ngang của người cộng sản, địch đã giết hại đồng chí.

Đồng chí Phạm Ngọc Thảo là một cán bộ tình báo chiến lược, được Trung ương trực tiếp chỉ đạo đi sâu, leo cao vào những vị trí trọng yếu của địch. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng, đồng chí đã lập được nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc.

Đồng chí đã được truy phong quân hàm Đại tá và được công nhận là liệt sĩ. Đồng chí đã được truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì; Huân chương Chiến thắng hạng hai; Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba.

Xét thành tích đặc biệt xuất sắc của đồng chí trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày 30-8-1995, đồng chí được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân”.

Giải mã một vài “khúc quanh”

Phần thông tin chính thức về thành tích hoạt động của Anh hùng Phạm Ngọc Thảo đã trả lời một câu hỏi về “nhiệm vụ đặc biệt” của ông.

Lịch sử tình báo thế giới đã lưu danh rất nhiều điệp viên huyền thoại nhưng nhiệm vụ mà nhà tình báo cách mạng Phạm Ngọc Thảo đã làm đến nay vẫn được coi là “có một không hai”. Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận định: “Anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta”. Trong cuốn sách “Điệp viên hoàn hảo”, nhà sử học người Mỹ Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: “Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều”.

Chính từ những nhận định của các nhân chứng nói trên, đã có những bài báo cho rằng, vì là “nhiệm vụ đặc biệt” nên Phạm Ngọc Thảo không phải khai thác tin tức và thông báo cho ta như những điệp viên khác. Nhưng qua thành tích của ông, như: “Đồng chí đã cung cấp được nhiều tin tức, tài liệu liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu nên đã ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do các cuộc hành quân quy mô lớn của địch gây ra”, có thể khẳng định, bên cạnh nhiệm vụ đơn tuyến quấy rối hàng ngũ địch, Phạm Ngọc Thảo vẫn làm nhiệm vụ của một nhà tình báo chiến lược là khai thác tin tức tình báo để cung cấp cho ta, giữ vững mối liên hệ với tổ chức dù hoạt động trong lòng địch.

Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Phạm Ngọc Thảo là tấm gương thầm lặng hy sinh, trung thành với lý tưởng cách mạng đến phút giây cuối cùng. Đối với kẻ thù, khi tra tấn Phạm Ngọc Thảo đến chết, chúng vẫn không hay biết ông là điệp viên cộng sản. Sau ngày 30-4-1975, ông được đồng bào, chiến sĩ cả nước biết đến nhiều hơn sau khi nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch Đằng) viết tác phẩm “Ván bài lật ngửa” mà Phạm Ngọc Thảo là nguyên mẫu nhân vật chính. Ở trang đầu của tiểu thuyết, nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý viết: “Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng”. Bằng tài năng văn học, nhà văn đã xây dựng nên nhân vật Nguyễn Thành Luân đầy sắc màu huyền thoại, trở thành tác phẩm văn học, điện ảnh có sức sống bền bỉ trong lòng công chúng. Tuy nhiên, theo nhà giáo Chu Tuấn (Học viện Khoa học Quân sự) thì: “Khi xem “Ván bài lật ngửa”, ai cũng thán phục nhân vật Nguyễn Thành Luân; nhưng khi tôi tìm hiểu về cuộc đời Phạm Ngọc Thảo, tôi hiểu rằng, phim ảnh dù có hay đến mấy cũng chỉ mô tả được một phần sự hy sinh thầm lặng mà vô cùng oanh liệt của những chiến sĩ tình báo hoạt động trong lòng địch”.

Cũng theo nhà giáo Chu Tuấn, năm 1996, ông được giao nhiệm vụ phục hồi, phóng to tấm ảnh Phạm Ngọc Thảo từ một tờ báo của ngụy quyền Sài Gòn đã ố vàng. Tờ báo đó đăng bức ảnh nhỏ một người đàn ông đội mũ lưỡi trai dài (kiểu mũ của lính ngụy Sài Gòn), dưới bức ảnh có dòng chú thích: “Phạm Ngọc Thảo-Cố vấn tôn giáo của Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1963”. Hồi đó, chưa có máy tính, chưa có phần mềm sửa ảnh photoshop nên việc phục hồi ảnh của Chu Tuấn phải làm bằng phương pháp thủ công. Nhưng bằng tấm lòng mến mộ người điệp viên tài ba Phạm Ngọc Thảo, Chu Tuấn đã hoàn thành việc phục chế bức ảnh. Và đó cũng chính là bức ảnh về Anh hùng Phạm Ngọc Thảo được treo trong Bảo tàng Tổng cục II hiện nay.

Trần Đức – Hoàng Văn

ct.qdnd.vn/ho-so-tu-lieu/nhung-trang-doi-huyen-thoai-524339  03:20 - 20/12/2012 12

ĐẠI TÁ PHẠM NGỌC THẢO - 1 TRONG BỘ TỨ TÌNH BÁO XUẤT SẮC NHẤT LỊCH SỬ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐỒNG THỜI LÀ MỘT NHÀ CÔNG GIÁO YÊU NƯỚC

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Thảo là người đã dựng ngọn cờ binh biến tại Sài Gòn trong nửa đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX tới khi hy sinh ở tuổi 43.

Ông sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922 tại Sài Gòn, nguyên quán Vĩnh Long, (có tài liệu là Bến Tre) trong một gia đình Công giáo toàn tòng. Cha ông là Adrian Phạm Ngọc Thuần một địa chủ lớn có quốc tịch Pháp.

Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh cả của ông là Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và được cử giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ. Khi Luật sư Phạm Văn Bạch ra miền Bắc, ông Thuần làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam Bộ kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Nam Bộ (trong những năm 60 làm đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Cộng hòa Dân chủ Đức). Anh trai thứ bảy Phạm Ngọc Hùng học ở Pháp, lấy vợ Pháp rồi về Việt Nam ra chiến khu chiến đấu, làm Uỷ viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam. Tốt nghiệp trường Kỹ sư công chánh ở Hà Nội, khi Pháp bội ước quay lại xâm chiếm Việt Nam, ông Phạm Ngọc Thảo tuyên bố huỷ bỏ quốc tịch Pháp và quyết định trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến, làm việc ở Văn phòng Uỷ ban kháng chiến hành chính Nam Bộ. Trên đường về, ông bị dân quân Việt Minh bắt hai lần và suýt bị xử bắn do hiểu lầm.

Năm 1946, trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng. Ông cùng 12 chiến sĩ Nam Bộ khác được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khoá I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ làm giao liên. Một lần, ông được giao nhiệm vụ đưa một cán bộ về Nam Bộ. Đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tình báo của ông sau này.

Sau khi trở về Nam Bộ, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – tổ chức tình báo đầu tiên của cách mạng ở Nam Bộ, rồi được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9 (có tài liệu nói là tiểu đoàn 404 hoặc tiểu đoàn 307). Trong thời gian này ông hướng dẫn về chiến tranh du kích cho các học viên Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim... những người sau này trở thành các tướng lĩnh trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em ruột giáo sư Phạm Thiều).

Những năm 1952-1953, ông là sĩ quan tham mưu trong một số đơn vị chủ lực của Việt Minh tại miền Tây Nam Bộ.

Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được tập kết ra Bắc. Cũng có nhiều cán bộ Việt Minh đã bí mật ở lại. Riêng trường hợp của Phạm Ngọc Thảo, chính Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ thị cho ông không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam để hình thành "lực lượng thứ ba" trong trường hợp Hiệp định Geneve không được đối phương thi hành. Về việc này, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Ba Duẩn rất tin cậy Phạm Ngọc Thảo và đã giao cho đồng chí Thảo một nhiệm vụ đặc biệt".

Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy và Hai người khác trong Ban Đặc tình Xứ ủy là Mười Hương và Cao Đăng Chiếm.

Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng Đảng không cho phép Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm vào sống ở Sài Gòn, chỉ có Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế.

Phạm Ngọc Thảo trở lại Sài Gòn giữa lúc tình hình rất khó khăn: lực lượng Bình Xuyên gây rối khắp nơi. Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" theo quy định của chế độ Việt Nam Cộng hòa đối với những người đã đi theo Việt Minh không tập kết ra Bắc, ông bị đại tá Mai Hữu Xuân, Giám đốc An ninh Quân đội lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn thoát. Vì vậy, ông không vội tiếp cận với gia đình họ Ngô mà đi dạy học.

Sau cùng, ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này thuộc giáo phận của Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục, vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Gia đình anh theo Thiên chúa giáo lâu đời, rất thân thiết với Giám mục Ngô Đình Thục. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo vì đã từng làm lễ rửa tội cho anh và coi anh như con nuôi. Trong kháng chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục vào chiến khu để tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Vì vậy, Giám mục Thục đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Sau này, cũng chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.

Nhờ chính sách "đả thực bài phong", khuyến khích những người theo kháng chiến cũ về với "chính nghĩa quốc gia" của Ngô Đình Diệm, ông khôn khéo công khai hết nguồn gốc của mình, kể cả chức tiểu đoàn trưởng cũ, chỉ trừ một điều: mình là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống, làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang hàm Đại úy "đồng hóa".

Tháng 5 năm 1956 được sự giới thiệu của ông Huỳnh Văn Lang, Tổng giám đốc Viện Hối đoái và Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của đảng Cần Lao, Phạm Ngọc Thảo được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Và sau đó (tháng 10 năm 1956) ông gia nhập đảng Cần Lao.

Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên đảng Cần Lao. Tháng 1 năm 1957 Phạm Ngọc Thảo tham gia biên tập bán nguyệt san Bách Khoa - tạp chí của một nhóm trí thức đảng Cần Lao. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm 1975.

Ban đầu, Diệm – Nhu chưa thấy được tài năng của Thảo nên chỉ giao cho anh những chức vụ "hữu danh vô thực" như Tỉnh đoàn trưởng Bảo An Đoàn, tuyên huấn đảng Cần lao nhân vị... Nhưng Thảo đã biết cách "bộc lộ" mình bằng cách viết báo. Đại tá Trần Hậu Tưởng, bạn học trường Võ bị của ông kể: Lúc học ở Sơn Tây, chúng tôi có phong trào làm báo tường rất mạnh, đại đội nào cũng làm một tờ báo, anh em tập viết báo rất sôi nổi.

Thảo còn biết "khai thác" vốn binh pháp Tôn Tử mà thầy Hoàng Đạo Thúy từng dạy để viết báo. Thời gian này, ông cộng tác với tạp chí Bách khoa. Chỉ trong hơn một năm, ông đã viết 20 bài báo nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo.... Những bài báo đó đã được giới quân sự chú ý và Diệm – Nhu đề cao "tầm" của ông. Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị của Phủ tổng thống với hàm thiếu tá. Từ đó, ông lần lượt giữ các chức vụ Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Vĩnh Long, rồi Tỉnh đoàn trưởng Bảo an tỉnh Bình Dương.

Năm 1960, sau khi học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, Phạm Ngọc Thảo được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật.

Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy quân sự Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô Đình Diệm đã quyết định thăng ông lên trung tá và cử làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc nghiệm Chương trình Bình định. Trước khi nhận nhiệm vụ mới, ông đề nghị trực tiếp với Ngô Đình Diệm 3 yêu cầu:

- Một là ổn định tình hình Bến Tre không phải bằng bạo lực mà là chính trị, vì ông không thể hành động như những quân nhân võ biền khác.

- Hai, nếu bắt được Việt Cộng, có đủ bằng chứng, cho lập phiên tòa xét xử.

- Ba, Tỉnh trưởng Bến Tre được đặc cách chỉ báo cáo với Tổng thống, không qua một ban, bộ nào.

Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cả ba yêu cầu đó. Về làm Tỉnh trưởng Bến Tre một thời gian, ông đã ký quyết định thả 2.000 tù nhân chính trị đang bị giam giữ, (trong đó có ông Võ Viết Thanh, sau này là Chủ tịch UBND TP HCM), liên lạc với bà Nguyễn Thị Định, tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre bùng nổ và lập tòa án trừng trị bọn phản bội, đầu hàng. Chính sách không cho binh lính đàn áp dân chúng tùy tiện của Phạm Ngọc Thảo đã "bật đèn xanh" cho phong trào "đồng khởi" sau này.

Nhiều phản ứng của phía chính quyền và quân đội Sài Gòn đều được Phạm Ngọc Thảo bác bỏ, rằng Ngô Đình Diệm thí nghiệm một luận thuyết mới: Luận thuyết thân dân, phải có thì giờ để kiểm nghiệm. Do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là cán bộ cộng sản nằm vùng, anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã ngưng chức tỉnh trưởng Kiến Hòa và cho ông sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và tham mưu. Năm 1962, Phạm Ngọc Thảo được bổ nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống.

CHUYÊN GIA LẬT ĐỔ

Hàng chục tài liệu của CIA đả động đến Phạm Ngọc Thảo đã được giải mật sau chiến tranh. Ngày 11-9-1963, CIA soạn thảo Những bước tiến của Huỳnh Văn Lang và Phạm Ngọc Thảo đối với mưu đồ đảo chính (Progress of Huynh Van Lang and Pham Ngoc Thao with plans for coup d'etat). Tài liệu nêu tên các tướng tá Sài Gòn liên đới gồm: Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Khắc Bình và… Nguyễn Hữu Hạnh.

Lưu trữ của Mỹ cho biết tiếp về Kế hoạch của Thủ tướng Nguyễn Khánh nhằm làm Hoa Kỳ dính líu vào Bắc Việt Nam (Prime Minister Nguyen Khanh's plan to involve the United States in North Vietnam), 22-7-1964. Theo tài liệu này, ông Thảo được Mỹ đề nghị nhận định về khả năng đảo chính lật Nguyễn Khánh.

Chính lúc này, Washington cần gấp một hậu phương ổn định ở miền Nam để đổ quân Mỹ vào, cũng như dựng đầu cầu đánh ra miền Bắc, sang Lào. Nhưng Điều tra về cơ may đứng vững của chính quyền Sài Gòn (Chances for a stable government in South Vietnam) của SNIE (cơ quan tình báo Hoa Kỳ làm chức năng dự báo chiến lược) đề ngày 8-9-1964 lại viết: "Sân khấu chính trị-xã hội miền Nam Việt Nam rúng động, Việt Cộng ngày càng mạnh lên, ý thức chống Mỹ sâu sắc hơn, mâu thuẫn của chính quyền quân phiệt với các bộ phận dân cư tăng lên, chia rẽ đảng phái, sắc tộc, giáo phái sâu hơn, và nhất là phe Phạm Ngọc Thảo và một số sĩ quan đang mưu đồ đảo chánh…". Các cuộc đảo chính sẽ được báo chí gán cho người này, người khác cầm đầu. Nhưng trong ống kính tình báo Mỹ, chỉ hội tụ cái tên Phạm Ngọc Thảo. Tướng Oét-mô-len (Westmoreland) trong hồi ký của mình đã gọi Phạm Ngọc Thảo là "nhà đảo chính chuyên nghiệp".

Giải mật tài liệu của CIA về huyền thoại tình báo Việt Nam

Trang đầu bức điện Đại tá Phạm Ngọc Thảo của William Colby gửi từ Sài Gòn cho McGeorge Bundy, Cố vấn an ninh của Tổng thống Johnson, 4-6-1965. Giải mật 12-8-1987. Nguồn: 00780 Col. Pham Ngoc Thao (June 4, 1965) Memorandum; SECRET; SANITIZEDDeclassified: September 1, 1987

Theo tài liệu Kế hoạch đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo (Plans of Col. Pham Ngoc Thao to mount a coup, 28-8-1964), Mỹ cho rằng nếu cuộc đảo chính nổ ra, Trần Thiện Khiêm sẽ không trở tay kịp; chính phủ mới, nếu phe đảo chính lên nắm quyền sẽ gồm: Phạm Ngọc Thảo làm Thủ tướng, Dương Văn Minh hoặc Phan Khắc Sửu sẽ được đôn làm Quốc trưởng…

Hôm sau, 29-8-1964, CIA ra liền hai báo cáo nhan đề Phạm Ngọc Thảo: Tóm tắt lý lịch và phân tích về nhân sự này và Phạm Ngọc Thảo tìm cách giành sự ủng hộ cho cuộc đảo chính, theo đó, CIA mong rằng Phạm Ngọc Thảo sẽ khó nhận được sự hỗ trợ của không lực Việt Nam Cộng hòa (cầm đầu là Nguyễn Cao Kỳ). Ngày 30-8-1964, theo điện mật Các phe phái đều chuẩn bị đảo chính, sắp có đảo chính khả thi (!), một khi cả phe Phạm Ngọc Thảo và phe các tướng thuộc Đảng Đại Việt đều chuẩn bị đảo chính. Ngày 1-9-1964 là lúc người Mỹ thấy cần phải điều tra, khảo sát các chỉ huy quân Sài Gòn và khả năng thành bại của một cuộc đảo chính, nếu xảy ra (Tài liệu Loyalties of the Armed Forces commanders and the possibility of success if a coup d'etat is attempted: Situation appraisal as of 31 August 1964). Trong 30 tướng tá cao cấp, Phạm Ngọc Thảo vẫn ở tiêu điểm: Tên ông đứng thứ hai, sau Nguyễn Khánh.

Nhưng cuộc đảo chính 19-9-1964 dẫn đến Nguyễn Khánh phải từ nhiệm ngày 23-10, theo phát hiện của CIA, chính là kế hoạch cướp chính quyền bất thành của Việt Cộng (điện mật Mưu toan lật đổ 13-9, Attempted coup on Sept.13). Chính giới Sài Gòn không thể không nhận thấy rằng, cuộc đảo chính hôm 19-9, tuy bất thành, đã làm đổ bể lễ ký kết thỏa thuận đổ quân vào miền Nam và giội bom miền Bắc của trục Oa-sinh-tơn - Sài Gòn, dự định vào ngày 20-9-1964.

Ngày 4/3/1965, Washington lại được tin về âm mưu đảo chính (Coup rumors in Saigon, 4-3-1965). "Bọn tiểu tướng hung hăng": Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Đặng Văn Quang, Lê Nguyên Khang, Vĩnh Lộc, Dư Quốc Đống… bắt đầu thục mạng chọi nhau giành ngôi chủ soái, nhân Nguyễn Khánh bị đẩy đi lưu vong. Tháng Năm đến, Nguyễn Văn Thiệu, mới chỉ định dạng trong hồ sơ của CIA năm 1964, đã bẩm báo cho chủ Mỹ về một âm mưu đảo chính của Phạm Ngọc Thảo trong công văn Mật vụ dự báo cho Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Văn Thiệu về một mưu đồ đảo chính vào 20-5, cùng các biện pháp đối phó của chính phủ. Theo điện mật này: Cuộc đảo chính sẽ do Phạm Ngọc Thảo chỉ huy, với hiệp trợ của Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Nhóm tướng Đà Lạt, tức là Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Vỹ; cuộc đảo chính sẽ do Đảng Cần Lao nhân vị tài trợ. Phe của Thiệu sẽ đối phó bằng lực lượng phản đảo chính và sự chiêu hàng các phần tử nổi loạn…

THÁNH TỬ VÌ ĐẠO

Bị kẻ địch phản kích quyết liệt, cuộc binh biến tháng Năm của ông Chín Thảo bị dập tắt. Bản thân bị truy nã, mọi phương tiện của ông Thảo cạn kiệt, quân sĩ tan tác. Nhưng khi nhiệm vụ còn dang dở, Phạm Ngọc Thảo quyết không rời trận địa.

Tài liệu Đại tá Phạm Ngọc Thảo (Colonel Pham Ngoc Thao, 4-6-1965), đánh số 00780, do William Colby, Phó giám đốc về kế hoạch cơ quan CIA ở Sài Gòn viết như sau:

1. Đã phát hiện được Phạm Ngọc Thảo tung tăng lượn phố (circulating freely) giữa Sài Gòn, và giúp đỡ chủ bút của một tờ báo bí mật.

(Hai đoạn số 2 và 3 bị CIA xóa khi giải mật!!!).

4. Vấn đề này quả là nghiêm trọng, trên hai phương diện. Thứ nhất, chính quyền hiện hành của Việt Nam Cộng hòa vẫn ngại ngùng, không có chủ trương bắt và hành hình Phạm Ngọc Thảo. Còn rất ít nghi ngờ về chỗ ẩn nấp của Thảo ở Sài Gòn, cũng như một kế hoạch phối hợp cảnh sát để bắt giữ Thảo. Chính quyền Sài Gòn lại luận giải một cách chắc chắn rằng Thảo là một biểu tượng của người Công giáo, tới mức, việc bỏ tù/thủ tiêu Thảo trong tình hình như thế này sẽ gây bùng nổ. Cách suy luận như thế của Thủ tướng Quát lại được dung túng bởi công văn số 4003 ngày 2-6 của Sứ quán Mỹ từ Sài Gòn, theo đó đại sứ Taylor báo cáo rằng Quát đã nhất trí để cho Thảo và một số người khác bí mật rời đất nước, cho dù chính Quát hiểu rằng cần có một kỷ luật cấp quốc gia cao hơn.

5. Vấn đề thứ hai là cốt cách của Thảo. Ông ta tin vào sứ mạng cứu nhân độ thế, xả thân vì dân tộc mình, như một thiên sứ. Ông ta biết rõ mình phải làm gì. Lung lạc được Thảo bởi tiền tài hay hình phạt, kể cả tử hình, để ông ta ngừng tạo ra tình thế chỉ có lợi cho một mình Việt Cộng, rõ ràng là điều không thể. Việc Thảo không sợ bị trừng phạt còn do ông ta được bảo trợ bởi các thủ lĩnh quân sự Công giáo. Cũng không có bằng chứng rõ rệt rằng, Thảo đang không được Việt Cộng hỗ trợ một cách bí mật…

Vì chính phủ Phan Huy Quát chần chừ trong khủng bố, đàn áp, Mỹ quyết định đôn lên nhóm tay sai khát máu hơn. Ngày 24-6-1965, lý lịch kẻ giúp Mỹ đàn áp Phạm Ngọc Thảo trong chính biến tháng Năm, Nguyễn Văn Thiệu, được CIA trình thượng cấp. Được thăng chức "Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia", Thiệu lập tức lùng bắt Phạm Ngọc Thảo để thủ tiêu. Ngày 16-7, an ninh quân đội Sài Gòn vây ông Thảo ở Tam Hiệp, Biên Hòa. Bị trọng thương, Chín Thảo bị bắt ngay hôm sau. Ông bị Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ tra tấn dã man và bóp hạ bộ ông cho đến chết vào đêm 17/7/1965. Khi đó ông mới 43 tuổi. Ngay sau đó, tin ông Thảo từ trần trong một tai nạn đã được tung lên các báo Sài Gòn.

Nguyễn Ngọc Loan được cho là đã sát hại ông lúc đó. Linh mục Nguyễn Quang Lãm (chủ bút Báo Xây dựng), người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo, đã che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để giúp Phạm Ngọc Thảo). Sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết hại, Báo Xây dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá nặng, mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo. Linh mục Nguyễn Quang Lãm đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”. Vị linh mục còn viết tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”. Năm 2012, trong một lần trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên trước câu hỏi: "Hồi đó mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Nguyễn Cao Kỳ đã trả lời: “Tôi không biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.

Có ý kiến nói rằng Phạm Ngọc Thảo bị Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh giết hại là bởi ông ta không tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản, nếu tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản thì Nguyễn Văn Thiệu sẽ không giết Phạm Ngọc Thảo. Bởi kinh nghiệm từ cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu không cảm thấy lo sợ những người cộng sản bằng một người không cộng sản được Mỹ và Giáo hội Công giáo hậu thuẫn để làm đảo chính lật đổ ông ta.

Trở lại công văn Đại tá Phạm Ngọc Thảo 4-6-1965, Colby viết tại điểm 7: "Chúng tôi nhận thức rõ sự cần thiết của việc không được làm cho Thảo, về mặt chính trị, trở thành vị thánh tử vì đạo (political martyr)". Nhưng mưu đồ này đã thất bại. Các nguồn tin ở Sài Gòn sau đó cho biết, chịu mọi cực hình tàn khốc đến chết, ông Thảo đã không hé môi về bất cứ quân nhân hay chính khách của chế độ Sài Gòn, từng là đồng minh trong đảo chính của ông, hay bất kỳ một thông tin gì khác. Theo chuẩn mực tôn giáo, ông đã trở thành bậc Thánh, chịu thống khổ để cứu nước nhà. Danh hiệu này, cùng chữ martyr (thánh tử vì đạo), vô hình trung, đã được CIA dùng chỉ ông Thảo trong công văn ngày 4-6-1965 nói trên.

Những năm ấy, rất ít người biết Phạm Ngọc Thảo là một nhà tình báo, người ta chỉ biết ông là một sĩ quan có khả năng chính trị và ngoại giao. Sau ngày Việt Nam thống nhất, nhiều đồng đội đã vô cùng chua xót khi thấy mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh. Họ đã sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân,... Rất nhiều nước mắt xúc động, cảm thương của những người chiến binh già đã rơi khi kể lại câu chuyện về ông. Năm 1987, Nhà nước Việt Nam truy tặng ông danh hiệu liệt sĩ, với quân hàm đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam, danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện nay, mộ Phạm Ngọc Thảo được đưa về nghĩa trang Thành phố Hồ Chí Minh, trên đồi Lạc Cảnh (quận Thủ Đức). Mộ ông nằm cạnh mộ những tên tuổi nổi tiếng như Lưu Hữu Phước, Phạm Ngọc Thạch, Can Trường... Tên ông được đặt tên cho một con đường tại thành phố Hồ Chí Minh.

Mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình, Nhà nước ta mới chính thức công nhận liệt sĩ và phong Anh hùng cho Phạm Ngọc Thảo. Ông Mười Hương đã nói: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn cũng từng nói sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.

Ngày 28 tháng 8 năm 2015, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức trọng thể lễ công bố quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch về xếp hạng di tích quốc gia, đối với nơi ở và hoạt động của đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo (dinh tỉnh trưởng cũ, sau là nhà bảo tàng tỉnh), tọa lạc tại số 146 Hùng Vương, Phường 3, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam (3 người kia là Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn, Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ và Đại tá Lê Hữu Thúy). Một số người còn cho ông là điệp viên xuất sắc nhất bởi 3 đặc điểm chính:

1. Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông không phải là đưa tin mà là tác động đến sự "thay đổi chế độ". Có thể nói tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo quân.

2. Khác với các tình báo viên thông thường, Phạm Ngọc Thảo là người có thể tác động trực tiếp đến chính quyền và quân đội. Là sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, ông có tác động, thậm chí trực tiếp đạo diễn và tham gia chỉ đạo hàng loạt vụ đảo chính làm rung chuyển gây mất ổn định chính quyền Nam Việt Nam những năm 1964-1965.

3. Trong cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái quân đội, Phạm Ngọc Thảo bị xem là đối tượng nguy hiểm và bị đe dọa tính mạng bất cứ lúc nào. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục nhiệm vụ mà không trốn chạy để bảo toàn mạng sống. Thậm chí, cả khi bị bắt và tra tấn đến chết, Phạm Ngọc Thảo vẫn không lộ tung tích của mình. Mãi sau này, khi ông được truy phong, người ta mới biết ông là tình báo viên.

Hai ông bà Phạm Ngọc Thảo và Phạm Thị Nhiệm có bảy người con. Vợ ông từng đi dạy học. Vợ và con ông hiện đang ở Hoa Kỳ. Tất cả các con của ông đều học hành thành tài (có người là bác sĩ, đang ở Quận Cam).

Trong dòng đề tựa trong cuốn Ván bài lật ngửa, nhà văn Trần Bạch Đằng, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý, đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng". Ông đã sử dụng chính hình tượng của Phạm Ngọc Thảo để xây dựng nhân vật Nguyễn Thành Luân trong tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết này sau được dựng thành phim rất ăn khách (vai Nguyễn Thành Luân do diễn viên Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Chánh Tín đảm nhiệm).

Ông Trần Bạch Đằng nhận xét: "các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người tình báo đặc biệt có một không hai". Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: "anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta".

https://www.facebook.com/hosodietphan/posts/246567449262666/

26/05/2015 06:27

Chuyện ít biết về cuộc ám sát nhầm nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo

Trong đám đông, một quả lựu đạn từ tay học sinh Đặng Quốc Tuấn bay lên lễ đài cách tỉnh trưởng Kiến Hòa Phạm Ngọc Thảo khoảng 1 mét. Giữa bốn bề hỗn loạn và tiếng la thất thanh "lựu đạn…lựu đạn…", Phạm Ngọc Thảo nhanh như chớp, chộp lấy quả lựu đạn, bóp chặt trong tay...

Trung tá Phạm Ngọc Thảo cùng phu nhân chụp ảnh với diễn viên Sandra Dee tại Mỹ năm 1962.

Trong bộ phim "Ván bài lật ngửa" nổi tiếng trên màn ảnh Việt Nam một thời, trong tập 5 của bộ phim, với tựa "Trời xanh qua kẽ lá" có nhân vật cậu học sinh tên Thường ném lựu đạn ám sát Trung tá Tiểu khu trưởng, kiêm Tỉnh trưởng Kiến Hòa Phạm Ngọc Thảo (nhân vật Nguyễn Thành Luân trong phim) nhưng rất may là lựu đạn lép không nổ…

Nhân vật "học sinh biệt động Bến Tre" ấy là Đặng Quốc Tuấn (Sáu Tuấn) - từng là Bí thư Tỉnh đoàn Bến Tre, nguyên Giám đốc Đài Phát thanh truyền hình Bến Tre (đã nghỉ hưu).

Sinh thời, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhận định: "Anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta". Trong cuốn sách "Điệp viên hoàn hảo", nhà sử học người Mỹ Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: "Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi... Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều". Suýt nữa, ông đã mất mạng với hai quả lựu đạn ám sát từ đội thiếu niên biệt động Bến Tre vào năm 1961.

Sáng mùa thu 26/10/1961, lễ Quốc khánh của chế độ Ngô Đình Diệm tổ chức tại quảng trường An Hội, thị xã Bến Tre. Hàng ngàn người dân, binh lính, công chức và học sinh được huy động đến dự lễ do Tiểu khu trưởng, kiêm Tỉnh trưởng Kiến Hòa, Trung tá Phạm Ngọc Thảo chủ trì. Đoàn học sinh của Trường Công lập Kiến Hòa (nay là Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu, TP Bến Tre) tham dự rất đông. Không ai để ý hai học sinh Đặng Quốc Tuấn và Ngô Văn Thiều bỗng tách khỏi đoàn, trà trộn vào nhóm những người đại diện "Cần lao nhân vị" đứng gần lễ đài.

Đến phần diễu hành, tất cả đứng dậy vẫy tay chào. Bỗng trong đám đông "Cần lao nhân vị", một quả lựu đạn từ tay học sinh Đặng Quốc Tuấn bay lên lễ đài cách tỉnh trưởng Kiến Hòa Phạm Ngọc Thảo khoảng 1 mét. Giữa bốn bề hỗn loạn và tiếng la thất thanh "lựu đạn…lựu đạn…", Trung tá Phạm Ngọc Thảo nhanh như chớp, chộp lấy quả lựu đạn, bóp chặt trong tay. Quả lựu đạn thứ hai của Ngô Văn Thiều tung lên cách tỉnh trưởng Kiến Hòa gần 10 mét nhưng... vẫn không nổ. Những người xung quanh thót tim. Vợ chồng Tỉnh trưởng Kiến Hòa hú hồn, định thần nhìn kỹ thì ra hai quả lựu đạn đều bị lép.

Ngô Văn Thiều bị cảnh sát bắt tại chỗ. Đặng Quốc Tuấn lợi dụng cảnh hỗn loạn đã chạy thoát về điểm hẹn tại nhà của Ngô Văn Thiều. Rủi thay, có một tên cảnh sát sống gần đã nhận ra "thằng nhóc" chạy hốt hoảng về, báo ngay cho cảnh sát huy động lực lượng đến bao vây. Đặng Quốc Tuấn bị bắt cùng 3 quả lựu đạn tự chế trong nhà chưa sử dụng.

Ông Đặng Quốc Tuấn thời là “học sinh biệt động''.

Ngày hôm sau, báo chí Sài Gòn rầm rộ giật tít, đăng tin khá đậm về vụ ném lựu đạn ám sát Tỉnh trưởng Kiến Hòa Trung tá Phạm Ngọc Thảo, một nhân vật nổi tiếng trong giới chóp bu quân đội Sài Gòn lúc bấy giờ, do hai học sinh lớp 10 thực hiện và bị bắt ngay tại chỗ. Báo giới cũng loan tin, trước ngày xét xử vụ án, cảnh sát Kiến Hòa đã "phát hiện và ngăn chặn" một kế hoạch của "biệt động Bến Tre" tổ chức đánh úp tại phiên toà với âm mưu giải cứu cho hai học sinh là đội viên biệt động Bến Tre, nhưng bất thành.

Một tuần sau, Phạm Ngọc Thảo có gặp hai thủ phạm nhí trong lần bị cố vấn Mỹ thẩm vấn, và chính ông làm phiên dịch. "Tại sao là học sinh mà đi ám sát tỉnh trưởng ngay tại ngày Quốc khánh? Có phải cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?". Sáu Tuấn trả lời: "Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới cộng sản, không có ai giao việc cả". Ông Thảo dịch như thế nào ông Sáu Tuấn không biết. Rồi ông nói với hai thủ phạm: "Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm".

Lần thứ hai, ông Thảo đến thăm hỏi hai thủ phạm trước khi họ đưa về giam tại trại Chí Hòa, Sài Gòn. Tháng 3/1962, Tòa án quân sự đặc biệt mở phiên tòa xử theo luật 10/59. Nhờ tài biện luận của luật sư Trịnh Đình Thảo khi tranh tụng, viện dẫn lý lẽ, thân chủ còn tuổi vị thành niên, mới 15 tuổi, còn nhỏ dại, dễ nghe lời xúi giục người khác mà phạm tội, hai học sinh thoát khỏi án tử hình.

Cả hai bị kết án mỗi người 20 năm tù, đưa về Chí Hòa, sau đó đưa ra Côn Đảo, chung chuyến tàu với những người tù nổi tiếng như Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Ngoài Côn Đảo, hai ông đấu tranh, chống chào cờ, được kết nạp Đảng trong tù. Năm 1965, sau khi Phạm Ngọc Thảo bị sát hại, bỗng nhiên hai ông được đưa về lại Chí Hòa. Đến Chí Hòa, chúng chỉ yêu cầu chào cờ. Sáu Tuấn dứt khoát không chịu, đồng nghĩa với việc tự nhận là cộng sản. Do đó, 20 ngày sau chúng đưa trở lại Côn Đảo. Ông Thiều được trao trả năm 1973, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TP Hồ Chí Minh, qua đời năm 1984 vì bạo bệnh.

Người tù về trên xe lăn

Sau khi hai anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu bị đảo chánh và thủ tiêu, Phạm Ngọc Thảo cùng một số tướng lĩnh quân đội Sài Gòn tham gia nhiều cuộc binh biến khác. Ông đã bị chính quyền Sài Gòn thủ tiêu vào ngày 17/7/1965, lúc 43 tuổi. Ông là một trong bốn nhà tình báo lỗi lạc của Cách mạng Việt Nam trà trộn rất sâu vào cơ quan đầu não địch (ba người kia là Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Xuân Ẩn, Lê Hữu Thúy) được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân với quân hàm Đại tá.

"Thủ phạm biệt động" Sáu Tuấn, quê ở ấp 4, xã Phong Nẫm, huyện Giồng Trôm, kết nạp Đoàn năm 1961 lúc gia nhập đội Biệt động Thị xã. Ngày 5/5/1975, chuyến tàu đầu tiên của Hải quân chở những người tù cộng sản, kiên trung, quả cảm từ Côn Đảo về cập cảng Sao Mai - Bến Đình (Vũng Tàu), Sáu Tuấn nằm trên cáng khiêng và ngồi xe lăn. Do bị địch đánh quá tàn bạo, anh và nhiều bạn tù trong chuồng cọp số 7 không thể đứng dậy nổi.…

Ngày 5/5/1975, Sáu Tuấn về tới đất liền, thân tàn ma dại. Anh được đưa về điều trị và an dưỡng tại bệnh viện Bến Tre. Sáu Tuấn kể lại: Lúc vừa đến bệnh viện, có một người phụ nữ kính cẩn đến hỏi: "Thưa bác, bác ở Côn Đảo về, bác có biết anh Sáu Tuấn không?".

Tuấn nhận ra chị Nguyễn Thị Nhi, cô bạn học dưới anh một lớp, là đồng đội của anh trong đội biệt động thị xã Bến Tre. Lần cuối anh được nhìn thấy mẹ và Nhi là sau khi bị tòa tuyên án, áp giải lên xe đưa về trạm giam Chí Hòa. Chị không thể nhận ra anh với thân thể tàn tạ, tóc đã trắng như vôi sau 13 năm, 2 tháng bị giam cầm nơi địa ngục trần gian Côn Đảo.

Ngày trở về, người đầu tiên anh gặp lại cũng là Nhi và mẹ. Mừng vui, nghẹn ngào xúc động tràn dâng không nói nên lời. Sau nhiều tháng được các y bác sỹ tận tình điều trị, cùng với sự chăm sóc đầy tình thương của mẹ và chị Nhi, anh Tuấn lại chập chững tập bước những bước đi đầu tiên.

Từ khi anh bị bắt, chị Nhi là một chiến sĩ giao liên, biệt động như con thoi đi lại khắp vùng Châu Thành, Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại với quyết tâm chiến đấu trả thù cho đồng đội, đồng bào trong đó có người bạn trai dũng cảm. Chị từ chối nhiều mối mai cầu hôn, chung thủy đợi chờ ngày hòa bình, dù không hề ước hẹn. Sau này chị Nhi làm việc trong ngành giáo dục, là một nhà thơ nữ của Hội VHNT Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre với bút danh Thanh Hải.

Trường Công lập Kiến Hòa, Bến Tre xưa.

Không lâu sau, một đám cưới đơn giản, ấm cúng giữa anh Đặng Quốc Tuấn và cô bạn học biệt động thủy chung. Có một dạo tình cờ Sáu Tuấn gặp diễn viên điện ảnh Nguyễn Chánh Tín. Được bạn bè giới thiệu Sáu Tuấn là "nguyên mẫu" của nhân vật đã "quăng lựu đạn ám sát Phạm Ngọc Thảo", ông diễn viên nổi tiếng đã ôm vai ông "biệt động con" lắc  mãi.

Không riêng Sáu Tuấn, nhiều cán bộ chỉ huy ngày đó cũng không biết tỉnh trưởng Kiến Hòa là nhà tình báo Cách mạng. Sáu Tuấn đã tìm đến Nghĩa trang liệt sĩ TP Hồ Chí Minh viếng mộ nhà tình báo, liệt sĩ - Đại tá Anh hùng LLVTND Phạm Ngọc Thảo. Ông nằm bên cạnh những tên tuổi lớn như bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, nhạc sĩ Lưu Hữu Phước...

"Tất cả họ đều có quãng đời thanh niên dữ dội"- ông đã an ủi mình như thế. Nếu năm xưa lựu đạn nổ, ông không thể hình dung điều gì sẽ xảy ra. Cũng không dám hình dung…

Vnca.cand.com.vn