Những nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong ca dao than thân là ai

Nguyên nhân xuất hiện các câu hát than thân trong kho tàng văn học dân gian Việt NamSeptember 12, 2014 - Chuyên mục: Văn mẫu THPT - Tác giả: qtĐề bài: Trình bày những nguyên nhân làm xuất hiện các câu hát than thân trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, qua đó làm rõ nội dung bài ca dao: Thân em như trái bần trôiGió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, các câu ca dao chiếm một vị trí đáng kể. Nội dung của các bài ca dao thường ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm gia đình, tình yêu nam nữ… Bên cạnh đó có rất nhiều bài ca dao than thân, trách phận, nhất là thân phận của người mẹ, người phụ nữ trong gia đình và xã hội.Sự ra đời của những câu hát than thân xuất phát từ thực tế cuộc sống, quan niệm, tư tưởng trong xã hội phong kiến. Có thể nêu ra một số nguyên nhân như sau:- Sự áp bức bóc lột của những người có thể lực đối với người dân. Dân chúng là những người có địa vị thấp kém nên không đủ sức phản kháng lại và chỉ biết tỏ thái độ bằng những câu hát than thân trách phận.- Những vất vả trong cuộc sống lao động, những bất hạnh mà nguời lao động chịu đựng được thể hiện qua những lời than vãn. Đó là nguồn gốc của những câu hát than thân.- Chiếm đa số trong những câu hát than thân là những câu hát nói về người con gái, người phụ nữ. Xã hội phong kiến là xã hội trọng nam, khinh nữ. Chính vì vậy người phụ nữ bị xã hội xem thường, đôi lúc bị khinh bỉ, nhât nam viết hữu, thập nữ viết vô là quan niệm trong thời kì này. Người phụ nữ không có quyền quyết định số phận của mình mà phụ thuộc vào cha mẹ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Chính quan niệm này đả giết chết bao cuộc đời, bao cuộc tình của người con gái. Khi người con gái rơi vào tình trạng như thế, họ chỉ còn biết than cho thân phận nữ nhi của mình. Và từ đó, những câu hát về thân phận của họ ra đời.Bài ca dao: Thân em như trái bần trôi Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu chỉ có hai câu, nói lên thân phận của người con gái trong xã hội phong kiến. Đây là bài ca dao trong số nhiều bài ca dao nói về thân phận của người con gái. Hai từ thân em trong câu ca dao cho thấy một số phận hẩm hiu, trôi nổi. Hai từ thân em đi liền với từ trái bần trôi càng cho thấy sự trôi nổi đó. Trong bài ca dao, cô gái tự ví thân mình như trái bần trôi. Một hình ảnh so sánh khá cụ thể và nhiều ấn tượng. Cây bần sống ở bờ các sông rạch, trái bần khi chín rụng xuống dòng nước của các sông rạch và dập dồi theo dòng nước không biết trôi dạt hoặc tấp vào bến nào. Người con gái trong xã hội cũ cùng như thế, thân phận của họ trôi nổi theo sự sắp đặt của cha mẹ. Trái bần trong bài ca dao nếu tấp vào một bến đục cũng không ảnh hưởng gì nhưng nếu người con gái rơi vào cảnh bất hạnh thì thật đau xót. Chính điều này làm cho cô gái thấy lo lắng cho cuộc đời của mình trong tương lai.Có rất nhiều bài ca dao thể hiện nỗi niếm lo lắng đó:- Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.Thân em như giếng giữa đàng Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.Thân em như hạt mưa sa Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.Lời cô gái trong bài ca dao trên cũng như nhiều bài ca dao khác cũng chính là những lời phản kháng, .đòi quyền bình đẳng của những cô gái trong xã hội phong kiến.Read more: //taplamvan.edu.vn/nguyen-nhan-xuat-hien-cac-cau-hat-than-than-trong-kho-tang-van-hoc-dan-gian-viet-nam/#ixzz3me2fVST0

A.PHẦN MỞ BÀI1. Lí do chọn đề tàiCa dao Việt Nam phản ánh lịch sử xã hội Việt Nam, nó được coi nhưlà một kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vựcsinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Đó là tiếng hát trữtình của con người, là tiếng hát của tình yêu trong mọi khó khăn vui buồncủa cuộc sống.Những câu, bài Ca dao được sáng tạo nên chứa đựng tất cả những hìnhảnh: từ hình tượng của con người cụ thể đến biểu tượng được hóa thân bởithiên nhiên và mọi thứ xung quanh, đã cho chúng ta thấy được sự khéoléo, nghệ thuật của dân gian. Những nhân vật và biểu tượng trên đượcdựng nên không nhằm mục đích gì ngoài việc bày tỏ tình cảm: tình yêuquê hương, tình yêu gia đình, tình vợ chồng..và những cung bậc cảm xúcmà người xưa muốn bày tỏ.Dù theo nhịp điệu cuộc sống theo hướng phát triển của nhân loại nhưngnhững câu ca dao xưa vẫn là những lời hát ru dành cho thế hệ trẻ hôm nay,càng ngày con người càng nghiên cứu và tìm ra được nhiều vẻ đẹp, nét đặctrưng độc đáo của nó. Đó là tất cả những lý do tôi chọn tìm hiểu đề tài này.2. Đối tượng và mục đích nghiên cứu2.1.Đối tượng nghiên cứuBài tiểu luận này tôi đi nghiên cứu về nhân vật và biểu tượng trong cadao qua các bài ca dao được sưu tầm và lưu lại trong các tác phẩm.2.2. Mục đích nghiên cứuQua việc tìm hiểu tôi sẽ rút ra được những nhân vật và biểu tượng trongca dao đáp ứng đề tài đưa ra.3. Lịch sử vấn đềNhững công trình nghiên cứu về ca dao trong mấy thập kỷ qua là vôcùng phong phú và đa dạng với số lượng ngày càng tăng. Cái đẹp, cái haycủa những bài ca dao lôi cuốn nhiều nhà nghiên cứu như: Kho tàng ca daongười Việt do Nguyễn Xuân Kính và Phan Đăng Nhật( chủ biên), Ca daoViệt Nam và những lời bình của tác giả Vũ Thị Thu Hương, Tục ngữ cadao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Thi pháp ca dao của NguyễnXuân Kính…Và một số công trình nghiên cứu liên quan đến các nhân vậttrong ca dao: Cấu trúc ca dao trữ tình người Việt (Lê Đức Luận), Thử đềxuất một số cấu trúc lời ca trữ tình người Việt (Lê Đức Luận), Lối đối đáptrong ca dao trữ tình (Cao Huy Đỉnh)…Việc tìm hiểu các kiểu nhân vật và biểu tượng trong ca dao luôn thu hútnhững ai quan tâm qua các thế hệ. Việc tìm hiểu đó đang tiếp diễn, nhiềuđề tài cũng đã và đang nghiên cứu. Điều đó cho thấy ca dao có tầm quantrọng rất lớn trong cuộc sống nhân dân ta.4. Phương pháp nghiên cứuTừ việc phân tích những câu ca dao, tôi tập hợp lại thành mảng rồi kếthợp với kiến thức làm thành bài tiểu luận này.5. Bố cục đề tàiBài tiểu luận được chia làm hai chương:Chương I: Khái quát chung1.1. Vài nét về ca dao1.2. Nhân vật và nhân vật trong ca dao1.3. Biểu tượng và biểu tượng trong ca daoChương II: Nhân vật và biểu tượng trong ca dao2.1. Nhân vật trong ca dao2.2. Biểu tượng trong ca dao.Đó chính là bố cục của bài làm.B. PHẦN NỘI DUNGCHƯƠNG IKHÁI QUÁT CHUNG1.1.Vài nét về Ca daoKhái niệm về Ca dao (trước kia gọi là phong dao) cũng có nhiều quanniệm khác nhau. Theo Dương Quảng Hàm: “Ca dao (ca: hát, dao: bài hátkhông có chương khúc) là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian,thường tả tính tình, phong tục của người bình dân.Thuật ngữ ca dao được sử dụng rộng rãi ở nước ta từ đầu thế kỉ XX.Nhưng việc xác định nội hàm của nó ở các nhà nghiên cứu, sưu tầm, biênsoạn sách Văn học dân gian những thập niên sau này lại có thêm nhữngnội dung mới, cách hiểu mới.Ngoài loại ý kiến đồng nhất ca dao với dân ca, hoặc dung luôn cả thuậtngữ kép “ca dao dân ca”, còn có hai loại ý kiến sau đây:Ca dao cổ truyền chính là phần lời của dân caCa dao không phải là toàn bộ phần ngôn từ của các bài hát dân gian, màchỉ là những câu mang tính chất trữ tình đậm đà nhất và được sáng tác theomột phong cách riêng.Hai cách hiểu trên còn nhiều phiến diện, mơ hồ, thiếu tính xác định.Vào thời xưa, trong sinh hoạt văn nghệ, các nghệ sĩ dân gian làm ra cácbài hát ngắn để hát. Chúng gồm hai phần: lời ca và làn điệu. Dần dần, theothời gian, lồi của bài hát phát triển thành một thể thơ dân gian. Các thế hệtiếp theo, dựa vào phong cách cấu tạo… của thể thơ này mà đạt thêmnhững lời ca mới, hoặc là để ngâm, để đọc. Một số tác phẩm của các nhàvăn, nhà thơ sáng tác theo phong cách dân gian đi vào đời sống được dângian hóa cũng trở thành ca dao. Do vậy khái niệm ca dao mang một nộidung mới, GS Hoàng Tiến Tựu trong tập Văn học dân gian Việt Nam (II)đã viết: “Ca dao là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất của thơ dân gian, làloại thơ truyền thống có phong cách riêng, được hình thành và phát triểntrên cơ sở của thành phần nghệ thuật ngôn từ trong các loại dân ca trữ tìnhngắn và tương đối ngắn (đoản ca) của người Việt”.1.2.Nhân vật và nhân vật trong ca dao1.2.1. Nhân vậtNhân vật là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng các cá thể con người.Trong tác phẩm văn học, cái đã được nhà văn nhận thức tái tạo, thể hiệnbằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ.Đọc bất cứ văn bản văn học nào, trước hết người đọc đều bắt gặpnhững con người được miêu tả, trần thuật cụ thể. Đó chính là những nhânvật văn học. Như vậy nhân vật là khái niệm có nội hàm phong phú, địnhdanh một hiện tượng phổ quát của thế giới tác phẩm văn học bao gồmnhiều bình diện và cấp độ như thế, các nhà nghiên cứu có một thuật ngữ đểchỉ định, và giữa các thuật ngữ có mối liên hệ qua lại khá phức tạp.1.2.2. Nhân vật trong ca daoNhân vật trong ca dao là nhân vật trữ tình, tâm trạng. Đây là nhân vậtgiao tiếp nên có nhân vật là chủ thể trũ tình và nhân vật là đối tượng trữtình. Nhân vật trung tâm của ca dao là nhân vật nam- nữ làm song hànhvới nhau theo từng cặp giao tiếp đối đáp hay từng phe đối đáp. Nhân vậttrong ca dao có hai dạng thức: nhân vật hiển ngôn và nhân vật hàm ngôn.1.3.Biểu tượng và biểu tượng trong ca dao1.3.1. Biểu tượngBiểu tượng là hình ảnh tượng trưng, thể hiện quan niệm, tình cảm củacon người về nhân sinh, vũ trụ. Biểu tượng có thể thuộc thế giới các hiệntượng thiên nhiên, tự nhiên; hoặc là những biểu tượng của thế giới nhântạo. Biểu tượng được hình thành trong quá trình lâu dài, có tính ước lệ vàbền vững.Biểu tượng được hiểu như những hình ảnh tượng trưng, được cả cộngđồng dân tộc chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong một thời gian lâu dài.Nghĩa của biểu tượng phong phú, nhiều tầng bậc, ẩn kín bên trong, nhiềukhi khó nắm bắt. (Theo: Nguyễn Bích Hà, Nghiên cứu văn học dân gian từmã vưn hóa dân gian, chuyên đề sau đại học, giảng tại Trường Đại học Sưphạm Hà Nội từ năm 2001 đến nay)1.3.2. Biểu tượng trong ca daoTrong ca dao biểu tượng được dùng thật đa dạng: con cò, con bống,trúc, mai, hoa nhài, hoa sen, núi, mây…Ngoài ra, còn có một số biểutượng kép cũng cần được quan tâm, mà muối mặn - gừng cay là một ví dụ.CHƯƠNG IINHÂN VÂT VÀ BIỂU TƯỢNG TRONG CA DAO2.1.Nhân vật trong ca dao2.1.1. Nhân vật nữ trên các phương diện2.1.1.1. Trên phương diện người yêuCái đẹp của ca dao giống như cái đẹp của cô thôn nữ. Hình ảnh trongca dao rất mạnh mẽ, trong trẻo như không khí đồng quê buổi sáng. Mộttrong những hình ảnh mà ca dao thường đề cập đến là hình tượng củangười phụ nữ. Họ có nhiều đức tính tốt, nhưng họ là người phải chịu nhiềukhổ cực, cay đắng nhất, họ thường không có quyền như nam giới. Đượcthể hiện qua các mối quan hệ, nhưng đặc sắc nhất vẫn là tình yêu đôi lứa.Ca dao phác họa những người đẹp đồng quê có dáng đứng riêng:- Trúc xinh trúc mọc đầu đình,Em xinh em đứng một mình cũng xinh.-Trúc xinh trúc mọc bờ aoEm xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.Những nét của cô gái được dân gian đặc tả rất chi tiết.Tóc em dài em cài hoa lýMiệng em cười có ý anh thương.Chân mày vòng nguyệt có duyênTóc mây dợn sóng tợ tiên non Bồng.Đôi mắt:Hoa thơm hoa ở trên câyĐôi mắt em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ.Những người con mắt lá rămĐôi mày lá liễu đáng trăm quan tiền.Nhan sắc, nét đẹp trên người cô gái được các chàng trai cụ thể hóa quahình ảnh các vật dụng hằng ngày như dao, hoặc bông hoa:Cổ tay em trắng như ngàCon mắt em liếc như là dao cauMiệng cười như thể hoa ngâuCái khăn đội đầu như thể hoa sen.Nhưng các cô thôn nữ sợ nhiều khi mình yêu mà chưa chắc đã đượcyêu, hay sợ tình yêu của mình đến chậm chăng, nên đôi lúc các cô cũngquanh co rào trước đón sau:Anh đà có vợ con chưaMà anh ăn nói ngọt ngào có duyênMẹ già anh ở nơi naoĐể em tìm vào hầu hạ thay anh.Những câu tỏ tình như đã kể ở trên thường là những câu mà trong lúcvắng vẻ, hai người đã hỏi ý cùng nhau. tất cả đều là những câu mộc mạcchân thành, nhưng không kém vẻ lãng mạn trữ tình.Khi yêu, tình yêu thật vô tư, trong sáng, không bị ảnh hưởng bởi tiềntài, địa vị, bất chấp mọi khó khăn miễn là họ ở bên nhau.- Thương nhau bất luận giàu nghèoDù cho lên ải, xuống đèo cũng cam- Yêu nhau chẳng quản chi nhàLều tre quét sạch hơn tòa ngói caoTình yêu gắn với sự thủy chung, son sắt, yêu đến chết vẫn còn yêu:Yêu anh tâm trí hao mònYêu anh đến thác vẫn còn yêu anhNhưng yêu nhiều, nhớ nhiều để rồi, người con gái phải chịu đau đớnkhi bị phụ tình:Nào khi mô anh nói với emKhông cạn và tình không cạnVàng mòn mà nghĩa không mònBây giờ nước lại xa nonĐêm nằm tơ tưởng héo hon ruột tằmỚi chi hai dạ ba lòngDạ cam thì ngọt, dạ bòng thì chuaTrong xã hội phong kiến khắt khe, người phụ nữ luôn chịu nhiều tủinhục, bất công. Nỗi niềm ấy được họ gửi gắm vào những câu ca dao thanthân:- Thân em như tấm lụa đàoPhất phơ giữa chợ biết vào tay ai-Thân em như chổi đầu hèPhòng khi mưa gió đi về chùi chânChùi rồi lại vứt ra sânGọi người hàng xóm có chân thì chùi.Người phụ nữ phải chịu đựng, nỗi khổ vật chất “ngày ngày hai buổitrèo non”, “ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương”. Nhưng nỗi khổ lớnnhất, xuất hiện với tần số cao nhất vẫn là nỗi khổ về tinh thần, nỗi khổ củathân phận mong manh. Họ ví mình với “tấm lụa đào”, “giếng nướctrong”...nhưng những nỗi khổ ấy không được xã hội quan tâm vì cảnh“trọng nam khinh nữ”.2.1.1.2. Trên phương diện người con, người con có hiếuTrên phương diện người con, người con có hiếu, dành tình cảm yêuthương đối với cha mẹ, nhưng có khi than thân trách phận khi bị ép duyên,có cả sự tủi hờn, nhớ nhung gia đình.Đó là tình cảm yêu thương, biết ơn kính trọng của con cái đối với chamẹ:Công cha như núi Thái SơnNghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy raMột lòng thờ mẹ kính chaCho tròn chữ hiếu mới là đạo conCông cha “núi Thái Sơn” thể hiện một sự cao cả, vững chãi, sừng sữnglàm điểm tựa cho con cái, gợi lên vẻ gần gũi thân thương. Ví mẹ như“nước biển đông” là hình ảnh chỉ sự mênh mông vô tận tình cảm của mẹlớn lao là không thể nói hết được.Tình thương, ơn nghĩa của cha mẹ, luôn ở sâu trong trái tim của mỗingười con, bởi thế con cái phải trân trọng những tình cảm cha mẹ dànhcho mình.Nuôi con khó nhọc đến giờ,Trưởng thành con phải biết thờ hai thân,Thức khuya dậy sớm chuyên cần,Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo con.Biểu hiện của tình yêu con cái đối với cha mẹ là nỗi nhớ thương:Chiều chiều ra đứng ngõ sauNgó về quê mẹ ruột đau chín chiều.Nhưng ẩn sâu trong tình yêu cha mẹ là có sự than thân trách phận khi bịép duyên, có cả sự tủi hờn.Mẹ em thấy của thời thamHang hùm cứ tưởng hang vàng ép conNói ra thẹn với nước nonNgậm vào cay đắng lòng con đêm ngày.2.1.1.3. Trên phương diện con dâu, đối xử với mẹ chồngTrên phương diện con dâu, đối xử với mẹ chồng là yêu thương là trântrọng như mẹ đẻ, nhưng cũng có sự đối nghịch với mẹ chồng trong giađình.Trong ca dao, chúng ta thấy có những câu, những bày tỏ ý oán giận cha mẹchồng:Hai ta là bạn thong dongNhư đôi đĩa ngọc nằm trong mâm vàngBởi chung thầy mẹ nói ngangCho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.Trong thời phong kiến, giữa mẹ chồng và nàng dâu thường có mâuthuẫn.Khi đi lấy chồng, họ còn chịu thêm trăm điều cay cực. Quan niệm “xuấtgiá tòng phu” khiến những cô gái khi về nhà chồng như một người ở đợ vìthế họ luôn nhớ về quê mẹ:- Chiều chiều ra đứng bờ sôngMuốn về với mẹ mà không có đò- Chiều chiều xách giỏ hái rauNgó lên mả mẹ ruột đau như dần.Trong hoàn cảnh ấy đại đa số những người phụ nữ đành cam chịu,nhưng cũng có trường hợp, người con dâu tỏ thái độ phản kháng:Cô kia đội nón đi đâuTôi là phận gái làm dâu mới vềMẹ chồng ác nghiệt đã ghêTôi ở chẳng được, tôi về nhà tôiSở dĩ họ phải phản kháng là do không còn nơi để bấu víu, tựa nương.2.1.1.4. Trên phương diện người vợMột khi đã lấy chồng, bổn phận của người phụ nữ là “xuất giá tòngphu”. Họ phải nuôi con, chăm sóc chồng qua ngày tháng, không chỉ ngườiphụ nữ bình dân, ngay cả gia cấp quý tộc, con gái vua lấy chồng cũng phảigiữ phận chữ tòng:Con vua lấy thằng bán thanNó dắt lên ngàn cũng phải đi theo.Người phụ nữ sẵn sàng chấp nhận những thiếu xót của người đànchồng. Không vì người đó xấu mà buồn. Không vì người đó nghèo mà xấuhổ.Đây là phẩm chất tốt của người phụ nữ.Người phụ nữ luôn thương chồng đù nắng mưa, trèo đèo lội suối:Thương chồng nên phải gắng côngNào ai xương sắt da đồng chi đâyXem gia đình chồng là gia đình mình. Chu toàn bổn phận làm dâu, giữgìn danh tiếng cho gia đình chồng. Nuôi mẹ chồng và con cái khi ngườichồng đi xa.Anh về hái đậu chày càĐể em đi chợ kẻo mà lỡ phiên,Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của,Miệng tiếng người cười rõ sao nên,Lấy chồng phải gánh giang sơn,Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì.Hay:Con cò lặn lội bờ sôngGánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.Nàng về nuôi cái cùng conĐể anh đi trẩy nước non Cao BằngHình tượng phụ nữ Việt Nam ngày xưa thật tuyệt vời. Vừa đẹp người,vừa đẹp nết. Họ là những người vợ đảm, mẹ hiền, lại có tinh thần yêunước. Không chỗ nào chê được.Và cũng thật đáng thương.2.1.1.5. Trên phương diện người mẹTrong các hình ảnh về gia đình mà mỗi người chúng ta còn giữ lại, cólẽ hình ảnh về mẹ là sâu dậm và rõ rệt hơn cả. Nó rõ rệt đến nỗi không chỉđược gợi lại qua các kỷ niệm của cuộc sống thường ngày, mà còn đượcviết ra cả trong thơ văn:Công cha như núi Thái Sơn,Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.Con cái là động lực để người mẹ sống, là nguồn động viên an ủi mỗilúc khó khăn, vất vả. Chính vì vậy, con cái là những gì cao quý nhất khônggì sánh bằng.Có vàng, vàng chẳng hay phôCó con con nói trầm trồ mẹ nghe.Mẹ dành tất cả tình thương cho con, luôn mong cho con được vuisướng, hạnh phúc.Sinh con ai nỡ sinh lòngSinh con ai chẳng vun trồng cho conMẹ chăm sóc con từng li, từng tí một.Người mẹ luôn dạy bảo, khuyên răn con phải sống thế nào cho tốt. Mẹuốn nắn cho con từ những ngày thơ dại.Uốn cây từ thủa còn nonDạy con từ thủa con còn ngây thơVà mẹ không quên nhắc nhở con cái về cái gia nghiệp, về đức cầnkiệm, về cách làm ăn :Trăm năm như cõi trời chung,Trăm nghề cũng phải có công mới thành.Cứ trong gia nghiệp nhà mình,Ngày đêm xem sóc giữ gìn làm ăn.Đặc biệt, người mẹ dạy con phải biết phụng thờ, hiếu kính với tổ tiên,ông bà.Khôn ngoan nhờ ấm cha ôngLàm nên phải đoái tổ tông phụng thờĐạo làm con chớ hửng hờPhải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.Hình ảnh đảm đang của mẹ đã được hiện lên trong cảnh của một giađình đầy đủ. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng hoàn hảo như thế.Có những lúc người cha đi vắng, sự can đảm của người mẹ thực là cao cả.Anh đi, em ở lại nhà,Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.Lầm than bao quản muối dưa,Anh đi, anh liệu chen đua với đời.Đau khổ hơn khi mất chồng. Hình ảnh mẹ góa nuôi con côi thực là chơivơi.Thiệt hại thay cho thằng bé nên ba,Nó lăn, nó khóc giữa nhà năm gian,Khóc than giữa chốn linh sàng,Ba vuông nhiễu tím đôi hàng chữ vôi.Chỉ những lời ca ngắn ngủi mà chất chứa trong đó bao ý tình sâu xa.Đó là lời nhắn nhủ của những người phụ nữ trọn nghĩa vẹn tình. Dù trongbất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn đồng cam cộng khổ cùng chồng, xây dựngmột gia đình đầm ấm yên vui.2.1.2. Nhân vật nam trên các phương diện2.1.2.1. Trên phương diện người yêuVai giao tiếp là nam cũng biểu hiện trên nhiều phương diện, đặc sắcnhất vẫn là tình yêu đôi lứa.Trên phương diện người yêu, được thể hiện qua nhiều cung bậc và sắcthái tình cảm. Khi tình yêu bắt đầu là sự tỏ tình khéo léo, kín đáo, có khitáo bạo, suồng sã chất phác, mảnh liệt. Tình yêu là sự nhớ nhung vô bờbến, là khát khao dâng hiến cho người mình yêu những gì tốt đẹp nhất.Tình yêu của chàng chân thành, nhưng cũng có sự trách móc, phân vân khiphụ tình.Hôm qua tát nước đầu đìnhBỏ quên chiếc áo trên cành hoa senEm được thì cho anh xinHay là em để làm tin trong nhà.Cái áo chàng bỏ quên có thể vô tình nhưng rất có thể là cố ý. Cũng cóthể chỉ là sự bịa đặt khéo léo để tạo nên cuộc gặp gỡ để chàng trai hé mởlòng mình với cô gái.Cũng có khi chỉ là một câu hỏi bâng quơ nhưng diễn đạt bằng nhữngcâu thơ thật trữ tình của một đêm trăng sáng, chàng trai có nhiều hi vọngđể được cô gái trả lời:Cô kia cắt cỏ một mìnhCho tôi cắt với chung tình làm đôiCô còn cắt nữa hay thôiCho tôi cắt với làm đôi vợ chồng.Hay:Duyên kia ai đợi mà chờTình kia ai tưởng mà tơ tưởng tìnhSá chi một mảnh gương hìnhĐể duyên chờ đợi cho mình say mê.Khi đã yêu người con trai có một khát khao hiến dâng cho người mìnhyêu những gì tốt đẹp nhất:Ước gì anh hóa ra hoaĐể em nâng lấy rồi mà cài khanƯớc gì anh hóa ra chănĐể cho em đắp, em lăn, em nằmƯớc gì anh hóa ra gươngĐể cho em cứ ngày thường em soiƯớc gì anh hóa ra cơiĐể cho em đựng cau tươi, trầu vàng.Ở đây sử dụng điệp ngữ “ước gì” hai lần một cách dứt khoát, thể hiệnước nguyện chính đáng và trong sáng của chàng trai đó, về sự chung đôicủa với cô gái qua các từ “gương” “cơi”. Chàng đã dùng những hình ảnhđó như là lời cầu hôn của mình. Bài ca dao đã cho ta thấy một cách tỏ tìnhhết sức giản dị mà sâu sắc.Yêu đương là thời gian thơ mộng nhất cũng như đầy thử thách nhất.Nào yêu thương, nào nhớ nhung, nào giận hờn, nào xa cách, nào đợi chờ…Mình về tôi cũng đi theoSum vầy phu phụ, hiểm nghèo có nhauChẳng thà đĩa muối chén rauThủy chung sống ở, sang giàu mặc ai.Tình yêu cho ta những tình thương, tình cảm yêu mến:- Thương em vô giá quá chừngTrèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay.- Thương em nỏ biết mần răngMười đêm ra đứng trông trăng cả mườiTình yêu của chàng chân thành, nhưng cũng có sự trách móc, phân vânkhi bị phụ tình.Ngày nào em nói em thươngNhư trầm mà để trong rương chắc rồiBây giờ khóa rớt chìa rơiRương long, nắp vỡ bay hơi mùi trầm2.1.2.2. Trên phương diện người con, người con trai hiếu thảoTrên phương diện người con, người con hiếu thảo, biết ơn thể hiện chínam nhi, là sự nhớ thương khi xa gia đình, mẹ già.Trong ca dao, người con trai hiếu thảo luôn luôn dành tình cảm yêuthương cho cha mẹ, luôn cầu mong cho cha mẹ mạnh khỏe, sống lâu.Mỗi đêm mỗi thắp đèn trờiCầu cho cha mẹ sống đời với con.Người con trai biết ơn công lao cha mẹ, giờ đây, chàng trai ra sức chămsóc, nuôi dưỡng mẹ già.Tôm rằn lột vỏ bỏ đuôiGạo lúa nhe An Cựu mà nuôi mẹ giàMẹ già là mẹ nhà anhEm vô bảo dưỡng cá canh cho thườngMẹ già như chuối ba hươngNhư xôi nếp một, như đường mía lauNgười con trai có hiếu, luôn muốn phụng dưỡng mẹ cha, thể hiện ý chínam nhi.Em thời đi cấy ruộng bôngAnh đi cắt lúa để chung một nhàĐem về phụng dưỡng mẹ chaMuôn đời tiềng hiếu người ta còn truyền.Như vậy người con trai trong gia đình được ca dao thể hiện đó là ngườicon hiếu thảo, biết ơn thể hiện chí nam nhi. Đồng thời thể hiện sự nhớnhung da diết khi xa nhà, xa quê hương.2.1.2.3. Trên phương diện người chaTrên phương diện người cha, ngoài việc sinh thành ra con cái, còn làtình yêu thương tha thiết, là trụ cột gia đình, chỉ bảo nuôi dạy con trưởngthành. Trước hết người cha dạy con phải giữ trọn làm con.Công cha như núi Thái SơnNghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy raMột lòng thờ mẹ kính chaCho tròn chữ hiếu mới là đạo conMặt khác cha dạy con đã là anh em thì phải yêu thương lẫn nhau.Khôn ngoan đối đáp người ngoàiGà cùng một mẹ chớ hoài đá nhauCha còn dạy con, phải biết kính trên, nhường dưới.Chữ nghĩa là chử nhườngNhường anh, nhường chị là nhường người trênGhi lòng tạc dạ chớ quênCon em phải giữ lấy nền con em.Như vậy vai trò của người cha là rất quan trọng. Cha dành tất cả tìnhthương yêu tốt đẹp nhất cho những người con của mình.2.1.3. Sự hòa hợp và đối trọng trong quan hệ nam nữ2.1.3.1 Sự hòa hợp trong quan hệ nam nữBước đầu của tình cảm hoà hợp là sự gần gũi, tìm cách giao tiếp nhẹnhàng, hữu tình, hữu ý. Đôi lứa cùng chung lý tưởng tình yêu và xây dựnghạnh phúc gia đình.Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng,Tre non đổ lá đan sàng nên chăng?Đan sàng thiếp cũng xin vâng,Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?Ca dao dân ca Việt Nam có khá nhiều bài ca đối đáp rất hay, rất đẹpnhư một bài thơ tình tuyệt tác. Cặp xưng hô “mình- ta” mang sắc thái biểucảm, là từ xưng gọi ân tình, trìu mến thường thể hiện trong giao tiếp củanhững đôi lứa yêu nhau mà tình cảm đã đến độ chín muồi.Mình về có nhớ ta chăng?Ta như lạc buộc khăng khăng nhớ mìnhTa về ta cũng nhớ mìnhNhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao.2.1.3.2. Sự đối trọng trong quan hệ nam nữĐối trọng giữa hai vai giao tiếp có điểm giống nhau về thân phận conngười, nhưng khác nhau do phân cách trọng khinh: trọng nam, kinh nữ vàgiới tính. Đối trọng do quan niệm phong kiến, địa vị, phân chia giàunghèo.Chiếu hoa mà trải sập vàngĐiếu ngô xe trúc sao chàng chẳng sayNhưng nơi chiếu cói võng đayĐiếu sần xe sậy chàng say la đàHay trong câu ca dao thể hiện sự than trách của người con gái đối vớingười con trai.Chàng ơi phụ thiếp làm chiThiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.2.2.Biểu tượng trong ca dao2.2.1. Cây trúc, cây maiTrong ca dao, mai tùy theo hình tượng, ngữ cảnh mà đôi lúc dùng làcây, là hoa. Như trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, NguyễnKhuyến…có khi từ này được dùng để chỉ cây mai cùng với loại cây tre.Tác giả dân gian không mấy khi tả thực cây trúc, cây mai. Họ nhắc đến“mai”, ‘trúc” là nhằm thể hiện con người. thể hiện cái khí chất của conngười.Trong ca dao, có khi “trúc được nhắc đến một mình, tượng trưng chongười con gái xinh xắn:Trúc xinh trúc mọc đầu đìnhEm xinh em đứng một mình cũng xinh.Hay:Trúc xinh trúc mọc bờ aoEm xinh em đứng nơi nào cũng xinh.Có nhiều trường hợp “trúc”, “mai” được dùng kết hòa hợp với nhau thểhiện tình cảm đôi lứa thắm thiết:Ai đi đâu đấy hỡi aiHay là trúc đã nhớ mai đi tìmTìm em như thể tìm chimChim ăn bể bắc đi tìm bể đông.Và:Hôm qua sum họp trúc maiTình chung một khắc, nghĩa dài tram năm.Trong ca dao, dân ca, “trúc”, “mai” được dùng để diễn đạt những cungbậc của tình cảm, những cảnh ngộ tìn duyên.Đây là lời nhắn nhủ và hi vọng:Đợi chờ trúc ở với maiĐợi chờ anh ở với ai chưa chồng.Đây là tâm trạng háo hức mừng vui:Trầu này cúc, trúc, mai, đàoTrầu này thục nữ anh hào sánh đôi.Đây là nỗi nhớ:Trúc nhớ mai, trúc buồn ngao ngánMai trở về, mai nhớ trúc chăng?Hay:Trúc xa mai trúc chẳng đứng yênTiếc người bạn ngọc ở miền sơn lâm.Đây là lời giận hờn trách móc:Những là lên miếu xuống ghèĐể tôi đánh trúc, đánh tre về trồngTưởng rằng nên đạo vợ chồngNào ngờ nói thế mà không có gì.Đây là những nỗi buồn:Chiều nay có kẻ thất tìnhTựa mai, mai ngả, tựa đình, đình xiêu.Trong ca dao ‘trúc”, ‘mai” thường được dùng với ý nghĩa tượng trưngcho đôi bạn trẻ, cho tình duyên.2.2.2. Hoa trong ca daoSau khi khảo sát 3506 lời ca dao, Lưu Nhị Nụ nhận thấy trong số hìnhảnh thiên nhiên được so sánh với người phụ nữ, “hoa”, “chim”, “cây”, “quả”là bốn loại được sử dụng nhiều nhất, trong tần số xuất hiện của “hoa” lớn gấpđôi so với cây.2.2.2.1. Hoa nhàiTrong số 12487 lời ca dao, dân ca được tập lại trong công trình sưu tậpKho tang ca dao người Việt, có 41 lời nhắc đến hoa nhài. Điều đó chứng tỏrằng hoa nhài là loài hoa nhài được dân gian rất dùng để miêu tả.Hoa là biểu tượng đáng chú ý trong ca dao nhưng hoa nhài có nhữngbiểu cảm khá đặc biệt, luôn được nhắc nhiều.Đây là lời người bình dân xưa miêu tả cảnh vừa đôi phải lứa:Đôi ta lấm tấm hoa nhàiChồng đây vợ đấy kém ai trên đời.Chỉ “lấm tấm” thôi, không to lớn, không lộng lẫy sắc màu. Một vẻ đẹphiền hòa, bình dị mà vẫn kém ai đâu.Hoa nhài thường được ví với nụ cười đáng yêu của người con gái:Ba cô anh lạ cả baBốn cô anh lạ cả bốn biết là quen ai?Anh chỉ quen một cô da trắng tóc dàiMiệng cười như cánh hoa nhài nở nang.Ở những lời ca trên, hoa nhài thường gợi vẻ đẹp bên ngoài. Dưới đâyhoa nhài nói với ta vẻ đẹp bên trong và lâu bền:Càng thắm lại càng mau phaiThoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu.Hương của hoa nhài còn tượng trung cho vẻ cao quý, văn minh:Chẳng thơm cũng thể hoa nhàiDẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.Trong thơ ca dân gian, hoa nhài thường ít được nhắc đến ở vị trí chiếmư thế, mà thường là những thứ hoa khiêm tốn có duyên:Chơi hoa cho biết mùi hoaThứ nhất hoa lí thứ ba hoa nhài.Và:Hoa lí là chị hoa làiHoa lí có tài hoa lài có duyên.Nói chung, trong ca dao, trong suy nghĩ của người bình dân, xét về ýnghĩa, hoa nhài là một thứ hoa đẹp, hoa quý. Qua các ý nghĩa của hoa nhài,chúng ta thấy rõ quan niệm thẩm mĩ, đồng thời cũng là quan niệm đạo đứccủa người lao động. Họ ca ngợi những gì là thủy chung, tình nghĩa, thích cáiđẹp, cái duyên bên trong hơn là những gì ồn ào chốc lát, phô trương bênngoài.2.2.2.2. Các loại hoa khácMỗi biểu tượng hoa xuất hiện trong mỗi bài ca dao mang một ý nghĩamột vị trí không giống nhau, ý nghĩa không đơn thuần như nhau, cũng nhưcâu ca dao mượn hình ảnh hoa nhưng không để miêu tả hoa:Hoa sói nó nở như riAi mà qua đấy bước đi chẳng rờiHoa bưởi tượng trưng cho tâm hồn người Việt Nam cũng thanh sạch,thơm tho như hoa Bưởi:Hoa nhài hoa sói hoa ngâuKhông bằng hoa bưởi thơm lâu dịu dàng.Trong các loài hoa biểu tượng cho vẻ đẹp cao quí, đài các ta không thểkhông nhắc tới hoa sen. Hoa sen biểu trưng cho sức sống bền vững, sinh thực:Hoa sen mọc bãi cát lâmTuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.Không chỉ thế hoa sen còn biểu trưng cho sự no đầy, phúc lộc:Lên chùa bẻ một cành sencơm bằng đèn đi cấy sáng trăngBa bốn cô có hẹn cùng trăngLên chùa ta sẽ chơi trăng ngoài thềm.Không những thế hoa sen có sức sống thật vĩnh cửu, dầm mưa, dãinước vẫn không phai nhạt nhan sắc. Chính vì vậy đã được nhân dân ta cangợi:Hoa sen hoa khéo giữ màuNắng hồng không nhạt mưa dầm không phai.Chính những vẻ đẹp của hoa mà con người ta đều muốn khám pháthuởng thức. Một vẻ đẹp không chỉ trong giới hạn của thiên nhiên mà còn đivào lòng nguời, cái đẹp gợi tình:Hoa thơm hoa ở trên cànhĐôi mắt em lúng liếng dạ em say lừ đừ.Hoa đào mong manh trước cảnh gió mưa của thiên nhiên đất trời cũngnhư người con gái lo sợ dè dặt trước khi trao gửi tình yêu mặn nồng :Vóc bồ liễu e dè gió bụi

Video liên quan

Chủ đề