Nhân xét về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du trong Trao duyên

Gợi ý

Có người cho rằng Truyện Kiều là “tập đại thành” về nghệ thuật của Nguyễn Du.

Điều này quả không sai bởi lẽ viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dụng tâm, dụng công rất nhiều khi lựa chọn, sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Và một trong những thành công của nhà thơ khi xây. dựng nhân vật là nghệ thuật miêu tả tâm lí.

Tâm lí, nội tâm con người vốn là vũ trụ đầy bí mật. Người nghệ sĩ chỉ có thể khám phá được đời sống nội tâm con người nếu thực sự thấu hiểu và đồng cảm với nhân vật của mình. Nhân vật Nguyễn Du thương yêu nhất trong Truyện Kiều và có lẽ là trong suốt đời thơ ca của Ông là Thuý Kiều – người con gái tài hoa mà bạc mệnh. Trong hoàn cảnh nào, nhà thơ cũng thâu hiểu, đồng cảm với nàng đến mức mọi diễn biến tâm lí của Kiều đều được nắm bắt và thể hiện một cách tinh tế. Qua hai đoạn trích Trao duyên vằ Nỗi thương mình, có thể thấy, Nguyễn Du rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của mình.

Cả Trao duyên và Nỗi thương mình đều là những đoạn thật hay, thật xúc động. Song, có thể thấy rõ sự khác biệt giữa hai đoạn trích này. Để Trao duyên, Kiều phải đối thoại với Thuý Vân nhưng trong Nỗi thương mình, Kiều chỉ có thể một mình đối diện với chính mình. Sự khác biệt đó đã chi phôi cách Nguyễn Du miêu tả tâm lí nhân vật ở mỗi đoạn trích.

Trong Trao duyên, để khắc hoạ tâm lí nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng thành công lời đốì thoại và độc thoại của nhân vật. Đoạn trích mở đầu bằng những lời Kiều nói với Vân:

Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Nguyễn Du đã rất tinh tế khi để Kiều dùng từ cậy mà không dùng từ nhờ vì cậy có ý tin chắc là người khác nhất định sẽ nghe mình. Cũng vậy, chịu lời và nhận lời có vẻ tương tự nhau nhưng chịu lời là nhận lời làm việc không do mình tự nguyện hoặc một việc khó chối từ. Hai chữ mặc em chốt lại màn dạo đầu nhưng lại mang hàm ý giao phó trách nhiệm. Rõ ràng, Kiều ý thức rất rõ việc mình trao duyên cho em là một việc cần thiết, quan trọng. Nàng không chắc Thuý Vân đã nhận lời nên mỗi từ Thuý Kiều nói ra đều được cân nhắc kĩ càng. Không thâu hiểu, đồng cảm với nhân vật của mình, Ngụyễn Du không thể viết những câu thơ với những từ đắt như thế.

Đến khi phải trao cho Thuý Vân những kỉ vật của tình yêu, trong Kiều nỗi đau đã cuộn lên thành những mâu thuẫn:

Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ, vật này của chung.

Tờ hoa tiên ghi lời thề nguyền của Kim Kiều, chiếc vành mây trước đây chàng Kim trao cho Kiều làm của tin giờ nàng đều trao cả cho Thuý Vân. Đành phải trao duyên (trao nhiệm vụ trả nghĩa chàng Kim) cho em để em thay mình đền nghĩa người yêu nên Kiều mới nói duyên này thì giữ. Duyên phải trao đi. vì nàng không thể cùng chàng Kim trọn lời thề ước. Còn tình yêu Kiều dành cho Kim làm sao mà trao được. Nó vẫn ở mãi trong lòng nàng. Và những kỉ vật kia chính là dấu tích của mối tình đầu, chính là vật lưu dấu tình yêu Kim Kiều. Phải trực tiếp trao nó vào tay Thuý Vân, lẽ nào Kiều không tiếc nuỗì? Hai chữ của chung đủ để diễn tả tất cả: nỗi tiếc xót, nỗi đau và sự cố gắng níu kéo (chị vẫn có phần trong đó). Để rồi sau tất cả nỗi niềm tâm trạng của Thuý Kiều, chúng ta có thể cảm nhận tình yêu sâu đậm Thuý Kiều dành cho Kim Trọng. Với Kiều, hạnh phúc của người mình yêu là điều hơn hết. Đó chính là lí do khiến nàng trao duyên cho Thuý Vân.

Trong khi nói với Thuý Vân, Kiều cảm tưởng như sông lại với các kỉ niệm của tình yêu với Kim Trọng. Nàng như sống trong hồi ức qua những kỉ vật và nhất là tưởng nhớ lại sự kiện đêm thề nguyền thiêng liêng:

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Rõ ràng trong tâm hồn Kiều, những kỉ niệm đẹp đẽ của tình yêu có sức sống thật mãnh liệt. Nguyễn Du thật tinh tế khi gợi lại các hình ảnh quá khứ: Cảnh chàng Kim cho thêm hương vào lò hương (đài sen nối sáp lờ đào thêm hương) và cảnh Kiều đàn cho Kim Trọng nghe (So dần dây vũ dây văn} trong đêm thề nguyền. Mỗi kỉ niệm đã qua đều khắc sâu trong lòng nàng. Điều đó chứng tỏ tình yêu nàng dành cho chàng Kim cực kì sâu sắc. Và càng yêu sâu sắc, Kiều càng cảm thấy cuộc đời trống trải, vô nghĩa khi không còn tình yêu. Đó là lí do khiến nàng liên tưởng đến cái chết:

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Mọi cung bậc cảm xúc diễn ra trong Kiều đều hết sức logic. Nguyễn Du đã miêu tả dòng diễn biến hội tâm của nàng một cách chân thực. Mỗi từ ngữ được, mỗi hình ảnh đều được lựa chọn kĩ lưỡng nhằm khắc hoạ tâm trạng nhân vật.

Nhưng tình yêu không là vật chất, không thể trao đi rồi thì không còn nữa. Kiều trao duyên cho em để rồi phải nhận lại nỗi đau đớn khôn xiết. Nỗi đau đó vốn dĩ không thể được bộc lộ trong lờỉ Thuý Kiều nỏi với em. Hơn thế, nếu chỉ đơn thuần nói với Thuý Vân thì cảm xúc nhân vật sẽ không đạt tới cao trào, bi kịch của thân phận và tình yêu sẽ không dạt tới đỉnh điểm, nhân cách cao đẹp của Kiều cũng không có điều kiện lộ hiện. Vậy nên Nguyễn Du đã xây dựng những lời độc thoại nội tâm của Kiều ở phần hai đoạn trích:

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Đến lúc này, Kiều đã quên hết xung quanh. Nàng chỉ còn khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu ngắn ngủi. Đó là tiếng khóc cho một số phận, tiếng kêu đứt ruột cho một mối tình. Để rồi, từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với người yêu, từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc:

Trăm ngàn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Trong đoạn thơ ngắn, ba lần Nguyễn Du để Kiều gọi Kim Trọng bằng các từ khác nhau: tình quân, Kim lang, chàng. Đáng chú ý nhất là từ Kim lang. Nó được láy lại, gắn với những thán từ hô gọi ôi, hỡi đầy thê thiết. Trong tâm tưởng, Thuý Kiều đã coi Kim Trọng là chồng cho nên tiếng gọi đó vừa thể hiện sự tiếc nuối vì tình lứa đôi lỡ dở, vừa hàm chứa nỗi đau đớn khôn xiết của nàng. Nàng gọi chàng Kim để nhận lỗi về mình, để oán trách chính mình. Hơn khi nào hết, đây là giây phút đáng thương nhất cuộc đời Thuý Kiều. Bởi lẽ, mới đó thôi, người con gái ấy còn đang trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, vậy mà giờ đây…

Như vậy, bằng cách xây dựrg ngôn ngữ đối thoại và độc thoại, Trao duỳèn đã thể hiện thành công diễn biến tâm lí trong nhân vật Thuý Kiều.

Nhưng đến Nỗi thương mình, Nguyễn Du không thể lặp lại cách cũ để miêu tả tâm lí chính nhân vật đó. vẫn trên chất liệu ngôn từ, nhà thơ đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật điệp từ, cụm từ đan xen, lời nửa trực tiếp, hình thức đô’i để lám nổi bật tâm trạng Thuý Kiều trong tình cảnh trớ trêu:

Khi sao phong gấm rủ là,

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Ngụyễn Du đã dẫn người đọc đi vào thế giới nội tâm của Kiều tự bao giờ. Đọc đoạn thơ trên, chúng ta có thể cảm nhận được những ý nghĩ thầm kín mà nàng không thể nói ra. Đó chính là nỗi thương xót đến cháy lòng cho cảnh ngộ và thần phận của chính mình.

Từ hai đoạn trích, có thể thấy Nguyễn Du đã rất linh hoạt trong khi lựa chọn các biện pháp nghệ thuật để miêu tả tâm lí nhân vật của mình. Chính điều đó làm nên thành công cho Truyện Kiều, cho nhà thơ. Và chúng ta có thể lí giải thành công ấy từ tấm lòng và tài năng của người nghệ sĩ này.

wikisecret.com

Bài làm Trong dòng văn học cổ, hầu như bất kì một tác phẩm nào khi được sáng tác ra cũng mang trong đó những nỗi lòng u uất, những tâm trạng thổn thức đến bất an. Vâng, việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là hơi thở, giá trị của tác phẩm, là hiện thực của cuộc sống và của xã hội, là những trắc ẩn dường như đến mênh mông… Và mỗi một tác giả có những nghệ thuật khác nhau để xây dựng thế giới nội tâm tâm lí, nhưng hãy dừng lại một chút ở Truyện Kiều, lắng nghe tiếng nói tâm trạng ta sẽ thấy được những nét chấm phá rất nghệ thuật, rất Nguyễn Du. Nhà thơ đã từng viết: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Và có lẽ đó là chân lí nghệ thuật thơ của Nguyễn Du. Một thế giới nội tâm trong thơ ông là những buồn vui trước thiên nhiên và cuộc sống phức tạp xung quanh, là con người, là câu nói và là hiện thực xã hội trong thơ. Chính vì vậy không phải ngẫu nhiên mà một nhà soạn sách văn học nào đó đã nhận xét: Có thể nói trong văn học cổ không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du, nhất là nội tâm nhân vật Thúy Kiều. Ở đây, tác giả đã viết rằng có thể nói, thật ra có thể nói chỉ là một sự mở đầu uyển chuyển. Cái tài của Nguyễn Du không phải là có thể mà phải là khẳng định. Truyện Kiều là một tác phẩm văn học vĩ đại, và cái sâu sắc nhất ở đây là nội tâm của Kiều. Một nhân vật, một tác phẩm không thể tuyệt vời được nếu như nhân vật đó không có nội tâm, tác phẩm ấy không tạo cho nhân vật cái nội tâm, cái hồn. Bởi nội tâm là thế giới tâm hồn phức tạp đem lại sức sống của nhân vật, nội tâm cũng chính là cái hồn của tác phẩm, cái hồn lắng đọng của thơ. Những nội tâm chồng chất đan chéo mâu thuẫn lên nhau chính là cái hay trong ngòi bút của Nguyễn Du khi viết truyện thơ. Thật vậy, khi tả đoạn Kiều trao duyên cho Thúy Vân, Nguyễn Du đã không mở đầu bằng một nàng Kiều u uất mà ông viết về một Thúy Vân vô tư: Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han Cơ trời dâu bể đa đoan Một nhà để chị riêng oan một mình Có chi ngồi nhẫn tàn canh Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây? Thế đấy, tâm trạng của Kiều được bộc bạch qua hành động của Thúy Vân, được bắt đầu bằng những lời nói của Thúy Vân. Vân đang trong giấc xuân thế sao Kiều lại ngồi nhẫn tàn canh? Thúy Vân đang cùng chị chuẩn bị mừng duyên mới, cớ sao Kiều lại ngồi khóc. Tiếng khóc ấy không bật ra, truyện chỉ qua lời nói của Thúy Vân nhưng ta vẫn cảm nhận, vẫn nhìn thấy cái thẫn thờ, dằn vặt, ray rứt, bối rối, băn khoăn, xót xa, đau đớn qua cái vô tư, bình thản của Thúy Vân. Thế đấy ngay cả cái hoàn cảnh mở đầu cho một bài thơ, chúng ta vẫn có thể nhận thấy cái vô tình rất nghệ thuật của Nguyễn Du. Cái vô tình ấy là một vô tình có dụng ý, nó càng chứng tỏ cái tinh tế trong cách diễn tả nội tâm của nhân vật. Vân càng vô tâm để rồi sau mới thắc mắc, hỏi han, càng làm bật lên nỗi âm thầm đau xót của Kiều. Chính vì thế không vô tình khi bắt đầu đoạn đời gái lầu xanh, bắt đầu phải tiếp khách làng chơi của Kiều. Nguyễn Du đã xây dựng tâm trạng nhân vật trong khung cảnh Khi tỉnh rượu lúc tàn canh. Ngay sau cơn say, ngay giữa lúc canh tàn, khi cuộc vui đã chấm dứt, khi thời gian đã tàn lụi, tác giả nói về nội tâm của nàng Kiều. Nội tâm Kiều được thể hiện ngay ở những dòng đầu tiên của đêm trao duyên và đêm truy hoan. Hai giai đoạn là hai nội tâm khác nhau và cũng là hai hoàn cảnh khác nhau. Nếu như lúc trao duyên, Kiều day dứt, băn khoăn được thể hiện qua cô em Thúy Vân, thì ở đây, trong cái cảnh tiếp khác làng chơi, Nguyễn Du lại đặt nội tâm của Kiều vào đêm khuya, vào mặt trái của những cuộc vui để thấy được cái chua chát, đau đớn của Kiều. Cái hay chính là ở đó, chính là ở những khoảnh khắc mà con người trải qua để rồi từng từ, từng ngữ, từng ý thơ, Nguyễn Du có thể biến nó thành những nội tâm chồng chất một cách khéo léo và tài tình. Nhà thơ đã viết: Cậy em, em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa …Kể từ khi gặp chàng Kim Khi ngày quạt nước, khi đêm chén thề Sự đâu sóng gió bất kì Hiếu tình hôn dễ hai bề vẹn hai. Một lời mở đầu rất dịu dàng, dường như năn nỉ, dường như nài ép của Kiều. Cậy, Kiều cậy em, Kiều nhờ em chịu lời. Kiều xin, Kiều lạy rồi Kiều thưa. Từng từ, từng từ được thốt ra là điều cân nhắc và chọn lọc. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất chín, Kiều đã quyết định trao duyên mình cho Thúy Vân. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng sẽ phải lỡ làng. Cái ray rứt của nàng là ray rứt cho Thúy Vân phải chắp nối tơ thừa. Nhưng khi ngỏ lời nàng còn biết cách nói cho dịu lòng Vân, để ép Vân nhưng tại sao, tại sao nàng lại kể về mối tình đầu thơ mộng, tuyệt đẹp của mình. Đáng lẽ ra trao duyên cho Vân, nàng phải kể về những cái đẹp, cái tốt, cái đáng thương của Kim Trọng, đằng này nàng lại khẳng định mối tình của mình. Khi đoạn Kể từ khi gặp chàng Kim, ta bỗng thấy câu thơ ấy như bị khựng lại so với ý của câu trên. Đó chính là tâm lí của cô gái, đó chính là nghệ thuật trong ngòi bút của Nguyễn Du. Sự xúc động, niềm thương cảm đã làm bật dạy tình cảm, tâm trạng của nàng Kiều. Suy nghĩ, đắn đo để quyết định trao duyên, nhưng khi thực sự mở lời, nàng không thể kìm được sự xúc động của chính mình. Đó là một tâm lí bình thường, một diễn biến tâm trạng rất hiển nhiên của con người. Đem trao một mối tình ai chẳng xót xa. Nếu như lúc đầu lời lẽ nàng cân nhắc, sắc sảo bao nhiêu thì giờ đây, khi nghĩ về mối tình của mình, nàng chợt lộ một tâm trạng mâu thuẫn đáng thương: Chị dù thịt nát xương mòn Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây Chiếc thoa với bức tờ mây Duyên này thì giữ, vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên. Kiều trao duyên cho em, thì chiếc thoa với bức tờ mây là của Vân và Trọng. Thế mà nàng nghẹn ngào Duyên này thì giữ, vật này của chung. Ngay cả nhịp thơ bốn – bốn ở câu thơ này cũng bộc lộ nỗi niềm sâu kính trong Kiều. Như nghẹn ngào thổn thức bật lên lời Vật này của chung, nàng luyến tiếc đau khổ xót xa cho những kỷ vật xưa. Và rồi những tình cảm chân thực ấy, tâm trạng đau khổ tuyệt vọng của nàng Kiều được Nguyễn Du thể hiện bằng một từ duy nhất dù (Dù em nên vợ nên chồng). Khi đã quyết định trao duyên cho Vân, lẽ ra Kiều phải nói nên vợ nên chồng nhưng ở đây lại là dù em nên vợ nên chồng. Kiều không còn bình tĩnh nữa, một sự lúng túng trong lời nói rất nhỏ nhặt này đã bộc lộ tài năng của Nguyễn Du. Trong Kiều lúc ấy sự lưu luyến tiếc thương, khi một nỗi lòng đau đớn xúc động, một diễn biến tâm lý rất dễ hiểu, rất đáng thương được Nguyễn Du cân nhắc bằng từng lời nói, từng chữ và đặc biệt là bằng sự Cảm thông sâu sắc lạ lùng của nhà thơ. Bởi thế mới thấy được cái hay sát thực trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của tác giả Truyện Kiều. Trong thơ ông, nghệ thuật ấy chính là sức cảm thông lạ lùng mà thi hào dành cho tâm trạng những con người đang yêu, nó ánh lên sự hy sinh cao đẹp và bật lên cái ích kỷ đáng yêu trong tình yêu. Kiều trao duyên cho em nhưng nàng vẫn mong manh, đấy là một minh chứng hùng hồn cho sự tài tình có một không hai ở ngòi bút của Nguyễn Du, và cái tài tình ấy còn là tâm trạng phức tạp, sự khác biệt nội tâm của nhân vật. Nhà thơ viết: Giật mình, mình lại thương mình xót xa Khi sao phong gấm rủ là Giờ sao tan tác như hoa giữa đường Mặt sao dày gió dạn sương Thân sao bướm chán ong chường bấy thân? Cũng là một nàng Kiều với nội tâm đầy sóng gió của mình, nhưng ở hai giai đoạn đời là hai sự đúc kết khác nhau, là hai cách diễn đạt khác nhau. Nếu như ở đoạn trao duyên cô gái trong trắng Thúy Kiều rất bình tĩnh, bình tĩnh để nhìn lại đời mình, nàng đã không khóc, không kêu, một sự bình tĩnh đến lạ lùng đến đáng sợ. Bởi tâm trạng nàng giờ đây không còn là sự mong manh đau khổ của người con gái đầu tiên đối mặt với cuộc đời, nó trở thành cái đau đớn lạnh giá trong lòng của một người phụ nữ ô nhục sao, sao, và lại sao (Khi sao, giờ sao, mặt sao) điệp từ ấy như một khúc điệp, đặt vào lòng người một tâm trạng tủi nhục đến ê chề của Kiều. Nàng không còn là sự lưu luyến ngây thơ đau khổ, mà nàng đang chán chường oán hờn. Cũng là đau khổ đấy, cũng là tiếc thương cho những gì đã có đã qua, một mối tình, một cuộc sống phong gấm rủ là, nhưng ở cô gái Thúy Kiều còn trướng rủ màn che nó khác với người phụ nữ đã dày gió dạn sương, đã bướm chán ong chường. Hai tâm trạng đời người với hai nét bút, hai nét vẽ. Cái khổ nào cũng là tột cùng, cái khổ nào của nàng cũng là sự tan vỡ tâm hồn. Nhưng khi nghĩ về chính mình ở đoạn trao duyên, sự đau đớn của nàng bật lên thành lời, một tiếng kêu khẩn thiết của nỗi lòng đau khổ của một cô gái yếu đuối: Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây… Sự đau khổ, sự ức chế được thốt ra thì khi nghĩ về phận mình, về đời mình ở chốn lầu xanh, Nguyễn Du để cho nàng đắm chìm trong suy nghĩ, không cho nàng một tiếng kêu khóc xót xa, có chăng thì đó chỉ là những câu hỏi thầm oán hận không câu trả lời. Để rồi chính nhà thơ bằng ngòi bút của mình đã nói lên nỗi đau khổ, tuyệt vọng tột đỉnh của nhân vật: Song sa vò võ phương trời Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng Lần lần thỏ bạc ác vàng Xót xa trong hội đoạn trường đòi cơn…. Đã cho lấy chữ hồng nhan Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân Thế đấy, nội tâm của Kiều thể hiện qua tiếng lòng xót thương của Nguyễn Du. Song sa, vò võ rồi lại phương trời, từng từ, từng từ như luyến quyện vào nhau để bật lên cái cô đơn ê chề trong hoàn cảnh của Kiều, cho cái kiếp hồng nhan bạc mệnh của nàng. Không chỉ là một sức cảm thông lạ lùng của Nguyễn Du dành cho Kiều, mà còn là tình thương to lớn, thương cho tâm trạng tan nát của nàng. Nguyễn Du đã thốt lên rằng: làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân. Thật sự nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du đã lên đến đỉnh cao trong dòng văn học cổ. Bất kỳ một chi tiết, một hoàn cảnh nào, Nguyễn Du cũng mượn nó để chứa đựng, để phơi bày thế giới nội tâm của nhân vật. Thật vậy, trong đau khổ, con người ta hay tự tìm cho mình một chỗ dựa để vươn lên, và để sống. Ở Kiều, chỗ dựa vững chắc cho tâm hồn nàng chính là gia đình và người tình. Nhưng nếu như trong những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, nàng đã sớm nghĩ về Kim Trọng trong sự lo lắng cho người yêu và có chút gì đó hy vọng thì ở đây nàng lại nghĩ về gia đình trước. Nhớ ơn chín chữ cao sâu Một ngày một ngả bóng dâu tà tà Dặm nghìn nước thẳm non xa Nghĩ đâu thân phận con ra thế này Nàng nghĩ về chữ hiếu, rồi mới nhớ đến chữ tình: Nhớ lời nguyện ước ba sinh Xa xôi ai có thấu tình chăng ai? Khi về hỏi liễu Chương Đài Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay! Tình sâu mong trả nghĩa dày Hoa kia đã chắp cánh này cho chưa? Tại sao trong đoạn đời tủi nhục này, nàng lại nghĩ trước hết về chữ hiếu, về cha mẹ? Đó là một khía cạnh trong nội tâm của Kiều mà Nguyễn Du khéo tả. Nếu như trước đây, Kim Trọng là sự đau đớn vô vọng. Nàng chỉ mong được trả nghĩa, nàng tự hỏi Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? Nàng đã chấp nhận số mạng, Kim Trọng chỉ còn là những kỷ niệm bởi nàng đã là người phụ nữ ê chề chốn lầu xanh. Và cha mẹ, chữ hiếu giờ đây chính là điểm tựa để nàng sống, để nàng vượt lên những đau khổ hiện tại, và những nét đẹp tâm hồn ấy, những biểu hiện trong nội tâm của Kiều đã được Nguyễn Du khai thác triệt để, nó càng chứng tỏ tài năng vượt trội của thi hào. Nếu như ở Hồ Xuân Hương hay ở Nguyễn Khuyến thế giới nội tâm cũng được bộc lộ trong từng từ, từng câu, từng hoàn cảnh với những dụng ý viết rất nghệ thuật thì ở Nguyễn Du, cao hơn một bước, thế giới nội tâm trong ngòi bút của ông không bó trong một khoảng không gian hẹp, không giới hạn trong cái nhìn về những bức xúc của người phụ nữ như trong thơ Hồ Xuân Hương Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn; cũng như không chỉ là những trăn trở về thời cuộc như của Nguyễn Khuyến. Thế giới nội tâm của Nguyễn Du trải dài, xuyên suốt một tác phẩm lớn, đi từ cái nhỏ nhất, bình dị nhất của cuộc sống đến những cái khát quát cao sâu. Trong dòng văn học cổ, thế giới nội tâm thường là những khái quát về một bức xúc trong xã hội, thì ở Nguyễn Du là nội tâm của từng con người trong từng giai đoạn đời người, đó là những tâm lý đời thường dung dị. Và không dừng lại ở đó, ngòi bút của Tố Như là một ngòi bút thiên phú, thế giới nội tâm trong thơ Nguyễn Du còn được ngụy trang bằng thiên nhiên, bằng những nghệ thuật ước lệ tài tình: Đòi phen gió tựa hoa kèn Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! Đòi phen nét vẽ câu thơ Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa Vui là vui gượng kẻo là Ai tri âm đó mặn mà với ai? Tám câu thơ là hai đoạn đối nhau, đối về hình thức, nghệ thuật, nội dung. Tám câu thơ là rất nhiều khung cảnh thiên nhiên. Với bút pháp ước lệ quen thuộc của mình Nguyễn Du đã bộc lộ tâm trạng nàng Kiều rất sâu sắc. Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Cảnh vật trong thơ ông bao giờ cũng mang cái tình, cũng in đậm một thế giới nội tâm ông, thi hào Nguyễn Du, đã mượn thiên nhiên để ước lệ cuộc sống lầu xanh, một cuộc sống có hoa, có gió, có trăng, có những cảnh đẹp nên thơ; Một cuộc sống có cái vẻ thanh thản thưởng thức tiếng đàn dưới trăng, chơi cờ, ngâm thơ trong cái ngạt ngào của hương hoa. Và những nét đẹp đó còn đẹp hơn trên nền tảng nghệ thuật ước lệ tượng trưng mà Nguyễn Du thường sử dụng. Nhưng cũng chính những mặt phải tưởng như tao nhã ấy đã đẩy bật cái nội tâm sâu sắc, cái tâm hồn tinh khiết của Thúy Kiều. Nếu như Nguyễn Trãi mượn thiên nhiên để gửi vào đó cái u ám của xã hội thì Nguyễn Du sử dụng thiên nhiên để làm đẹp cho cuộc sống lầu xanh, một xã hội phong kiến thu nhỏ, bởi cả hai đều đẩy con người vào con đường cùng để rồi chính những nét đẹp đó bị nội tâm trăn trở, u uất của Kiều đè bẹp. Chính nội tâm sâu sắc của Kiều: Vui là vui gượng kẻo là. Ai tri âm đó mặn mà với ai? Chính sự bức xúc đau đớn, chính cái ai bế tắc, chính cái vui gượng xót xa trong nội tâm của Kiều đã công kích, đối nghịch với những nét tao nhã chốn lầu xanh. Mặt trái cuộc sống được phơi bày, cái tao nhã ấy, những nét đẹp ấy chỉ là sự giả tạo dối trá gió chỉ tựu và hoa chỉ kề. Nghe cung đàn, thưởng thức câu thơ, không được xuất phát tiếng nói của tình yêu, mà được cất lên từ tiếng đàn vui gượng, mới thấy được những tiếng vỗ tay tán thưởng cho tài năng của nàng hoàn toàn vô nghĩa. Đó chỉ là cuộc sống bạc bẽo, nhầy nhụa ở chốn lầu xanh. Nội tâm cô đơn u uất của Kiều là lời tố cáo cuộc sống của nàng mà nàng đang phải sống. Nó bóp nghẹt tiếng đàn, câu thơ của nàng. Nhưng tâm trạng, nội tâm của nàng không bị vùi lấp bởi sự đau khổ ấy, nó vẫn vươn lên. Thế đấy, không thể lẫn, càng không thể so được tài năng của Nguyễn Du. Sự chán chường, đau khổ, tuyệt vọng của Kiều được Nguyễn Du diễn tả bằng những bút pháp khác nhau. Để rồi từ những diễn biến tâm lý rất hợp lý, tinh vi trong cuộc sống, trong tình yêu, Nguyễn Du khái quát thành một thế giới nội tâm phong phú đầy day dứt băn khoăn, khắc khoải. Chính qua cái thế giới nội tâm ấy, thi hào Nguyễn Du đã làm bật lên một số đặc điểm cố hữu: mượn cái đau đớn của nội tâm để tố cáo xã hội, tố cáo những kẻ đã đẩy con người, đã trút lên con người những tủi nhục ê chề đó. Thơ Nguyễn Du khi diễn tả thế giới nội tâm có vài cái chung trong thơ văn cổ, và cũng có những nét riêng sáng tạo. Đó chính là một nghệ thuật diệu kỳ, và đó cũng là lời minh chứng hùng hồn không có một nhà thơ thứ hai nào thành công trong việc miêu tả nội tâm nhân vật như Nguyễn Du. Và Kiều, thế giới nội tâm của nàng là cơ sở nền tảng cho lời nhận xét ấy! Trần Thị Bình An Trường PTTH chuyên Hà Nội – Amsterdam