Dữ liệu – yếu tố quan trọng nâng cao hiệu quả các nguồn lực kinh tế

Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Đồng chí Trần Minh Tân, chuyên gia cao cấp, Ban Công nghệ Thông tin, Viện Chiến lược Thông tin và Truyền thông.

Tham luận tại hội thảo, đồng chí Trần Minh Tân, chuyên gia cao cấp, Ban Công nghệ Thông tin, Viện Chiến lược Thông tin và Truyền thông nhấn mạnh: Trong mọi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, việc quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế đều cần phải có dữ liệu. Phạm vi dữ liệu phục vụ cho phát triển kinh tế không chỉ đơn thuần là những số liệu thống kê, mà quan trọng hơn, còn là các dữ liệu phục vụ cho việc phân tích, dự báo, xây dựng các kế hoạch phát triển đất nước. Thời điểm hiện tại, thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0), chuyển đổi số đang dần được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống và tác động sâu sắc tới hệ thống chính trị, xã hội và kinh tế của các nước. Ở trọng tâm của quá trình chuyển đổi số, dữ liệu tiếp tục là đòn bẩy quan trọng, tạo động lực cho tăng trưởng và quản lý kinh tế của mỗi quốc gia.

Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi số, hướng tới Chính phủ số, Kinh tế số, Xã hội số. Trong bối cảnh Việt Nam đang chuyển mình từ kinh tế truyền thống sang kinh tế số thì dữ liệu cho chuyển đổi số đóng vai trò then chốt để nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế. Căn cứ các mục tiêu cụ thể về nguồn nhân lực, nguồn vật lực và nguồn tài lực đã được đề ra trong Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; để chuẩn bị tốt dữ liệu phục vụ phát triển kinh tế, cần hệ thống các giải pháp đồng bộ, trong đó trước mắt cần tập trung vào những giải pháp cơ bản như:

Thứ nhất: Kiến tạo thể chế, chính sách về dữ liệu. Theo đó, hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ chế chính sách và quy định liên quan đến quản trị dữ liệu; chính sách thúc đẩy, khuyến khích các tổ chức, cá nhân xây dựng và tạo lập dữ liệu và đóng góp vào hạ tầng dữ liệu quốc gia; quản lý dữ liệu xuyên quốc gia; bổ sung các quy định về bảo mật dữ liệu, an ninh mạng, giao dịch điện tử và pháp luật về thương mại điện tử và thuế. Bên cạnh việc triển khai Chiến lược dữ liệu quốc gia, cần đồng thời rà soát, sửa đổi, ban hành mới quy định, chính sách về tài sản dữ liệu, mua, bán, chuyển nhượng dữ liệu, cung cấp dịch vụ dữ liệu,.... để tạo thị trường dữ liệu phát triển lành mạnh, an toàn, tuân thủ pháp luật. Rà soát, sửa đổi quy định, chính sách về tài chính, phí, lệ phí để cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu cho doanh nghiệp, tạo nguồn thu hợp pháp để duy trì, phát triển dữ liệu và có cơ chế thu mua dữ liệu từ doanh nghiệp.

Thứ hai, khai thác, sử dụng và tận dụng dữ liệu để kiến tạo phát triển kinh tế. Cụ thể, sử dụng dữ liệu để đơn giản hóa thủ tục hành chính. Khai thác dữ liệu để nâng cao năng lực, hiệu suất làm việc; cắt giảm các hoạt động thủ công, giấy tờ thay bằng các hệ thống thông tin, xử lý trên dữ liệu số. Thực hiện chỉ đạo điều hành trên dữ liệu, quyết định chỉ đạo phải có thuyết minh lấy dữ liệu làm cơ sở lựa chọn phương án. Tăng cường sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn trong hoạt động quản trị nhà nước, hỗ trợ ra quyết định….

Thứ ba, thúc đẩy phát triển kinh tế dữ liệu và các doanh nghiệp dữ liệu. Trong đó hình thành những doanh nghiệp chuyên về dữ liệu thuộc các nhóm, lĩnh vực: tư vấn chiến lược quản trị dữ liệu; cung cấp nội dung số; cung cấp nền tảng, dịch vụ quản trị dữ liệu. Ưu tiên thúc đẩy các ngành nghề mới về dữ liệu mới theo nhu cầu phát triển. Xây dựng dữ liệu vườn ươm doanh nghiệp….

Thứ tư, hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm và đào tạo nguồn nhân lực. Tăng cường hợp tác quốc tế về dữ liệu. Trước mắt là hợp tác với các nước ASEAN triển khai sáng kiến quản trị dữ liệu xuyên biên giới để thúc đẩy dòng chảy dữ liệu giữa các nước an toàn và phù hợp với quy định pháp luật của từng nước. Bên cạnh đó cũng cần chú trọng việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực số, phát triển nhân lực về dữ liệu, phát triển đội ngũ khoa học về dữ liệu trong các lĩnh vực.

Ứng dụng cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong ngành ngân hàng

Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Đồng chí Trần Kiên Cường, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Ngân hàng Công Thương Việt Nam.

Theo Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy Ngân hàng Công Thương Việt Nam Trần Kiên Cường, cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang làm thay đổi một cách toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội của con người. CMCN 4.0 được phát triển trên cơ sở nhiều công nghệ khác nhau và các công nghệ này được tích hợp lại để tạo ra sự thay đổi đột biến trong mọi lĩnh vực, đời sống. Trong xu thế đó, nhiều quốc gia trên thế giới bao gồm cả nước phát triển và đang phát triển đều đã và đang chủ động tìm kiếm, xây dựng chính sách tham gia, tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp này. Đối với ngành ngân hàng, với tác động của CMCN 4.0, quá trình số hóa các dịch vụ ngân hàng đang là xu hướng tất yếu, nó không chỉ giúp nâng cao trải nghiệm khách hàng mà còn cải tiến các quy trình nội bộ của ngân hàng.

Những năm gần đây, thế giới đang chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ bước vào cuộc CMCN 4.0. Trong xu thế đó, nhiều quốc gia trên thế giới bao gồm cả nước phát triển và đang phát triển đều đã và đang chủ động tìm kiếm, xây dựng chính sách tham gia, tận dụng cơ hội từ việc khai thác lợi ích của các công nghệ đặc trưng của CMCN 4.0 như: Trí tuệ nhân tạo (AI); Chế tạo đắp lớp (3D Printing); Thực tế ảo/Thực tế tăng cường (VR/AR); Internet vạn vật (IoT), Công nghệ Chuỗi khối (Blockchain); Điện toán đám mây (Cloud Computing); Dữ liệu lớn (Big Data)…một cách tối ưu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, duy trì khả năng cạnh tranh và giải quyết các vấn đề tạo ra do áp lực của sự phát triển ảnh hưởng tới môi trường và xã hội.

Không nằm ngoài xu thế phát triển của toàn cầu và khu vực, CMCN 4.0 và những đột phá công nghệ trong CMCN 4.0 được Đảng, Nhà nước xác định là động lực quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững… Đối với Ngành ngân hàng, tương lai sẽ số hóa hoàn toàn, các dịch vụ ngân hàng sẽ được tích hợp vào các hoạt động hàng ngày của khách hàng mà không cần tới một giao diện riêng. Chúng ta có thể nhận rõ điều đó trong toàn bộ hành trình trải nghiệm của khách hàng, từ khi khách hàng bắt đầu tìm kiếm sản phẩm cho đến khi họ trở thành khách hàng thân thiết của ngân hàng. Ngay từ khâu tìm kiếm sản phẩm, các dịch vụ ngân hàng sẽ được tích hợp trong những gói sản phẩm lớn, nằm trong hệ sinh thái phục vụ khách hàng thay vì khách hàng tìm kiếm riêng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Quan hệ với khách hàng được tăng cường nhờ việc sử dụng phân tích nâng cao, AI để nhận diện, dự đoán nhu cầu, từ đó gợi ý sản phẩm phù hợp hay xây dựng sản phẩm mới. Bên cạnh đó, tận dụng những thành quả của cách mạng công nghiệp 4.0, các công ty Fintech và các ngân hàng kiểu mới đã sử dụng công nghệ một cách hiệu quả. Thông qua việc sử dụng rộng rãi API (Application Programming Interface) - Giao diện lập trình ứng dụng, các kỹ thuật phân tích nâng cao, trí tuệ nhân tạo và các thiết bị IoT, họ có thể cung cấp sản phẩm dịch vụ tối ưu tới khách hàng với thời gian và chi phí nhỏ hơn nhiều so với các ngân hàng truyền thống.

Chúng ta đang hướng tới một xã hội kết nối hoàn toàn, thiết bị cá nhân sẽ được kết nối với các thiết bị khác trong xã hội. Internet vạn vật (IoT) sẽ thay đổi toàn bộ xã hội và nền kinh tế: thiết bị đeo thông minh, căn hộ thông minh, thành phố thông minh, chế tạo thông minh (tối ưu hóa quy trình, cung ứng hàng theo nhu cầu, theo dõi tài sản, bảo trì đúng lúc, …), chăm sóc sức khỏe thông minh, xe thông minh. Và do vậy, khách hàng sẽ không tiếp tục chấp nhận sử dụng những dịch vụ ngân hàng “kém thông minh”. Do đó, đối với ngành ngân hàng, Chuyển đổi số để có thể tồn tại và phát triển mạnh mẽ hơn trong thời đại công nghiệp 4.0 chính là nhiệm vụ chiến lược của ngành ngân hàng trong giai đoạn hiện nay và cả những năm sắp tới.

Đồng chí Trần Kiên Cường cho biết, Đảng ủy NHCTVN đã thống nhất mục tiêu và quan điểm chỉ đạo:

Thực hiện chuyển đổi số là đổi mới toàn diện hoạt động, nâng cao hiệu quả hoạt động của NHCTVN theo hướng hiện đại, trên cơ sở ứng dụng và khai thác hiệu quả các thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí, chỉ số về chuyển đổi số của Chính phủ, Đảng ủy Khối DNTW, NHNN, góp phần thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia, xây dựng kinh tế số, xã hội số, Chính phủ số, góp phần bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái.

Phát triển, gia tăng tiện ích, nâng cao trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện. Tạo môi trường thuận lợi cho cán bộ, đảng viên, người lao động được học hỏi, đào tạo, cập nhật kiến thức và phát triển bản thân dựa trên công nghệ số. Phát triển bền vững trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ.

Thực hiện chuyển đổi số với mục tiêu đến năm 2025, Ngân hàng Công thương Việt Nam, nằm trong nhóm dẫn đầu khu vực ASEAN về mức độ trưởng thành chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng.

Trên cơ sở các mục tiêu và định hướng đó, Đảng ủy Ngân hàng Công thương Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về thực hiện “Chuyển đổi số trong Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” nhằm xác định cụ thể tầm nhìn, mục tiêu và những định hướng nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để các tập thể, cá nhân trong NHCTVN xác định và triển khai kế hoạch chuyển đổi số cụ thể của mình. Đây là những giải pháp cần thiết, có tính đột phá, phù hợp với tình hình mới để thực hiện chủ trương của Trung ương, Đảng ủy Khối DNTW, NHNN, Đảng ủy và Ban Lãnh đạo NHCTVN về chuyển đổi số; đóng góp tích cực hơn cho công cuộc hiện đại hóa và phát triển đất nước.

Khai thác hiệu quả tối đa nguồn nhân lực lao động

Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Đồng chí Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt May Việt Nam.

Đồng chí Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt May Việt Nam cho rằng, với lĩnh vực Dệt May, quan niệm cho đây là một ngành giá trị gia tăng thấp, sử dụng nhiều lao động nhưng thu nhập cũng thấp là chưa chính xác. Nó mới chỉ xuất phát từ cách làm của chúng ta, chứ không phải là bức tranh chung của dệt may thế giới. Vì trên thực tế hiện nay ngành dệt may vẫn tồn tại tại các nước phát triển thu nhập gấp 10-15 lần Việt Nam như Pháp, Ý, Đức…cho các phân khúc cao cấp, hàng hiệu. Nhưng tương đồng với Việt Nam là các quốc gia sản xuất quy mô lớn như Trung Quốc, Ấn Độ thì dệt may vẫn được xác định là ngành kinh tế trọng điểm…

Với thực tế của Việt Nam hiện nay, chúng ta khó hình thành những sản phẩm đột phá về công nghệ so với thế giới nhưng chúng ta lại đang ở thời kỳ dân số vàng. Vì vậy, không thể coi nhẹ ngành công nghiệp dệt may mà phải coi đây là ngành quan trọng trong vòng vài chục năm tới vì sử dụng được số lượng lớn lực lượng lao động tay nghề đào tạo ngắn hạn (dưới 3 tháng) nhưng lại có thu nhập cao hơn 2-3 lần lao động nông nghiệp. Vấn đề là phải tập trung đầu tư xây dựng công nghiệp dệt may đáp ứng được yêu cầu cao của các hiệp định thương mại tự do mới là đi từ sợi để từng bước tham gia được cả vào 4 công đoạn: thiết kế - sản xuất nguyên liệu – gia công – phân phối của ngành công nghiệp dệt – may trong vòng 20-30 năm tới, giúp giải quyết được việc làm cho một số lượng lớn lao động nông nghiệp chuyển đổi nghề. Do vậy, phải gắn phát triển công nghiệp dệt – may với quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, gắn với quá trình đô thị hóa nông thôn Việt Nam.

Hiện tại dệt may Việt nam đang sử dụng khoảng 2,5 triệu lao động trên cả nước, tạo ra kim ngạch xuất khẩu 40 tỷ USD, thặng dư thương mại (kim ngạch xuất khẩu trừ đi kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu cho dệt may) đạt gần 20 tỷ USD là ngành có thặng dư cao nhất trong các ngành xuất khẩu do có tỷ lệ nội địa hoá khả quan nhất. Đồng thời đang chi trả thu nhập cho người lao động khoảng 3800USD/người/năm. Với mục tiêu khả thi có thể đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 70 tỷ USD đến năm 2030, ngành dệt may hoàn toàn có thể sử dụng khoảng 4 triệu lao động trực tiếp (tăng 1,5 triệu so với hiện nay) và tạo việc làm cho 1,5 triệu lao động dịch vụ phục vụ ngành. Cùng với tỷ lệ hưu trí tự nhiên 5%/năm. Mỗi năm ngành có thể tạo việc làm cho 250.000-300.000 việc làm mới.

Để đạt được mục tiêu này trước hết cần thay đổi tư duy về ngành dệt may của đất nước lớn thứ 2 về xuất khẩu dệt may trên thế giới. Do đó không thể sản xuất phân tán, vụn vặt, quy mô nhỏ, không có ngành sản xuất nguyên liệu và ngành nghiên cứu phát triển về vật liệu, thiết kế. Kinh nghiệm từ quy hoạch dệt may của 2 quốc gia lớn nhất thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ thì nhà nước đều có đầu tư các khu tập trung lớn quy mô hàng ngàn hec ta cho sản xuất nguyên liệu và khoảng 20% nguyên liệu được làm đến khâu may tại khu công nghiệp. Xác thực vai trò của 1 điểm đến cung ứng trọn gói giải pháp cho người mua hàng hoá dệt may toàn cầu…

Với cách tiếp cận đó, ít nhất Việt Nam cần 8-10 khu công nghiệp quy mô trên 1000 ha cho dệt may với 1 ở trung du bắc bộ, 2 đồng bằng Nam sông Hồng, 1 Bắc Trung bộ, 2 ở Trung bộ và Nam Trung bộ, 2 ở Nam bộ. Các khu công nghiệp cần có điều kiện tiếp cận giao thông thuận tiện với cảng biển, có quy hoạch để xây dựng ký túc xá cho công nhân. Mỗi khu công nghiệp sẽ có module đầu tư từ 1 triệu – 1,5 triệu cọc sợi, khả năng sản xuất 150 triệu mét vải dệt thoi, 60.000 tấn dệt kim, và khoảng 250 triệu sản phẩm may. Toàn khu đạt kim ngạch xuất khẩu từ 2,3-2,5 tỷ USD, thu hút 25.000-30.000 lao động. Các khu tập trung chủ yếu sản xuất nguyên liệu nên sử dụng ít lao động, kim ngạch xuất khẩu trên đầu người cao gấp 3-4 lần hiện nay (hiện nay 40.000-50.000 lao động mới tạo ra 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu nếu chỉ dựa vào khâu may).

Dệt may cùng các ngành thâm dụng lao động đảm bảo hài hòa phát triển kinh tế xã hội theo mô hình tam giác phát triển: kinh tế - môi trường sống – an sinh phúc lợi xã hội. Trong đó chú trọng việc quy hoạch hạ tầng cho lao động sống ổn định cả về văn hoá – tinh thần – giáo dục.

Trong quá trình phát triển kinh tế, tất yếu là chúng ta phải có tác động vào hệ cân bằng sinh thái – môi trường sống của con người. Vấn đề là sau đó chúng ta ứng xử thế nào. Với dệt may, hiện nay vấn đề các địa phương lo ngại là nước thải khi sản xuất vải, tuy nhiên không thể tiếp cận theo hướng có rủi ro thì không cho làm, mà nên quản trị rủi ro theo pháp luật. Có quy định, có đánh giá cấp phép hoạt động và sẵn sàng đóng cửa nếu vi phạm về mô trường. Đảm bảo công bằng trong cạnh tranh giữa doanh nghiệp tuân thủ và doanh nghiệp vi phạm.

Phát huy vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện Nghị quyết 39-NQ/TW

Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
Nguồn lực nào là quan trọng nhất vì sao
KS Lê Minh Chuẩn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam.

Theo KS Lê Minh Chuẩn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), với đặc thù là doanh nghiệp Nhà nước có nhiệm vụ khai thác nguồn lực tài nguyên, khoáng sản của đất nước và vai trò là một trong các trụ cột đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, là công cụ để điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Với tinh thần đó, Đảng uỷ TKV đã bám sát các mục tiêu và các giải pháp Nghị quyết 39 đã đề ra, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động và từng bước triển khai hiệu quả, vừa khắc phục những tồn tại mà Nghị quyết đưa ra, vừa phát triển sản xuất kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Trong những năm qua, Đảng uỷ TKV đã chủ động xây dựng nhiều Nghị quyết, Chương trình hành động tập trung lãnh chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy nguồn lực về tài nguyên khoáng sản, trong đó nổi bật là các chương trình trọng tâm như: Chương trình tái cơ cấu lại các doanh nghiệp; Chương trình cơ giới hóa, tự động hoá, tin học hoá; Chương trình nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; Chương trình tái cơ cấu lực lượng lao động, xây dựng đội ngũ cán bộ… và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tính trong các năm gần đây, tốc độ tăng trưởng tổng doanh thu bình quân 7,9%/năm; Năng suất lao động tăng 12%/năm; Thu nhập bình quân của người lao động tăng 9,2%/năm…

Từ thực tế những khó khăn và các kết quả đã đạt được, Đảng ủy TKV đã rút ra một số bài học kinh nghiệm trong lãnh, chỉ đạo, cụ thể như: Kịp thời đề xuất, tham mưu Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương ban hành chính sách nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước nói chung và TKV nói riêng phát triển, đóng vai trò nòng cốt trong nền kinh tế; Thường xuyên rà soát điều chỉnh, thay thế các quy chế, quy định quản lý trong TKV đảm bảo phù hợp với sự điều chỉnh, thay đổi của Nhà nước và sự phát triển của TKV; Ngoài việc đẩy mạnh xây dựng quy chế ưu đãi, chăm lo, thu hút lực công nhân kỹ thuật, đặc biệt là thợ lò, cần có cơ chế truyền thông, khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề.

Cùng với đó xã hội hóa huy động các nguồn lực chung của xã hội để triển khai thực hiện các dự án đầu tư trọng điểm của TKV về thăm dò, huy động tài nguyên; các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, giảm tổn thất tài nguyên, góp phần nâng cao năng suất lao động và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, đảm bảo an toàn; các dự án bảo vệ môi trường; Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc triển khai các Nghị quyết chuyên đề của Đảng uỷ TKV (về an toàn, quản lý tài nguyên, quản lý đất đai, bảo vệ môi trường… đã ban hành). Đặc biệt tăng cường công tác quản trị tài nguyên, bảo vệ an toàn, an ninh trật tự ranh giới mỏ, chống thất thoát tài nguyên, xử lý nghiêm túc các vi phạm về quản lý khai thác tài nguyên (nếu có)...

Từ thực tiễn tại Tập đoàn, KS Lê Minh Chuẩn đề nghị Chính phủ và các cấp có thẩm quyền kịp thời điều chỉnh cơ chế, chính sách trong quản lý tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là điều tiết giá bán than theo thị trường để đảm bảo các đơn vị khai thác, chế biến, tiêu thụ than, khoáng sản cân đối được tài chính, cân bằng giá đầu vào nguyên, nhiên vật liệu với giá bán sản phẩm đầu ra.

Đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chính quyền các địa phương tạo điều kiện về cơ chế để TKV có thể xây dựng nhà ở cho các hộ gia đình công nhân (hiện mới chỉ xây dựng nhà ở cho công nhân tập thể), nhằm đẩy mạnh hơn nữa chăm lo nguồn nhân lực, thu hút được công nhân khai thác mỏ hầm lò làm việc lâu dài, cũng như nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân kỹ thuật.

Đồng thời cần tiếp tục đồng bộ trong công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên nhằm thống nhất giữa Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương với Quy hoạch phát triển các ngành và Quy hoạch Quốc gia. Cho phép TKV sớm tái khởi động triển khai Dự án khai thác và tuyển quặng mỏ Sắt Thạch Khê - Hà Tĩnh; Cấp giấy phép khai thác khoáng sản Cromit mỏ Cổ Định - Thanh Hoá; Bộ Chính trị sớm tổng kết 02 dự án thí điểm đầu tư khai thác và chế biến quặng bauxite tại Tây Nguyên..../.

Nhóm PV