Nêu suy nghĩ của em về khát vọng của người phụ nữ được thể hiện trong bài thơ Mời trầu

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠKHOA SƯ PHẠMBỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂNNGUYỄN THỊ HUỆMSSV: 6106240SUY NGHĨ VỀ THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮTRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNGLUẬN VĂN TỐT NGHIỆPChuyên ngành: Sư phạm Ngữ VănKhóa: 36Cán bộ hướng dẫn: Th.s LÊ THỊ NGỌC BÍCHCần Thơ, 5 – 20141LỜI CẢM ƠNLời đầu tiên, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu, Ban chủnhiệm khoa, các quý thầy cô Khoa Sư Phạm - Trường Đại Học Cần Thơ đã truyền đạt chotôi rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báo trong thời gian học tập tại trường.Chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô hướng dẫn Ths Lê Thị Ngọc Bích,khoa Sư Phạm – trường Đại Học Cần Thơ đã dành rất nhiều thời gian để tận tình hướngdẫn, giúp đỡ và luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để luận văn được hoàn thành.Cuối cùng xin cảm ơn đến cô cố vấn và các bạn thuộc chuyên ngành sư phạm ngữvăn đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.Chân thành cảm ơn!2A. PHẦN MỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiHồ Xuân Hương - một nữ sĩ tài hoa, thơ của bà đã làm rung động trái tim của biếtbao độc giả mọi thế hệ. thơ bà không chỉ có sức sống trong nước mà còn có tầm vóc quốctế sánh ngang tầm với đại danh hào Nguyễn Du hay ông Nguyễn Trãi. Người ta bàn luận,phân tích về thơ bà. Có những người cho là thơ bà có yếu tố dâm và tục nhưng lại cóngười yêu thích thư bà thì phản kháng lại ý kiến đó. Nhưng nhìn chung thì ngày nay thơbà được đánh giá cao nhất là mảng thơ nôm cũng như phẩm chất và tài năng của bà đượcnhiều người mến mộ. Nhiều người trân trọng gọi bà là “ bà chúa thơ”.Ngoài danh hiệu “ bà chúa thơ nôm” mà mọi người ưu ái tặng cho nữ sĩ XuânHương còn được mệnh danh là “ nhà thơ của phụ nữ”. Qua chính cuộc sống của bản thânvà thêm vào đó, bà được đi nhiều thăm thú nhiều nơi tiếp xúc với nhiều người, bà xót xanhận ra những nỗi bất hạnh, thiệt thòi nhưng không ai dám lên tiếng đấu tranh. Trong giaiđoạn này, vấn đề về phụ nữ trong văn học chưa được đề cập nhiều thì có thể nói XuânHương là nhà thơ đầu tiên trong lịch văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nóicủa người phụ nữ. Càng đi vào nghiên cứu về thơ ca và cuộc đời bà ta càng thấy rằng đâylà một hiện tượng vô cùng phong phú và phức tạp và còn nhiều vấn đề còn nghi vấn. Điềunày thôi thúc các nhà nghiên cứu tranh cãi, bàn bạc vô cùng sôi nổi về thơ bà.Thơ bà đãthật xuất sắc khi đi vào miêu tả thế giới muôn màu, muôn vẻ của tâm trạng con người vàcảnh vật.Ngày nay khi xã hội ngày càng văn minh hiện đại thì người phụ nữ ngày càngđược tôn trọng và bảo vệ nhưng có thể ở đâu đó trong cuộc sống này, người phụ nữ vẫnphải chịu những bất công ngang trái. Có lẽ vì thế mà dù Xuân Hương đã cách ta hơn 3 thếkỷ nhưng tính thời sự trong thơ bà chưa bao giờ cũ vì vậy mà thơ bà vẫn còn nguyên vẹngiá trị và sức sống. khi đọc thơ Xuân Hương khó ai có thể hờ hững , chúng ta không chỉđồng cảm cho những số phận của những người phụ nữ kém may mắn mà còn nhận rađược sự tàn ác, dã man của bọn cường hào ác bá hay nói rõ hơn là của xã hội đương thờiđã đẩy con người xuống vực thẳm của nỗi bất hạnh.3Tôi đã từng đọc và suy nghĩ, chiêm nghiệm nhiều về thơ bà, đó cũng là lý do thúc đẩy tôichọn đề tài suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương cho bàiluận văn này.2. Lịch sử vấn đềHồ Xuân Hương cũng như thơ của bà đã trở thành một hiện tượng độc đáo thu hútbao thế hệ nhà nghiên cứu say mê tìm tòi, đào sâu nghiên cứu. Đề tài về Hồ Xuân Hươngcho đến nay vẫn còn nguyên sức hấp dẫn của nó. Các nhà nghiên cứu đã có rất nhiềucông trình nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp văn chương của Xuân Hương, đực biệt lànghiên cứu thơ bà dưới danh nghĩa là một nhà thơ của phụ nữ. Các công trình nghiên cứuvề thơ Hồ Xuân Hương luôn quy mô và phức tạp với nhiều ý kiến trái chiều. Hơn thế nữacuộc đời và sự nghiệp của bà luôn là một chuỗi những bí ẩn. Có nhiều cách nhìn nhậnđánh giá khác nhau về cuộc đời, sự nghiệp và con người bà nhưng cho đến tận bây giờvẫn chưa ngã ngũ.Chính vì gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm thân thế chính xác của Hồ XuânHương mà trước đây có ít các công trình nghiên cứu về bà nhưng khi bước sang thế kỉ xxthì nhiều nhà nghiên cứu đã vào cuộc với nhiều những hướng nghiên cứu và tiếp cận khácnhau và bức màn bí ẩn về cuộc đời của người nữ sĩ tài hoa đã dần dần được hé lộ. Nói đếncác công trình nghiên cứu về Hồ Xuân Hương phải kể đến “Việt Nam hợp tuyển giảngnghĩa” (1925) của tác giả Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Thành Ý, Quốc văn trích diễn(1925) của Dương Quảng Hàm, Nam thi hợp tuyển (1927) của Nguyễn Văn Ngọc lànhững cách chim đầu đàn trong việc thu thập những dữ liệu chính về thơ ca Hồ XuânHương và bước đầu đi vào thơ Hồ Xuân Hương.Về sau, các nhà nghiên cứu lại đua nhau tìm kiếm tung tích của người đàn bà bí ẩnnày với nhiều các nhiều hướng khác nhau. “Hồ Xuân Hương tác gia và tác phẩm” củaNgô Gia Võ, “Xuân Hương đàm thoại” Của Đào Thái Tôn, “Hồ Xuân Hương thiên tàihuê nguyệt” của Trương Tửu trong,… Và người ta nhận ra được rằng đây chính là mộtbậc thiên tài, thiên tài trong từng câu từ bà sử dụng, trong từng vần từng nhịp. Khi đi vàotìm hiểu thơ của nữ sĩ các nhà nghiên cứu đã đi vào tìm hiểu nhiều khía cạnh về nội dungvà nghệ thuật để tìm th.ấy những nét đặc sắc và hấp dẫn của thơ bà. Trong cuốn “Văn họcViệt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX tập I, NXB ĐH THCN, 19824Nguyễn Lộc đã nhận định: “Không phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ haycung tần, mà là người phụ nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnhtrong cuộc sống” [15, 388]. Có thể nói là Nguyễn Lộc rất thông cảm với nỗi đau củangười phụ nữ trong thơ Xuân Hương và cũng rất đề cao vẻ đẹp của họ nhưng Nguyễn Lộcvẫn không dành riêng được bài nào để nói về nghệ thuật khắc họa hình tượng người phụnữ trong thơ Xuân Hương. Khi đi vào nghiên cứu về nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương, LêTrí Viễn cũng đưa ra những nhận định xác đáng: “Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hươngcó nhiều đặc sắc. Nó biến hóa một cách tài tình thành ngữ, ca dao để phổ vào câu thơbảy chữ” [17,154]; “Lời thơ Xuân Hương nói chung rất tươi trẻ, giản dị và hồn nhiên.Nó dùng toàn tiếng nói thông thường như biết lựa chọn cho xứng lời nên có được cáitrong sáng của tiếng nói nhân dân, cái ý vị tươi ngon của mớ rau vườn mới hái”[17,155]. Nhìn chung, Lê Trí Viễn đã có những đánh giá rất cao về cả nội dung lẫn nghệthuật và đã đi vào khám phá, tìm hiểu về nỗi đau và vẻ đẹp của người phụ nữ trong thơ nữsĩ họ Hồ. Nhưng dù sao thì ông cũng chỉ mới đi vào phân tích một cách khái quát chứchưa đi sâu vào khai thác cụ thể về nỗi đau và vẻ đẹp của người phụ nữ cũng như nghệthuật khắc họa hình tượng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong cuốn “Các nhàthơ cổ điển Việt Nam tập 1”, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội, 1987, Xuân Diệu đã nêunhận xét: “Những bài thơ của Xuân Hương chung quanh người phụ nữ dưới chế độ làmột đóng góp độc đáo của lịch sử nước nhà” [4, 359]. Và khi đi vào nghiên cứu sâu vềthơ nữ sĩ thì ông hoàng thơ tình cho rằng: “Thơ Xuân Hương là đời của Xuân Hương, làngười của Xuân Hương trong đó. Thơ Xuân Hương là hồn, là xác, là mắt nhìn, tay sờ,chân đi, là nụ cười, nước mắt của Xuân Hương, là cá tính, là số phận của Xuân Hương”[4, 337]. Qua những nhận định của ông, ta thấy Xuân Diệu có phần thấu hiểu được cuộcđời của Xuân Hương cũng như nội dung những sáng tác của bà. Nhưng nhìn chung thìnhà thơ chưa đi vào cụ thể, chưa phân tích hết các bài thơ viết về người phụ nữ trong thơHồ Xuân Hương.Nhìn chung thì các nhà nghiên cứu đều có những nhận xét chung về cuộc đời sựnghiệp của Hồ xuân Hương và các nhà nghiên cứu đã đánh giá cao tài năng của thơ bà cảvề mặt nội dung và nghệ thuật. Nhất là những vần thơ viết về phụ nữ. dưới đay xã hội , họphải chịu nhiều nỗi đau, nỗi bất hạnh bởi lễ giáo phong kiến nhưng vẫn toat lên vẻ đẹp5tâm hồn và sức sống dồi dào mạnh mẽ vượt qua mọi nghịch cảnh của cuộc đời bạc bẽo.Tuy nhiên ở một mức độ nào đó còn có những thái độ khen chê khác nhau thậm chí cónhững ý kiến mâu thuẫn mà cho đến ngày nay vẫn chưa thể lý giải một cách thoả đángnhưng nhìn chung sức hấp dẫn của thơ bà vẫn không bao giờ nhoà đi. Tìm hiểu, khámphá về thơ bà phải có sự say mê và phải biết tìm về cội nguồn của thơ ca truyền thống màchiêm nghiệm mới thấy hết được cái hay, cái đẹp của nó.3. Phương pháp nghiên cứuĐể triển khai đề tài suy nghĩ về người phụ nữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương tôivận dụng những phương pháp nghiên cứu và thao tác nghiên cứu sau:Bản thân đã sưu tầm những tài liệu về cuộc đời sự nghiệp cũng như những tài liệu nghiêncứu về thơ Hồ Xuân Hương hiện đang được lưu hành trong thư viện và nhà sách. Để từđó có cơ sở để phân tích làm rõ vấn đề suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong thơ HồXuân Hương. Đồng thời phối hợp với một số thao tác khoa học như: So sánh, phân tích,đối chiếu…để từ đó khái quát lên tư tưởng trong thơ Xuân Hương về thân phận ngườiphụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương. Khẳng định vai trò và vẻ đẹp của người phụ nữ. Nộidung được đặt trong sự so sánh với các bài thơ cùng giai đoạn của các văn sĩ khác viết vềngười phụ nữ.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứuBàn về thơ Hồ Xuân Hương có rất nhiều vấn đề đã và đang được sự quan tâm củanhiều người nhưng với vốn kiến thức hạn hẹp tôi chỉ xin được thực hiện đề tài xungquanh vấn đề suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong thơ nôm Hồ Xuân Hương. Bêncạnh đó còn mở rộng, tìm hiểu khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca dângian và trong thơ ca trung đại Việt nam với mục đích làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu.Với đề tài của này tôi chọn phân tích những tập thơ trong tập “Lưu Hương Ký” vàmột số bài thơ nôm truyền miệng quen thuộc. Cùng một số tài liệu khác có nội dung liênquan đến đề tài để làm sáng tỏ vấn đề được nghiên cứu.5. Mục đích và ý nghĩa của đề tàiTrong quá trình tìm tòi nghiên cứu của bản thân và tiếp thu từ những tài liệu liênquan tìm được cũng như học hỏi, kế thừa từ bài nghiên cứu của những người đi trước, bảnthân đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích và tích luỹ được kiến thức cho mình. Đồng6thời thông qua đề tài này, cũng xin góp phần tạo dựng một tài liệu cho những người đisau khi họ bắt tay vào nghiên cứu Hồ Xuân Hương.Với vốn kiến thức hạn hẹp của mình, người viết đi vào giải quyết các vấn đề về nỗiđau, khát vọng và vẻ đẹp của hình tưởng người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương trongcái nhìn tổng thể có kết hợp so sánh với các tác giả cùng thời để từ đó thấy được nét khácbiệt nhưng cũng là nét đặc sắc của thơ bà. Tuy nhiên vì đây là lần đầu tiên bắt tay vàonghiên cứu khoa học , thời gian có hạn và tầm hiểu biết còn nhiều hạn chế nên bài làmkhông trách được có nhiều sai sót, kính mong quý thầy cô cùng các bạn thông cảm và gópý để bài làm hoàn chỉnh hơn.7B. PHẦN NỘI DUNGChương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG1.1. Đôi nét về tác giả Hồ Xuân Hương1.1.1. Tiểu sửHồ Xuân Hương là một nữ sĩ nổi tiếng về thơ nôm bình dân thuộc cuối thế kỷ 18đầu thế kỷ 19. Bút hiệu là Nguyệt Cổ Đường. Năm sinh năm mất chưa rõ. Đáng tiếc là vềcuộc đời của nữ sĩ, chúng ta được biết quá ít. Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫncòn nhiều ý kiến trái chiều gây tranh cãi mà đến nay vẫn chưa thống nhất được. Chỉ xinđược gom nhặt vài nét về bà: Hồ xuân Hương là con ông Hồ Phi Diễn quê ở làng QuỳnhĐôi, Nghệ An. Tương truyền Hồ Phi Diễn sinh văn 1704, đậu tú tài năm 24 tuổi dướitriều vua Lê Bảo Thái. Vì nhà nghèo, Hồ Phi Diễn không có tiền để tiếp tục học thêm,ông ra bắc dạy học để kiếm sống ở hai tỉnh Hải Dương và Bắc Ninh. Về sau ông lấy côgái Bắc Ninh họ Hà làm vợ lẽ. Đó chính là mẹ của Xuân Hương. Xuân Hương sinhtrưởng ở đất bắc, phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây Thăng Long HàNội. Bà vốn thông minh và được cho đi học từ nhỏ nhưng sau khi cha và anh mất vì nhànghèo nên bà được đi học rất ít nhưng với tinh thần ham học hỏi bà tự học và thành thạocả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Khi trưởng thành bà có một ngôi nhà ở gần Hồ Tây lấy tên làCổ Nguyệt đường. Đây cũng là nơi bà họp mặt các bạn thơ và là một trong những nơi ghidấu những sáng tác của bà.Theo lời ông Tấn Phong tả nữ sĩ Hồ Xuân Hương thì biết bà không chỉ tài hoa màcòn là người phụ nữ đẹp và có duyên:“Ngắm dường tiên nữ thác thân xuống trầnHoan Châu vốn tiếng đẹp thuầnSao khuê rạng vệ mười phân vẹn toànNhớ chăng chín chín hồng sanHoa mai riêng chiếm trời xanh để dành”Bà sinh ra trong giai đoạn lịch sử nước nhà đang có những cuộc sóng gió. TrịnhSâm lên ngôi chúa mê tửu sắc. Vì yêu Thị Huệ, Trịnh bỏ con trưởng là Trịnh Khải, lậpcon thứ lảTrịnh Cán. Gây ra sự tranh giành quyền lực. Đàng trong thì quận chúa Nguyễnlăm le ra đánh. Trước nghịch cảnh đó, bọn quan lại thì chỉ biết lịnh bợ, luồn cúi làm lẽ8sống, người dân chịu cảnh loạn ly, các giá trị đạo đức bị băng hoại. Đây chính là giaiđoạn suy tàn của luân lý nho giáo phong kiến. Từ đó nhen nhóm lên tư tưởng cá nhân tựdo muốn thoát khỏi những định kiến khắt khe của nho giáo. Bà xuất thân trong một giađình phong kiến suy tàn, song hoàn cảnh của thời đại và cuộc sống của bản thân đã giúpnữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhữngtầng lớp bị áp bức, bác lộc trong xã hội nhất là những người phụ nữ chân yếu tay mềm.Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng cuộc đời riêng tư của nữ sĩ chịunhiều đau khổ. Bà lấy chồng khá muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, cả hai đều làm lẽ,xây dựng gia đình chẳng mấy hạnh phúc. Hai cái tên được nhắc đến trong cuộc đời làm lẽcủa bà là Tổng Cóc và ông Phủ Vĩnh Tường:Cuộc hôn nhân với Tổng Cóc (làm lẽ) một ông cai tổng goá vợ, một tên ác bá, ngudốt, là một nỗi đau buồn của nhà thơ. Cuộc hôn nhân buồn ấy cũng kết thúc sớm vì chẳngbao lâu thì ông Tổng Cóc mất. “Chàng cóc ơi! chàng cóc ơi!/ Thiếp bén duyên chàng cóthế thôi”Lời thơ Xuân Hương tiễn biệt Tổng Cóc, là lời của người vợ nhưng lại giống nhưtiếng thở phào nhẹ nhõm chứng tỏ bà chẳng mặn nồng gì với người đã chết mà chỉ giốngnhư một sự giải thoát khỏi cảnh sống ô nhục.Cuộc hôn nhân sau với ông phủ Vĩnh Tường cũng làm lẽ nhưng dù sao cũng lấyđược ông chồng hay chữ. Ông phủ coi bà như bạn văn chương nên duyên phận cũngkhông đến nỗi bẽ bàng. Tình nghĩa vợ chồng thật quá ngắn ngủ, ít lâu sau thì ông cũngqua đời. Và tiếng khóc chồng lại cất lên, lần này Xuân Hương không cộc lốc như đối vớiTổng Cóc, một kẻ cường hào dốt chữ mà nàng khóc cho tình duyên lỡ làng:“Trăm nămông Phủ Vĩnh Tường ơi!/ Thiếp bén duyên chàng có thế thôi”Xuân Hương có bà giao du rộng rãi với nhiều bạn bè nhất là đối với những bạn bèở làng thơ văn, các nhà nho. Trong đó Xuân Hương có một người bạn phải gọi là tri âmtri kỉ đó là Chiêu Hổ, họ khá tâm đầu ý hợp cùng nhau xướng hoạ thơ văn. Nhưng ChiêuHổ là ai? Điều đó vẫn còn là một ẩn số. Theo ông Văn Tân Tính Chiêu Hổ kém XuânHương “chừng trên đưới mười tuổi gì đó”; Nhưng trên thực tế thì những bài thơ họ xướnghoạ cả hai người lại bằng vai và rất hợp ý. E rằng nếu có khoảng cách tuổi tác lớn thế thìrất khó mà xướng hoạ như vậy. Xuân Hương đối trọi từng câu chữ với Chiêu Hổ, ganh9đua nhau từng vần thơ rồi lại giễu cợt nhau. Xuân Hương ngang nhiên gọi Chiêu Hổ làcuội: “Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt/ Nhớ hái cho xin nắm lá đa”Chiêu Hổ cũng chẳng vừa, ông hoạ lại:“Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt/ Cho cảcành đa lẫn củ đa”. Xuân Hương và Chiêu Hổ như đôi câu đối hợp nhau, hễ ở đau cóXuân Hương thì ở đó có Chiêu Hổ. Nhắc đến Chiêu Hổ là nhớ đến Xuân Hương. Phải chihai người thành đôi thì hay biết mấy.Sau khi trải qua các cuộc hôn nhân không mấy thành công, Xuân Hương có dịprảnh rỗi, bà dành thời gian đi thăm các danh lam thắng cảnh ở miền bắc và miền trung. Bàđi đến đâu thì bước chân của bà lại in dấu thơ ở đó.Có thể nói rằng Xuân Hương không phải một người phụ nữ bình thường của thờiđại mà bà là một nữ sĩ tài hoa nhưng cuộc đời bà đầy sóng gió và thử thách. Chính điềuđó đã làm nên một nét thơ, một nhân cách rất Xuân Hương.1.1.2. Sự nghiệp sáng tácHồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài hoa, bà đã để lại nhiều bài thơ với phong cách thơvừa thanh vừa tục và được người đương thời yêu quý gọi là “bà chúa thơ nôm”. Thơ bàđược đánh giá cao trong nền văn học nước nhà. Hồ Xuân Hương được coi là một trongnhững nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷXVIII- nửa đầu thế kỷ XIX là vì những sáng tác của bà đã nêu bật được những vấn đềriêng tư đó là những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịuđựng và tin tưởng đấu tranh để bênh vực quyền lợi phụ nữ. Những vấn đề tưởng chừnggiản dị của đời thường nhưng khi đi vào thơ bà lại rất mới mẻ, sinh động.Thơ bà được gom nhặt lại không nhiều do bị thất lạc và có nhiều bài thơ của bà còn gâynhiều tranh cãi trong việc xác định liệu có phải thơ bà hay không? Nhìn chung bà để lạikhoảng 50 bài thơ nôm và tập thơ “Lưu hương ký”. Ta tạm chia thơ bà làm hai phần:Vào năm 1964 nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại phát hiện tập thơ “Lưu hương ký”và được công bố trên tạp chí văn học. Tập thơ bao gồm thơ 24 bài thơ chữ Hán và 28 bàithơ chữ Nôm, nhiều nghiên cứu đến nay nhiều người tán thành rằng những bài thơ trongđó là của Hồ Xuân Hương nhưng bên cạnh đó thì vẫn còn nhiều tranh cãi. Nội dung chủyếu của tập thơ đề cập đến tình yêu gia đình, quê hương đất nước. Trong tập thơ tác giảviết về tình cảm và tâm sự của mình đối với những người bạn trai như ông Tống Phong10Thị, ông Hiệp trấn Sơn Nam thượng thọ Trần, ông Sơn Phủ, ông Chí Hiên và có cả ôngcần chánh học sĩ Nguyễn Hầu tức Nguyễn Du, tác giả Truyện Kiều. Thơ nôm trong “Lưuhương ký” có rất nhiều từ hán việt với giọng thơ hiền lành thể hiện tiếng lòng của ngườiphụ nữ muốn đấu tranh cho một tình yêu bình đẳng, niềm khát khao có được tình yêuđích thực thuỷ chung với giọng thơ chân thành, tha thiết chứ không gân guốc, góc cạnhnhư phong cách thơ Xuân Hương vốn quen thuộc trong những bài thơ nôm truyền tụngnhư bánh trôi nước, vịnh cái quạt, lấy chồng chung, không chồng mà chửa...Nhìn chung,tập thơ không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của bà. Những bài thơ nôm cho đến nay chủyếu lưu truyền trong dân gian nên có nhiều dị bản.Về nội dung, “Lưu hương ký” không phải là không có chỗ giống với thơ nôm củaHồ Xuân Hương. Trong lưu hương ký, chúng ta vẫn nhìn thấy một người phụ nữ giàunhiệt tình, yêu đời bất chấp cả lễ giáo phong kiến lúc nào cũng tha thiết khát vọng yêuđương nhưng lại không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn. Nhưng giữa thơ nôm Hồ XuânHương và Lưu hương ký vẫn có khoảng cách chủ yếu là về phong cách thể hiện. Thơnôm trong Lưu hương ký có nhiều từ hán việt được sử dụng với phong cách trang nhã,giọng thơ lại hiền lành chứ không gân guốc góc cạnh như trong thơ nôm truyền tụng.Nguồn thơ Xuân Hương chủ yếu lấy từ cuộc sống đời thường với nhiều lớp nghĩa,nghĩa đen phô ra, nghĩa bóng nói về chuyện buồn the với tình yêu thân xác. Thi pháp củabà khá già dặn nhưng cũng rất phóng khoáng. Bà đưa cuộc sống trần tục vào thể thơđường luật một cách điêu luyện tài tình.Trong nghiên cứu phê bình thơ Xuân Hương nổi lên hai khuynh hướng đánh giáđối lập nhau một cách rõ rệt. Khuynh hướng thứ nhất là những người mạt sát, chỉ tríchXuân Hương. Tiêu biểu đó là Nguyễn Văn Hanh và Trương Tửu. Nguyễn Văn Hanh chorằng thơ Xuân Hương là sự khủng hoảng về sinh lý, và bản thân Xuân hương là mộtngười mắc bệnh tâm thần. Trương Tửu thì giải thích thiên tài của Xuân Hương là “cáithiên tài hiếu dâm đến cực điểm” là sản phẩm của một não trạng mà “não trạng ấy là ditích của một tôn giáo thờ sự sinh đẻ”.Đối lập với khuynh hướng trên, là khuynh hướng hết sức tán tụng thơ của HồXuân Hương. Tiêu biểu là Hoa Bằng, Hoàng Thúc Trâm viết “Một cây bút thuần túy ViệtNam hơn hết, đặc sắc hơn hết, không những làm rung động cả một rừng nho đương thời,11mà lại còn soi rọi trên trên đường văn học Việt nam những tia rất sang ngời, rất rực rỡ.Ấy là nhà thơ cách mệnh Hồ Xuân hương” (Quốc văn đời Tây Sơn), lại một dịp khác ôngca ngợi Hồ Xuân Hương “chẳng những là nhà đại thi hào, mà lại là nhà đại tư tưởng, đạicách mạng nữa!” nhưng những danh tù to tát mà Hoa Bằng sử dụng dường như khôngphù hợp với thực tế sáng tác của Hồ Xuân HươngKhác với Hoa Bằng, lê Dư cũng khen ngợi nữ sĩ nhưng bằng cách khác “thơ nàngxưa nay ai cũng kêu là có ý thô tục, nhưng xét kĩ tục mà thanh; Dù nàng không có cái vẻđứng đắn , cái giọng đa cảm đa sầu như bà huyện Thanh Quan, nhưng lắm bài rất có khí,có tình”.Khi bàn luận về thơ Xuân Hương luôn có những nhận định, đánh giá khác nhau. Thơ củanữ sĩ cũng giống như trái sầu riêng vậy, kẻ thì tấm tắt khen ngon, người khi bịt mũi quayđi chê nặng mùi. Nhưng dù thế nào thì trái sầu riêng đó vẫn tỏa hương cho đời mặc chongười đời khen chê.Nhìn chung, thơ Xuân Hương được lưu truyền nhiều trong dân gian nên “tam saothấp bản” là việc không thể tránh được. Nhưng dù sao thì qua những công trình nghiêncứu, ta đã kết luận được một số vấn đề sơ bộ. Đó là nhà thơ có cuộc đời hoàn toàn khôngnhư ý. Nữ sĩ họ Hồ sống vào thời kỳ mà chế độ phong kiến hoàn toàn mục rỗng, thêm vàođó bà lại xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn. Cuộc sống đã đẩy Xuân Hươngxuống tầng lớp tận cùng của xã hội. Lòng căm phẫn với xã hội bất công: Nỗi căm giậncuộc sống riêng và sự lăn lộn với những người phụ nữ bị áp bức trong xã hội, tất cả đãhun đúc nên con người và tài năng của Xuân Hương, thôi thúc những vần thơ thông minhvà tài tứ, những vần thơ rất quần chúng mà cũng rất độc đáo, rất Xuân Hương.1.1.3. Phong cách nghệ thuậtHồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Thơ bàđánh dấu một bước phát triển mới của thơ ca dân tộc, là một hiện tượng văn học mới,hoàn toàn không chịu bó mình vào khuôn khổ của truyền thống. Tôi dám chắc rằng khôngcó một người nào tương tự như thế trong văn học nước nhà trước đó cũng như sau này.Chính vì vậy, bà đã trở thành đề tài nghiên cứu, phê bình của văn học nước ta trên nhiềuphương diện khác nhau. Bà là một hiện tượng độc đáo nhất trong các hiện tượng độc đáo.Phong cách sáng tác của bà rất riêng và khó nhầm lẫn với nhà thơ nào được. Tìm hiểu12phong cách sáng tác của thơ Hồ Xuân Hương sẽ góp phần hiểu rõ hơn tài năng thơ củabà.Hoà với dòng chảy chung của các nhà thơ đương thời, Xuân Hương cũng dùng thểthơ thể thất ngôn đường luật, một thể thơ ngoại nhập nhưng bằng bàn tay tài hoa củangười nghệ sĩ và vốn sống phong phú của mình để nhào nặn và việt hoá thành thứ thơ rấtdân tộc. Nó cứ nôm na, bình dân và tự nhiên như người dân nông thôn vậy. Và trước hết,chúng ta khẳng định được một điều quan trọng nhất, đó là: Sự giàu đẹp của ngôn ngữtiếng Việt qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ trong thơ Xuân Hương. Nhất là việc khai thácvà sử dụng vốn từ ngữ của Xuân Hương nói chung, màu sắc ngôn từ trong thơ bà nóiriêng. Màu sắc ngôn từ trong thơ bà là màu sắc bình dị của dân gian, dân tộc.Điều này đãlàm cho thơ bà đã đạt được độ cao khi thống nhất được hai tính cách đó là dân tộc và đạichúng.Khi bắt tay vào làm thơ, Xuân Hương vứt hết mọi sách vở, khuôn sáo sẵn có, bàđem vào đó nhịp điệu của sức sống. Cảnh vật và con người trong thơ bà không lúc nàochịu đứng yên: Ba đèo tùm lum nóc, lún phún riêu, gió lắc léo, sương đầm đìa… Phongcảnh như cựa mình bước ra từ trang giấy. Ta nói thơ bà bình dân là vì lúc nào trong thơcũng phản phất hương vị quê hương nào là con ốc, quả mít, cái bánh trôi nước, cỏ gà, ládiếc lá trầu, quả cau, con ong, cái giếng… Những thứ tưởng chừng rất đỗi thân thuộc vàbình dị với người dân nông thôn nhưng bước vào thơ Xuân Hương lại trở nên sinh độngvà ngồng ngộn sức sống.Thơ bà bình dị nhưng không phải thứ thơ tầm thường vì khi cần dùng đến nghệthuật thì chẳng ai bì được. Thơ Xuân Hương từ đường nét đến âm thanh, mỗi chi tiết dùnhỏ cũng rất độc đáo. Ngôn từ thật sắc bén với những từ láy được chọn lọc đem vào sửdụng một cách tinh tế đến tài tình. Các bài thơ được bà gieo vần cũng quả thật là có mộtkhông hai. Một điều đặc biệt là thơ Xuân Hương lấy đề tài trong cuộc sống bình thườnghàng ngày nhưng là những đề tài có tính chất úp mở hai nghĩa. Một nghĩa đen phô ra nóitrực tiếp về vấn đề mà nhà thơ muốn miêu tả trực tiếp. Bên cạnh đó còn một nghĩa ngầmnói về chuyện buồng the, “phồn thực”. Chính vì những điều này mà có một số người chothơ bà là dâm, là tục. Nhưng thực ra thơ Xuân Hương đâu có khơi gợi tình dục mà chỉ tảvà thuật như chính nó vốn đã như thế.13Cái quạt thì: “Mỏng dày chừng ấy chành ba góc/ Rộng hẹp dường nào cắm mộtcây”.Con ốc thì:“Quân tử có thương thì bóc yếm/ Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”.Quả mít thì: “Quân tử có thương thì đóng cọc/ Xin đừng mâm mó nhựa ra tay”Thơ bà được dân gian ưu chuộng là vì lối thơ của bà bình dân nhưng thâm thuý,khi đọc lên cứ đọc thoải mái, dễ thuộc vì những câu thơ đăng đối với nhau theo vần nhịprất điêu luyện nhưng lại cứ như lời ăn tiếng nói hằng ngày.1.2. Những đóng góp của thơ Nôm Hồ Xuân Hương trong nền văn họcnước nhà.Hồ Xuân Hương đã có cống hiến to lớn vào thơ ca Việt Nam cũng như cho ngônngữ văn học của dân tộc. Thơ bà là một đóng góp độc đáo vào lịch sử văn học nước nhà.Bà được đặt ngang hàng với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi những nhà thơ lớn của dân tộc.Nếu như Nguyễn Du đã có công trong việc nâng thể thơ lục bát của dân tộc chiếm một vịtrí quan trọng chính thức trong lịch sử văn học dân tộc và cùng một số nhà thơ đương thờinhư bà huyện thanh quan đã hoàn thành quá trình việc hoá thể thơ vốn có nguồn gốc từTrung quốc để trở lên một thứ thơ dân dã, mang đậm chất thơ Việt Nam. Hồ Xuân Hươnglà một trong những nhà thơ đầu tiên thành công trong việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngàyđể sáng tác và cải tạo thơ đường luật. Trong thơ bà, ngôn ngữ dân tộc đã được sử dụngmột cách linh hoạt, khéo léo góp phần tạo lên sự phong phú của tiếng việt. “Một trái trăngthu chín mõm mòm/ Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom!” (Trăng thu).Hơn thế nữa, chất liệu trong ca dao truyền thống được Xuân Hương vận dụng vàphát huy một cách đầy sáng tạo làm cho khi độc giả đọc vào câu thơ thì cảm thấy thật gầngũi nhưng cũng thật mới lạ và hấp dẫn:14“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôiNày của Xuân Hương đã quệt rồiCó phải duyên nhau thì thắm lạiĐừng xanh như lá bạc như vôi!”(Mời ăn trầu)Thành công của thơ Xuân Hương đã cống hiến quan trọng cho nền văn học trungđại. Nữ sĩ họ Hồ có được vị trí đặc biệt trên văn đàn là vì những tư tưởng, những tình cảmcủa bà rất thật và được đề cập một cách mới mẻ, lạ mà gần gũi gây hứng thú cho ngườiđọc.Có lẽ sự hấp dẫn đầu tiên mà thơ Xuân Hương mang lại cho người đọc đó chính làthơ của người phụ nữ viết về giới phụ nữ với những rung động tinh vi và chân thành nhất.Hồ Xuân Hương đến với thơ bằng một trái tim tha thiết đầy cảm thông và và bằng mộtđôi mắt tinh đời. Thơ bà đã nêu bật được vấn đề thời sự nóng hổi của thời đại. Đó là tìnhtrạng người phụ nữ trong xã hội phong kiến chịu nhiều bất công. Bị áp bức cả về mặt thểchất và tâm hồn. Từ đó Xuân Hương tìm thấy vẻ đẹp của người phụ nữ, nêu bật vẻ đẹpbên trong, vẻ đẹp tâm hồn của họ và vạch trần bộ mặt thật của giai cấp thống trị tàn ác.Xuân hương đã đi ngược với xã hội đó để cất tiếng nói đầy cá tính của mình. Đó là tiếngnói mạnh mẽ của người phụ nữ nói về chính giới mình, giới nữ với vẻ đẹp tâm hồn, tàinăng và đặc biệt là vẻ đẹp hình thể. Nữ sĩ cất tiếng nói đòi quyền của người phụ nữ:Quyền được làm vợ, làm mẹ, được tôn trọng và được hưởng hạnh phúc gối chăn một cáchtrọn vẹn. Đó là những quyền sống tối thiểu và tất yếu của người phụ nữ. Tiếng nói ấychân thành, rõ ràng đầy tự hào và đầy bản lĩnh. Cái phần tích cực trong thơ Xuân Hươnglà rất lớn vì bà đã dũng cảm lên tiếng đả kích xã hội thối nát bằng tất cả uất giận và tàinăng thi ca của mình. Chính sự lãng mạn, dũng cảm hơn người của bà : dám nói ra khôngchút ngần ngại những điều bà suy nghĩ, những điều mắt thấy tai nghe. Những điều đượccoi là cấm kị mà không ai dám nói tới. Chính điều đó đã làm cho người đọc thơ yêu mếnvà hâm mộ bà.Thơ bà là tiếng nói của tầng lớp bình dân, thấu hiểu cảm thông với họ. Đọc thơXuân hương, người đọc sẽ tiếp nhận được một hồn thơ với đầy đủ dũng khí, táo bạo, mộthồn thơ hết sức độc đáo đã chống lại xã hội áp bức, đã bênh vực phụ nữ, đã hòa mình vào15tầng lớp bình dân. Vì lẽ đó mà thơ bà bao giờ cũng rất quần chúng, rất bình dân và cũngrất Hồ Xuân Hương. Trong xã hội cũ tầng lớp phong kiến khắt khe, nghiệt ngã càng lênán, cố gạt bỏ thơ Xuân Hương bao nhiêu thì quần chúng lao động lại càng yêu thích thơXuân Hương bấy nhiêu. Có thể khẳng định rằng thơ Hồ Xuân Hương ngày càng đượcngười đời tiếp nhận và đánh giá cao vì họ cảm thấy thơ Xuân Hương gần giũi thân thiếtvới họ. Xuân Hương nói lên tiếng lòng của họ bằng thứ ngôn ngữ nôm na , giản dị đờithường còn giai cấp thống trị thì sợ hãi trước sự nổi loạn của bà. Thơ bà thấm đẫm tinhthần nhân văn cao cả nhưng cũng giống như gáo nước lạnh tạt vào mặt bọn phong kiếnthối nát.Nhìn chung, Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ tài năng. những bài thơ của XuânHương xung quanh chủ đề người phụ nữ dưới chế độ cũ là một đóng góp độc đáo vào lịchsử văn học nước nhà. Xuân Hương đã góp phần làm cho đời sống văn học thêm sôi nổibởi những vần thơ đầy tính nhân văn và tấm lòng nhân đạo cao cả của bà.1.3. Vài nét về vấn đề viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam.1.3.1. Trong thơ ca dân gian.Văn học dân gian là nơi để người dân lao động giãi bày những tâm tư tình cảm củamình. Vì thế mà văn học dân gian là bức tranh toàn cảnh về đời sống của người Việt Namta. Trong bức tranh ấy, vẫn luôn thấp thoáng bóng dáng của người phụ nữ. Hình tượngphụ nữ luôn là đối tượng được tập trung miêu tả nhiều nhất trong văn học dân gian. Có lẽbởi vẻ đẹp hình thể lẫn tâm hồn đáng quý của họ và phụ nữ chân yếu tay mềm dễ bị tổnthương. Hơn nữa, trong xã hội cũ hơn bất cứ ai họ là người chịu nhiều nỗi đau cả về vậtchất lẫn tinh thần.Tư tưởng cổ hủ của xã hội phong kiến “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” đãdành cho người đàn ông mọi sự ưu tiên và tạo ra nhiều quy tắc bất công cho ngườiphụ nữ.Người phụ nữ trong xã hội đó chẳng bao giờ được làm chủ số phận của mình mà họ làtấm lụa đào, là hạt mưa…Họ vui sướng, buồn khổ là tuỳ thuộc vào người khác.“Thân em như hạt mưa saHạt vào đài cát hạt sa ruộng cày”(Ca dao)16“Thân em như tấm lụa đàoPhất phơ giữa chợ biết vào tay ai”(Ca dao)Hay như:“Con vua lấy thằng bán thanNó dắt lên ngàn cũng phải đi theo”(Ca dao)Và cũng trong xã hội đó, người phụ nữ được cưới về là để thoả mãn cho người đànông và để có sức lao động mà không phải bỏ tiền ra mướn nhân công. Họ quanh quẩn vớicông việc nhà, việc đồng áng đầu tắt mặt tối rồi chồng con. Họ lúc nào cũng sống vìngười khác và phải cắn răng chấp nhận mọi đắng cay.Vì thế mà từ xưa đến nay, người phụ nữ Việt Nam vốn dĩ có tính cần cù, chịuthương chịu khó và giàu đức hi sinh. Chẳng biết từ bao giờ việc chăm lo cho chồng, yêuthương các con là bổn phận của người phụ nữ:“Con cò lặn lội bờ aoGánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”(Ca dao)Chế độ của xã hội cũ cho phép người đàn ông có nhiều vợ, còn người phụ nữ chỉđược “chín chuyên một chồng”. Chính vì thế mà phụ nữ luôn phải chịu thiệt thòi:“Gió đưa bụi chuối sau hèAnh ham vợ bé bỏ bè con thơ”(Ca dao)Hay như:“Có thịt anh tính phụ xôiCó cam phụ quýt có người phụ ta”(Ca dao)17Phải nói rằng phụ nữ trong xã hội cũ luôn được coi là tầng lớp dưới đáy của xã hội.Họ không được quyền quyết định hạnh phúc, tương lai của mình, không được hưởng cácđặc quyền đặc lợi chỉ dành cho nam giới (như đi học, làm quan). Văn học dân gian phảnánh một bức tranh toàn cảnh trong cái nhìn cận cảnh về nỗi khổ của người dân lao độngnói chung và nỗi thống khổ của người phụ nữ nói riêng. Họ có nhiều đóng góp cho giađình, xã hội nhưng chẳng bao giờ được nhìn nhận. Tiếng kêu của những người phụ nữbao giờ cũng xé lòng và đó là tiếng kêu của những cuộc sống lầm than, đau khổ.1.3.2. Trong văn học trung đạiChính vì sự áp đặt của các quy tắc phong kiến làm cho các nhà thơ ngần ngại khiđem hình tương người phụ nữ vào thơ văn. Văn chương thời này có một sứ mệnh vô cùngcao quý đó là sứ mệnh giáo huấn. Người ta nói nhiều đến bậc trượng phu, cái chí củangười anh hùng chứ văn chương không thể viết về người phụ nữ và xã hội này đã khôngcho phép người phụ nữ bước vào văn chương.Đến giai đoạn sau, vấn đề về phụ nữ trong văn học dần dần được nhìn nhận vàquan tâm. Đầu tiên có lẽ phải kể đến Nguyễn Dữ đã đưa “người con gái Nam Sương” haynhư bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương vào văn học để làm lên hình tượng người phụ nữđức hạnh, yêu chồng, thương con. Vì chồng vì con mà phải chịu mọi sự hi sinh đúng vớiphẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Nhìn chung, những tác giả viết trong văn họctrung đại nói về khát khao của người phụ nữ về một tình yêu tự do, ca ngợi vẻ đẹp cũngnhư phẩm chất cao quý của người phụ nữ bằng cái nhìn đầy thiện cảm của các nhà thơnhà văn. Bên cạnh đó, cũng đề cập đến một vấn đề nổi cộm đó là nỗi đau khổ mà phụ nữphải chịu bằng nhiều cách khác nhau có khi công khai, khi ẩn ý lên án thế lực phong kiếnvô nhân đạo. Như đại thi hào Nguyễn Du đã cất lên tiếng lòng:“Đau đớn thay phận đàn bà!Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”Hay như:“Đau đớn thay phận đàn bà!Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”Sở dĩ hình tượng phụ nữ được các cây bút quan tâm là vì thời kì này ý thức hệphong kiến dần dần suy yếu, chế độ phong kiến khủng hoảng và số phận người phụ nữ18ngày càng trở nên bất hạnh hơn. Chính hoàn cảnh ấy đã tác động mạnh đến các nhà thơ,nhà văn, làm họ thức tỉnh sau một giấc ngủ dài và họ cầm bút lên để viết về phụ nữ.Trong những cây bút ấy phải kể đến ba nhà thơ tiêu biểu của thời đại là Nguyễn Du, HồXuân Hương, Đặng Trần Côn.Đại thi hào Nguyễn Du đã thành công rực rỡ khi ông viết về đề tài phụ nữ đặc biệtlà “Truyện Kiều”. Thuý Kiều là hiện thân về nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hộiphong kiến. Mọi thứ trước mắt Kiều dường như vụn vỡ: Tình yêu tan vỡ, chịu kiếp lầuxanh, làm nô tì, làm vợ lẽ, bị người đời chà đạp cả về thể xác lẫn nhân phẩm. Thế lựcquan lại, nhà chứa và đồng tiền đã đưa đến cho kiều một cuộc đời đầy sóng gió. NguyễnDu không phải phụ nữ nhưng lại thông cảm với Kiều đến lạ kì. Có lẽ chỉ có bậc thi hàovới lòng nhân đạo cao cả, tấm lòng yêu thương con người bao la mới có thể đồng cảmđến như vậy.Cũng viết về phụ nữ nhưng ở một phía cạnh khác đã gây được tiếng vang phải kểđến “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Trong văn học Việt Nam đề tài chiến tranhvới tiếng nói oán trách đã vang lên từ rất lâu và nó đã để lại cho người đọc những niềmxót xa thương cảm. “Chinh phụ ngâm là lời oán trách của người phụ nữ có chồng ra trận,ngày ngày chờ đợi ngóng tin chồng làm cho người phụ nữ mòn mỏi, hao gầy.“Hồn sĩ tử gió hù hù thổiMặt chinh phụ trăng dõi dõi theo”Dõi tầm mắt ra chiến trường xa xôi ấy, nàng cảm nhận được cái lạnh của gió, cáilạnh do chất sắt thép của vũ khí, của tiếng ngựa hí, tiếng quân reo và của cả những xácchết...Người chinh phụ dường như linh cảm được việc chẳng lành.“Chinh phu tử sĩ mấy ngườiNào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?”Quả thật đúng vậy chiến tranh khi ra chiến trận mấy kẻ trở về, chiến tranh phongkiến chỉ đem con người đến chỗ chết. Tác giả nói đến chiến tranh nhưng không phải dướicái nhìn của người đi chinh chiến cũng không phải cái nhìn chủ quan của tác giả mà bằngcon mắt đẫm lệ của người hậu phương. Nỗi sầu và sự bất lực bủa vây người chinh phụ,Nàng nhớ chồng tha thiết và chỉ còn cách tìm đến giấc mộng, mượn mộng mơ làm cầunối để gặp chàng.19“Duy còn hồn mộng được gầnĐêm đêm thường đến Giang Tân tìm ngườiTìm chàng thủa Dương đài lối cũGặp chàng nơi Tương phố bến xưa”Nàng phủ nhận lý tưởng công danh và cảm thấy hối hận khi xui chàng ra quân.Nàng hiểu rằng hạnh phúc, sinh mệnh của con người có ý nghĩa hơn chiếc ấn phong hầu.Chiếc ấn ấy chỉ là trò lừa bịp của bọn phong kiến để bảo vệ cho ngai vàng của chúng.Nhà thơ khắc hoạ lên một người phụ nữ giàu đức hi sinh, yêu chồng bằng tình yêu vị tha.Nàng đau khổ, giằn vặt luôn muốn bù đắp nỗi khổ sở của chồng nơi chiến trường.So với giai đoạn văn học trước, văn học giai đoạn thế kỷ XVIII-XIX đã tạo ra sựđột phá trong việc miêu tả ngoại hình người phụ nữ. Các tác giả giai đoạn này phác họanhân vật của mình với hình thể tràn đầy sức sống. Tác giả mạnh dạn ca ngợi vẻ đẹp củangười phụ nữ.“Bút vương không dạm nên đồĐài hương hoa ánh đáy hồ nguyệt inDày dày da ngọc tuyết kenMày nga khói đượm tóc tiên mây lồng”“Sóng ngời mắt phượng tình bông má đàoRõ ràng ánh nguyệt chói saoMỉa đường tần nữ, kém nào hạ cơ”(Song tinh bất dạ)Nàng Ngụy Châu hiện lên với làn da mịn màng, thân hình đầy đặn, cân đối. Màythanh như sợi khói vương, tóc búi cánh tiên như mây, mắt phượng như song lóng lánh,má đào lộ vẻ tình tứ…Ngay cả Nguyễn Du khi tả về nhan sắc của kiều cũng đâu chịu dừng lại ở vẻđẹp”nghiêng nước nghiêng thành” hay “làn thu thủy nét xuân sơn” mà ông còn trực tiếpmiêu tả cơ thể tràn trề sức sống của một cô gái đang phơi phới tuổi xuân. Bức tranh khỏathân được vẽ từ một bậc thầy của ngôn ngữ thì quả thiệt là một kiệt tác:“Rõ ràng trong ngọc trắng ngàDày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên20(Truyện Kiều)Nguyễn Du dù mang tư tưởng nho gia cũng phải cho rằng đây là một sản phẩm củađất trời và đưa nét đẹp tự nhiên này vào làm đẹp cho tác phẩm của mình.Văn học thời kỳ này nổi lên với tiếng nói nhân đạo chủ nghĩa, thể hiện con ngườicá nhân với bao khát khao hạnh phúc đời thường. Đặc biệt là đời sống tình cảm của ngườiphụ nữ. Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm miêu tả một cáchthống thiết số phận của người phụ nữ tài sắc nhưng bị đấng quân vương bỏ rơi và cũngkhông chịu giải thoát họ khỏi cung cấm . Người cung nữ này chỉ được coi là một công cụtình dục để thỏa mãn cho bạc đế vương. Sau khi đã chán chường ong bướm rồi thì lại rũbỏ không chút thương tiếc.“Bóng gương lấp ló dưới mànhCỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”(Cung oán ngâm khúc)Đề cập đến vấn đề quan hệ giới tính nhưng cái tài của Nguyễn Gia Thiều là ôngbiết mô tả những chuyện ái ân trần tục dưới lớp ngôn ngữ nghệ thuật bác học, thanh tao:“Cái đêm hôm ấy đêm gìBóng dương lồng bóng trà mi trập trùng”Đặng Trần Côn thì miêu tả một dêm trăng nguyệt, hoa nguyệt như có tình, quấnquýt giao hòa … Còn con người thì đơn chiếc:“Hoa giãi nguyệt nguyệt in một tấmNguyệt lồng hoa hoa thắm từng bôngNguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùngTrên hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau”(Chinh phụ ngâm)Nhìn hoa nguyệt có đôi có cặp người chinh phụ không khỏi chạnh lòng, cái chạnhlòng sâu sắc của người đàn bà lẻ bóng đã từng yêu thương và được yêu thương.Văn học giai đoạn này khám phá con người và khẳng định những giá trị chânchính của con người. Vực dậy những giá trị vốn có của con người bị xã hội phong kiếnkhinh rẻ, chà đạp, thủ tiêu. Con người cá nhân với số phận riêng, với những nhu cầu, đòihỏi chính đáng cả về vật chất và tinh thần. Hình ảnh của người phụ nữ với khát vọng về21tình yêu, hạnh phúc, tràn đầy sự sống, mang hơi thở của cuộc đời nhưng cũng tràn đầytính nhân văn.Văn học trong thời kì này thể hiện rất phong phú những biến cố của xã hội, hiệnthực xã hội đen tối, những cảnh đời bất hạnh…Dặc biệt, hình ảnh người phụ nữ được cácgiới nghệ sĩ quan tâm. Họ trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm văn học. XuânHương cũng vậy, bà đã trở thành nhà thơ của phụ nữ, người biện hộ và là người gửi gắmnỗi niền của chị em phụ nữ. Có thể nói rằng, văn học Việt Nam trước và cả sau này chưavà sẽ không bao giờ lại viết nhiều, viết hay và sâu sắc về người phụ nữ bằng giai đoạnnày.22Chương 2: SUY NGHĨ VỀ THÂN PHẬN NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG THƠHỒ XUÂN HƯƠNG.2.1. Nỗi đau của người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương.2.1.1. Nỗi đau của khát vọng tình duyên không trọn vẹn.Hồ Xuân Hương là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ bằng cả kinh nghiệm của bảnthân và cả nỗi buồn của những người phụ nữ đương thời. Luật lệ hà khắc của xã hộiphong kiến đã ấn định cho họ tất cả, kể cả tình yêu điều thiêng liêng nhất của con người.Đó là nhu cầu tất yếu của cuộc sống và không có gì là to tát, quá đáng nhưng trong xã hộiphong kiến thì nó trở nên mong manh và xa vời quá đỗi. Tình duyên với người phụ nữluôn long đong, trắc trở và họ cứ mãi buồn tủi cho số phận. Có thể nói đây là nỗi đau xótxa nhất của người phụ nữ.Đọc bài thơ “mời trầu” ta thấy đâu đây phản phất hương vị của truyền thống dântộc. Người Việt Nam ta từ ngàn xưa đã có tục lệ tiếp khác bằng quả cau, miếng trầu“miếng trầu là đầu câu chuyện” và cách cắt cau, têm trầu như thế nào lại thể hiện sự khéoléo của người phụ nữ. Từ cổ xưa dân tộc ta đã có truyện dân gian “Trầu cau” vừa giảithích tục ăn trầu, vùa ngợi ca tình nghĩa keo sơn gắn bó giữa anh em, vợ chồng. Khôngchỉ thế trầu cau còn là biểu tượng cho tình duyên, là cầu nối cho sự gắn bó lâu dài của lứađôi. Trong ca dao, miếng trầu quả cau nói về tình yêu trai gái:“Từ ngày ăn phải miếng trầuMiệng thơm môi đỏ dạ sầu đăm chiêu”(Ca dao)Về những éo le trong tình duyên:“Ba đồng một mớ trầu caySao anh chẳng hỏi những ngày còn không”(Ca dao)Hay như:“Thân em như miếng cau khôKẻ thanh tham mỏng người thô tham dày”(Ca dao)23Xuân Hương đã sử dụng nét truyền thống đó để bộc bạch khát khao hạnh phúc đơnsơ của riêng mình cũng như của chị em phụ nữ:“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôiNày của Xuân Hương mới quệt rồiCó phải duyên nhau thì thắm lạiĐừng xanh như lá bạc như vôi”(Mời trầu)“Quả cau nho nhỏ” là cách nói khiêm tốn, ý nhị của người phụ nữ trong ca dao màXuân Hương đã tiếp thu rất khéo léo đã thế lại là “trầu hôi” chứ đau phải trầu cánh kiến,cánh phượng. Miếng trầu mà Xuân Hương nói đến là miếng trầu nhỏ bé và bình dị , nếukhông muốn nói là tầm thường. Đọc câu thơ ta còn liên tưởng đến thân phận hẩm hiu, tộinghiệp của người mời trầu. Vì vậy mà câu thơ khiến người đọc không khỏi ngậm ngùi,chua xót.Hình ảnh miếng trầu, quả cau, ngôn ngữ tự xưng hô “Xuân Hương” mà không phảixưng là “em” hay “thiếp” cũng như cách dùng khẩu ngữ “này” cho ta thấy rằng đây làmột người con gái rât có bản lĩnh nhưng đồng thời cũng rất đằm thắm, chân thành. Lờimời trầu vừa tự nhiên vừa khiêm tốn nhưng vẫn thể hiện được sự chủ động , sự tự ý thứcbản thân của người mời. Người được mời chắn chắn sẽ rất ấn tượng với cách mời và sự tựtin đó. Khi dâng miếng trầu mời người đối diện, người con gái ấy đã bộc lộ khát vọng vềtình yêu đôi lứa. Hai câu thơ như lời kêu gọi về tình yêu chân thành, sâu lắng. Hơn thếnữa đó chính là khát vọng cháy bỏng ,mãnh liệt về hạnh phúc lứa đôi của tác giả.Nếu hai câu đầu là khát vọng, hi vọng thì hai câu thơ sau tác giả lại sợ hãi thốt lên:24“Có phải duyên nhau thì thắm lạiĐừng xanh như lá bạc như vôi”(Mời trầu)Nói như thế là vì Xuân Hương ý thức được rằng hiện thực rất đắng cay đối vớingười phụ nữ trong đường tình duyên. Xuân Hương như thấy trước một con đường tìnhduyên bấp bênh, không bền vững. Miếng trầu trong thơ Xuân Hương còn là sự dự cảm vềtương lai, về sự tách rời của cau trầu và cũng là của tình cảm lứa đôi. Bởi vì trong xã hộicũ người phụ nữ khó có được tình yêu chân thành tha thiết mà chỉ có thể có trong tưởngtượng, trong cõi mơ..Màu sắc bức tranh tâm trạng trong thơ Xuân Hương cũng chuyểnhoá với nhiều cung bậc “thắm – xanh - bạc”. Lấy cái xanh của lá để nói đến cái dửngdưng, lạnh nhạt của tình người, lấy màu bạc của vôi để tượng trưng cho sự bạc bẽo. Màubạc là màu mà mỗi người phụ nữ phong kiến khi sinh ra đã phải mang lấy bởi thói đờivốn dĩ bạc bẽo với người phụ nữ. Sau lời mời trầu là lời nhắn nhủ “xanh như lá” “bạc nhưvôi” hai câu thơ biểu đạt hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất nói về việc ăn trầu. tầngnghĩa thứ hai nói về duyên đôi lứa: Nếu phải duyên thì hãy mở lòng ra để đến với nhauchứ đừng có bội bạc, cạn tình. Nỗi buồn của nhân vật trữ tình trở nên sống động, đau sót,tê tái hơn bao giờ hết từ việc rầu rĩ đến chỗ hờn giận cho duyên kiếp mình.Bài thơ nói về trầu cau, biểu trưng cho sự nên duyên của vợ chồng, của hạnh phúclứa đôi nhưng miếng trầu trong thơ Xuân Hương nói lên một tấm lòng, một ước ao, lờinhắn nhủ mời trầu cho ta thấy niền khát khao của nữ thi sĩ hướng tới chân trời hạnh phúc,đồng thời là dự cảm về số phận của người phụ nữ. Trước cuộc đời bạc bẽo tàn nhẫn, nỗiđắng cay trong tình duyên là lời nhắn nhủ cũng cho thấy cá tính mạnh mẽ của XuânHương đòi hỏi trong tình yêu phải thủy chung, phải lên án thói bạc tình. Bà xoáy sâu vàocuộc đời nêu lên những bi kịch: cuộc đời cũ ai cũng khổ nhưng khổ nhất là người phụ nữ.2.1.2.Nỗi đau về thân phận làm lẽXuân Hương đưa cuộc đời riêng của mình vào thơ. Lấy chồng hai lần đều làm lẽvà cũng thật ngắn ngủi nên bà rất hiểu và thông cảm cho những người phụ nữ không gặpmay mắn trong đường tình duyên: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chănbông kẻ lạnh lùng” (Lấy chồng chung)25