Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ MỞ RỘNG VỐN TỪ NGỮ HÁN VIỆT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ (Tài liệu bồi dưỡng Hè 2017) ********* MỤC LỤC
Lời giới thiệu tr. 2 Kế hoạch bồi dưỡng tr. 4 1. Khát quát về yếu tố Hán Việt và từ Hán Việt tr. 8 1.1. Yếu tố Hán Việt tr. 8 1.2. Từ Hán Việt tr. 17 1.3. Sự hình thành từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt tr. 23 1.4. Thành ngữ, tục ngữ Hán Việt tr. 28 2. Vai trò của từ ngữ Hán Việt trong vốn từ ngữ tiếng Việt tr. 34 2.1. Từ Hán Việt trong tiếng Việt tr. 34 2.2. Nghĩa của từ Hán Việt tr. 34 2.3. Giá trị phong cách của từ ngữ Hán Việt tr. 37 3. Từ Hán Việt trong chương trình Trung học cơ sở hiện hành tr. 42 3.1. Nguyên tắc biên soạn chương trình tr. 42 3.2. Vị trí và phạm vi tr. 42 3.3. Những hạn chế của HS khi tiếp nhận và sử dụng từ Hán Việt tr. 43 3.4. Phiên thiết và phiên âm Hán Việt tr. 43 4. Cung cấp và mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt cho học sinh THCS tr. 50 4.1. Mục đích và đối tượng tr. 50 4.2. Phương pháp giảng dạy từ ngữ Hán Việt trong trường THCS tr. 51 4.3. Mở rộng vốn yếu tố Hán Việt tr. 56 4.4. Mở rộng vốn thành ngữ, tục ngữ Hán Việt tr. 78 5. Từ Hán Việt và việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt tr. 88 5.1. Căn cứ để nhận diện từ Hán Việt tr. 88 5.2. Sử dụng đúng từ ngữ Hán Việt tr. 91 5.3. Việt hóa từ ngữ Hán Việt tr. 93 5.4. Có thể thay thế từ ngữ Hán Việt theo hướng Âu hóa? tr. 93 TÀI LIỆUSỬ DỤNG tr. 95 LỜI GIỚI THIỆU Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên trong tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạo Kiên Giang phối hợp với trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang tổ chức biên soạn các chuyên đề bồi dưỡng Hè 2017. Các chuyên đề này nhằm nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật những đổi mới về nội dung, phương pháp và đánh giá kết quả giáo dục học sinh theo chương trình và sách giáo khoa hiện hành. Chuyên đề "Phương pháp giảng dạy và mở rộng vốn từ Hán Việt cho học sinh Trung học cơ sở" nằm trong cái đích chung đó. Chuyên đề "Phương pháp giảng dạy và mở rộng vốn từ Hán Việt cho học sinh Trung học cơ sở" được biên soạn theo kiểu thiết kế các hoạt động, nhằm tích cực hóa hoạt động của người học, kích thích óc sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề, tự đánh giá kết quả của người học, chú trọng sử dụng nhiều phương tiện truyền đạt khác nhau giúp người học dễ theo dõi, dễ tiếp thu và gây được hứng thú trong học tập. Chuyên đề "Phương pháp giảng dạy và mở rộng vốn từ Hán Việt cho học sinh Trung học cơ sở" nằm trong hệ thống các chuyên đề thuộc chuyên ngành Ngữ văn hướng đến đối tượng tiếp cận là giáo viên Ngữ văn hiện đang công tác tại các trường trung học cơ sở trong tỉnh. Mục đích của chuyên đề là: Đáp ứng thực tế tồn tại và sử dụng từ Hán Việt trong đời sống, trong giảng dạy và học tập; đáp ứng chương trình THCS: mỗi khối lớp phải cung cấp cho HS 50 – 60 yếu tố Hán Việt; giúp GV Ngữ văn THCS cập nhật, bổ sung kiến thức, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, phát triển nghề nghiệp; đặc biệt là bù đắp cho sự thiếu hụt của chương trình đào tạo GV THCS trước đây không có học phần Từ Hán Việt (trong Chương trình đào tạo GV THCS trước đây, từ Hán Việt chỉ là một nội dung/bài trong học phần “Từ vựng tiếng Việt” - xét về mặt nguồn gốc, hoàn toàn không có nội dung PPGD và mở rộng vốn từ Hán Việt); đồng thời bổ sung, củng cố, nâng cao những kiến thức và kỹ năng về dạy học đã được rèn luyện. Bên cạnh đó, chuyên đề này còn giúp người học có ý thức đổi mới phương pháp học, nâng cao tính tích cực chủ động trong học tập và ứng dụng các vấn đề đã học vào việc dạy một cách hiệu quả, cụ thể là việc giảng dạy và mở rộng vốn từ Hán Việt cho các em học sinh bậc THCS. Chuyên đề được biên soạn thành các nội dung như sau: 1. Khát quát về yếu tố Hán Việt và từ Hán Việt 2. Vai trò của từ ngữ Hán Việt trong vốn từ ngữ tiếng Việt 3. Từ Hán Việt trong chương trình Trung học cơ sở hiện hành 4. Cung cấp và mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt cho học sinh THCS 5. Từ Hán Việt và việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt Các bài không hoàn toàn lặp lại những nội dung kiến thức đã được học trong chương trình đào tạo GV THCS trước đây mà xuất phát từ những yêu cầu thực tế của việc giảng dạy từ Hán Việt ở trường THCS để tìm ra nguyên nhân của những hạn chế trong việc hiểu nghĩa, dùng đúng từ Hán Việt của học sinh, từ đó mà tìm kiếm biện pháp khắc phục, rèn luyện kỹ năng cho các em. Xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tác giả của những tài liệu mà chúng tôi đã sử dụng để biên soạn chuyên đề này, vì điều kiện thực tế chúng tôi không thể liên hệ để xin ý kiến được. Trong quá trình biên soạn, tuy đã hết sức cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô giáo gần xa để có điều kiện hoàn thiện, bổ khuyết cho những đợt bồi dưỡng sau. Địa chỉ liên hệ: Lâm Thành Tấn - Trường CĐSP Kiên Giang, Điện thoại: 0919355657 – Mail: Xin chân thành cám ơn. Kiên Giang, ngày 20 tháng 3 năm 2017 KẾ HOẠCH BỒI DƯỠNG CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ MỞ RỘNG VỐN TỪ NGỮ HÁN VIỆT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ HÈ 2017 I. Mục tiêu cần đạt của đợt bồi dưỡng 1. Về kiến thức: - Từ thực tiễn đời sống và thực tiễn dạy học khẳng định lại vị trí của từ ngữ Hán Việt và việc dạy học - mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt trong chương trình Trung học cơ sở - Nắm được cấu trúc nội dung chương trình - sách giáo khoa, các nguyên tắc dạy học, các kiểu bài và phương pháp lên lớp dạy các nội dung có từ ngữ Hán Việt cho học sinh Trung học sơ sở. - Xác định nguyên nhân và đề xuất biện pháp rèn luyện kỹ năng nắm và sử dụng từ ngữ Hán Việt cho học sinh Trung học cơ sở. 2. Về kỹ năng: - Vận dụng được các nguyên tắc, phương pháp dạy học từ ngữ Hán Việt vào quá trình dạy học. - Tổ chức được quá trình dạy học các kiểu bài, các nội dung về từ ngữ Hán Việt ở Trung học cơ sở. - Vận dụng được các biện pháp rèn luyện kỹ năng dùng từ, viết câu cho HS. 3. Về thái độ: - Nhận thức đúng đắn, đầy đủ tầm quan trọng của vốn từ ngữ Hán Việt trong chương trình Trung học cơ sở và trong đời sồng. - Có ý thức tốt trong việc giảng dạy và bồi dưỡng học sinh, đồng nghiệp về từ ngữ Hán Việt và việc mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt trong nhà trường. II. Tóm tắt chuyên đề: - Xác định lại vị trí vốn từ ngữ Hán Việt trong nhà trường và trong đời sống. - Nhìn lại các nội dung về từ Hán Việt trong chương trình Trung học cơ sở. - Xác định nguyên nhân mắc lỗi dùng từ Hán Việt và đề xuất biện pháp khắc phục cho học sinh trên cơ sở giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. - Một số biện pháp rèn luyện kỹ năng dùng nắm nghĩa của từ ngữ Hán Việt và mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt cho học sinh Trung học cơ sở.III. Nội dung chính và phân bố thời gian
IV. Đối tượng học tập chuyên đề Giáo viên đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở trường THCS. V. Phương pháp học tập Số lượng học viên cho một lớp < 40. Vận dụng những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với các phương pháp dạy học mới phù hợp với đối tượng người học, chú ý nhiều đến tự học và thảo luận, trao đổi nhóm. Trường hợp cần thiết sẽ nhờ sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại. VI. Thiết bị cần thiết 1. Phòng học đạt tiêu chuẩn với bàn ghế di động được 2. Giấy A0, A3, A4 (nhiều màu), bút dạ, băng dính, kéo VII. Tài liệu học tập và tham khảo 1. Bộ sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9) do nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành. 2. Bộ sách giáo viên Ngữ văn Trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9) do nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phát hành. 4. Các tài liệu, bài viết về từ ngữ Hán Việt (nói chung). VIII. Đánh giá - Sản phẩm làm việc của nhóm và cá nhân. - Các nội dung trình bày trước lớp của nhóm và cá nhân. X. Kết quả mong đợi - Học viên tin tưởng hơn vào vào kỹ năng và kiến thức của mình. - Cải thiện được tình trạng hạn chế về vốn từ ngữ Hán Việt và việc sử dụng từ ngữ Hán Việt cho học sinh Trung học cơ sở (nếu có) ngay năm học 2015 - 2016 và những năm tiếp theo. XI. Những điểm lưu ý Do tính chất của chuyên đề, yêu cầu học viên kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết với thực hành. Vì vậy, ở mọi hoạt động, học viên phải nắm vững, bám sát chương trình và sách giáo khoa ở những nội dung liên quan đến từ ngữ Hán Việt. Hoạt động chủ yếu của học viên trong chuyên đề là xây dựng phương pháp cung cấp và mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt cho học sinh. Vì vậy học viên phải đọc trước các tài liệu. Nếu không thì trên lớp sẽ không đủ thời gian và dữ kiện để thực hiện. Chuyên đề coi trọng vai trò của hoạt động nhóm tại lớp, học viên phải biết phát huy vai trò hợp tác, cùng giải quyết các vấn đề về nội dung và phương pháp dạy học. Đây cũng là điều kiện để học viên tiết kiệm thời gian, phát huy tính sáng tạo và biểu lộ tài năng của mình./ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ MỞ RỘNG VỐN TỪ NGỮ HÁN VIỆT C BÀI 1 KHÁI QUÁT VỀ TỪ NGỮ HÁN VIỆT Mục tiêu cần đạt: Về kiến thức: Khái niệm về từ Hán Việt, thành ngữ, tục ngữ Hán Việt. Về kỹ năng: Nhận diện từ Hán Việt trong tiếng Việt, vận dụng được những hiểu biết về từ ngữ Hán Việt để nhận diện từ ngữ Hán Việt trong các văn bản của sách giáo khoa. Về thái độ: Có thái độ đúng đắn với từ ngữ Hán Việt và lớp từ vay mượn, nói chung. Phương pháp - Hỏi - đáp - Làm việc cá nhân - Làm việc nhóm - Làm việc tập thể Hoạt động dạy học Buổi 1
20 phút
Page 21.1.2. Phân loại yếu tố Hán Việt 1.1.2.1. Yếu tố Hán Việt được dùng độc lập với cương vị là một từ, mỗi yếu tố là một từ của tiếng Việt, như: hoa 花, quả 果, nam 南, bắc 北, lợi 利, hại 害, thắng 勝, bại 敗,xuân 春,hạ 夏, …. 1.1.2.2. Yếu tố Hán Việt không được dùng độc lập với cương vị một từ mà chỉ là một thành tố cấu tạo từ, như: thiên 天, địa 地, sơn 山, hải 海, hoàng 黄, hắc 黑, tiếu 笑, khán 看, thính 聽, …. 1.1.3. Yếu tố Hán Việt và hiện tượng đồng âm Hiện tượng đồng âm trong nội bộ các yếu tố Hán Việt rất đậm nét. Các yếu tố đồng âm này vốn được viết bằng các chữ Hán khác nhau vì nghĩa của chúng vốn khác nhau, nhưng khi được viết bằng chữ Quốc ngữ của tiếng Việt thì như nhau, vì vậy khi sử dụng trong tiếng Việt rất dễ bị lẫn lộn. Thí dụ:
Ngoài ra còn có hiện tượng đồng âm giữa yếu tố Hán Việt với yếu tố phi Hán Việt (Yếu tố phi Hán Việt gồm các yếu tố thuần Việt và các yếu tố gốc Hán được mượn ở thời kỳ đầu hoặc được mượn qua con đường khẩu ngữ.). Thí dụ:
1.1.4. Yếu tố Hán Việt và hiện tượng đồng nghĩa Giữa yếu tố Hán Việt với yếu tố phi Hán Việt có một sự đồng nghĩa rất lớn. Theo Lê Xuân Thại: có người thống kê rằng trong các yếu tố Hán Việt có tới 75% đồng nghĩa với các yếu tố phi Hán Việt. Thí dụ:
Về hiện tượng này các nhà nghiên cứu cho rằng do hai nguyên nhân sau: - Thứ nhất: Khi tiếp nhận từ Hán Việt, ta tiếp nhận cả chỉnh thể từ gốc Hán tức là tiếp nhận tất cả thành tố cấu tạo từ (các yếu tố Hán Việt) khi trong tiếng Việt đã có sẳn yếu tố phi Hán Việt giữ cương vị là từ rồi thì yếu tố Hán Việt tương ứng này chỉ giữ vai trò cấu tạo từ mà thôi (không dùng độc lập như từ được). - Thứ hai: Mặc dù trong tiếng Việt đã có sẳn yếu tố phi Hán Việt giữ cương vị là từ rồi nhưng vẫn tiếp nhận yếu tố Hán Việt đồng nghĩa với cương vị từ do nhu cầu về phong cách. Thí dụ:
Ngoài ra còn có hiện tượng đồng nghĩa giữa các yếu tố Hán Việt với nhau. Đáng chú ý là những cặp yếu tố Hán Việt đồng nghĩa do các biến thể ngữ âm của cách đọc Hán Việt đối với cùng một chữ Hán. Các biến thể ngữ âm này có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: - Do kiêng húy tên của vua chúa hoặc họ hàng thân thích của vua chúa và người có thế lực. Thí dụ:
Tục kiêng húy này có khi chỉ thực hiện ở một vùng lãnh thổ nhất định hoặc chỉ trong một thời kỳ lịch sử nhất định, do đó nảy sinh hiện tượng có hai cách đọc nhưng cùng một chữ viết (chữ Hán). - Do sự phát triển của ngữ âm tiếng Việt. Thí dụ: Thu (thu phục) => Thâu (thâu phục) Chu (chu sa) => Châu (châu sa) Hiện tượng biến đổi phần vần này ở một số từ phi Hán Việt có thể tìm thấy trong một số phương ngữ hiện nay, như:
1.1.5. Nghĩa của yếu tố Hán Việt 1.1.5.1. Có phải mọi yếu tố Hán Việt đều có nghĩa? Tuyệt đại đa số yếu tố Hán Việt đều có nghĩa, chỉ một số ít yếu tố Hán Việt tự thân nó không có nghĩa. Thí dụ:
Nếu tra từ điển thì sẽ không thấy giải thích nghĩa của những yếu tố tỳ, bà, bồ, đào, mã, não, lư, ly. Bồ với tát cũng đều không có nghĩa, chỉ là những yếu tố dùng để dịch từ bodhi-sattva trong tiếng Phạn mà thôi. Các yếu tố câu, lạc, bộ trong tiếng Hán đều có nghĩa, nhưng các yếu tố này dùng để phiên âm từ club trong tiếng Anh, còn nghĩa của chúng thì chẳng dính dáng gì mấy đến nghĩa của từ này. 1.1.5.2. Có một số nghĩa của yếu tố Hán không được tiếp nhận trong yếu tố Hán Việt tương ứng. Thí dụ:
1.1.5.3. Có một số nghĩa của yếu tố Hán Việt không được tiếp nhận trong yếu tố Hán tương ứng. Đó là sự phát triển nghĩa của yếu tố Hán Việt. Thí dụ:
- Một số yếu tố Hán Việt vốn chỉ sự vật, có thêm nghĩa mới chỉ tính chất, như:
- Một số yếu tố Hán Việt vốn chỉ tính chất, có thêm nghĩa mới chỉ mức độ cao, như:
Chia sẻ với bạn bè của bạn:
Page 3- Một số yếu tố Hán Việt vốn chỉ tính chất, có thêm nghĩa chuyên biệt hóa, như:
- Một số yếu tố Hán Việt vốn chỉ loại sự vật, có thêm nghĩa chỉ một tiểu loại của sự vật đó, như:
- Một số yếu tố Hán Việt vốn chỉ hoạt động, có thêm nghĩa chỉ cái cụ thể của hoạt động đó, như:
1.2. Từ Hán Việt 1.2.1. Từ Hán Việt là gì? Trong bài Từ mượn (SGK Ngữ văn 6 tập 1) và bài Từ Hán Việt (SGK Ngữ văn 7 tập 1) không có định nghĩa về từ Hán Việt. Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học - Nguyễn Như Ý (Chủ biên) - Nhà xuất bản Giáo Dục, 2001 định nghĩa: Từ Hán Việt là từ tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán đã nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt; còn gọi là từ Việt gốc Hán. Ví dụ: Chính phủ, quốc gia, giang sơn, nhân dân, tổ quốc, xã tắc. Tác giả Nguyễn Thị Hai, trong bài “Cách nhận diện từ Hán Việt” đã giới thuyết: Từ Hán – Việt là các từ gốc Hán được đọc theo âm Hán – Việt. Âm Hán – Việt là âm đọc của tất cả các từ Hán được Việt hóa theo một con đường như nhau, cho tất cả mọi chữ Hán, theo những quy luật chặt chẽ; lấy xuất phát điểm là âm Hán Trung cổ ở các thế kỷ VIII, IX (ứng với thời kỳ triều đại nhà Đường, Trung Quốc). Từ vựng học của Nguyễn Thiện Giáp, nhà xuất bản Giáo Dục 1999 trang 242 viết: Các từ ngữ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt gọi tắt là từ Hán Việt. Trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt hiện đại nhà xuất bản Giáo dục 2003, Đỗ Hữu Châu dẫn lời của giáo sư Phan Ngọc: Một từ Hán Việt là viết ra được bằng chữ khối vuông của Trung Quốc nhưng lại phát âm theo cách phát âm Hán Việt người vẫn dùng để đọc mọi văn bản viết bằng chữ Hán… Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Từ Hán-Việt là từ vựng sử dụng trong tiếng Việt có gốc từ tiếng Trung Quốc nhưng đọc theo âm Việt. 1.2.2. Phân loại từ Hán Việt Cấu tạo của từ Hán việt có nhiều điểm giống với cấu tạo của từ thuần Việt, nhưng cũng có những điểm khác với từ thuần Việt. Để phân loại từ Hán Việt, có thể dựa vào các căn cứ sau: 1.2.2.1. Về nguồn gốc 1.2.2.1.1. Từ Hán Việt có nguồn gốc vốn là từ tiếng Hán Đây là những từ Hán Việt được mượn nguyên khối. Về nguồn gốc, đây là những từ do tiếng Hán cấu tạo nên. Về hình thức và ngữ nghĩa, những từ này có thể đối chiếu qua các từ điển tiếng Hán. Thí dụ: - anh 英 là vua loài hoa, hùng là vua loài thú 雄; anh hùng 英雄 là người hào kiệt xuất chúng. - thiên 天 là trời, tự nhiên, lý 理 là lẽ; thiên lý 天 理 là lẽ trời - thiên 天 là trời, tự nhiên, tai 災 là họa hai lớn; thiên tai 天 災 là tai họa do thiên nhiên gây ra. 1.2.2.1.2. Từ Hán Việt bao gồm cả những từ do người Hán mượn của ngôn ngữ khác rồi người Việt mượn lại và đọc theo âm Hán Việt - Những từ có gốc Nhật Bản: biện chứng, cộng hòa, đại bản doanh, điều chế, khái quát, kinh tế, mỹ thuật, nghĩa vụ, trường hợp, phục tùng, phục vụ, …. - Những từ có gốc Sanskrit (Phạn): Di lạc, niết bàn, Phật, Thích ca mâu ni, tỳ kheo, A la hán… - Những từ có gốc châu Âu: Mạc Tư Khoa, Á Căn Đình, Ba Tây, Ba Lê, Nã Phá Luân, Mạnh Đức Thư Cưu, …. 1.2.2.1.3. Từ Hán Việt do người Việt tạo nên bằng các yếu tố Hán Việt Những từ này được tạo ra ở Việt Nam nên không có trong tiếng Hán: bác sĩ, y sĩ, bệnh viện, công an, đại đội, đại bác, đặc công, phi công, thiếu tá, … 1.2.2.2. Về số lượng yếu tố cấu tạo 1.2.2.2.1. Từ đơn tiết: Là từ cấu tạo chỉ có một yếu tố, như: đầu, thân, thận, hoa, bút, hổ, tỉnh, huyện, học, tập, lợi, hại, vinh, nhục, phúc, đức, …. 1.2.2.2.2. Từ đa tiết: Là từ do nhiều yếu tố cấu tạo thành, chủ yếu là từ song tiết. Trong đó có một số từ được cấu tạo bằng những yếu tố không có nghĩa, như: phảng phất, linh lợi, trịnh trọng, xán lạn, bàng hoàng, đường hoàng, hồ đồ, … Thuộc loại này còn có các từ tiếng Hán mượn theo cách phiên âm các ngôn ngữ khác, như: bồ đào, tỳ bà, thạch lựu; bồ tát, la hán, hòa thượng, …. 1.2.2.3. Về phương thức cấu tạo Phần lớn các từ Hán Việt được cấu tạo theo phương thức ghép. Có ba loại từ ghép Hán Việt: từ ghép đẳng lập, từ ghép chính phụ và từ ghép chủ vị. Từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ chiếm số lượng nhiều hơn. 1.2.2.3.1. Từ ghép đẳng lập Trong từ ghép đẳng lập, các yếu tố có vai trò ngữ pháp ngang nhau. Các yếu tố trong từ ghép đẳng lập hoặc là đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc là trái nghĩa, hoặc là có liên quan với nhau trong một trường nghĩa nhất định. Thí dụ: (1) ngôn ngữ, khí huyết, thảo mộc, sự nghiệp, văn tự, tai nạn, …. (2) sinh trưởng, tồn tại, tiêu diệt, đình chỉ, bảo vệ, chế tạo, đấu tranh, …. (3) vĩ đại, dũng mãnh, cùng khổ, kỳ quái, kiên cường, phong phú, độc ác, … (4) mâu thuẫn, lợi hại, lai vãng, hô hấp, thị phi, động tĩnh, bi hoan, sinh tử, Trật tự của các yếu tố trong từ ghép đẳng lập là cố định, chỉ có một số từ có thể đảo trật tự các yếu tố mà nghĩa không không thay đổi, như: bạo tàn = tàn bạo, giản đơn = đơn giản, tranh đấu = đấu tranh, ly biệt = biệt ly, tổn thương = thương tổn, tổn phí = phí tổn, …. 1.2.2.3.2. Từ ghép chính phụ: có hai loại: - Từ có yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau. Loại này có hai loại nhỏ: + Yếu tố chính là yếu tố động, như: xuất bản, vệ sinh, thương tâm, nhập ngũ, tốt nghiệp, lưu tâm, đả đảo, phóng đại, thuyết minh, đề cao, …. + Yếu tố chính là yếu tố chỉ tính chất, như: mãn ý, lợi tiểu, bổ huyết, yên vị, yên chí, yên tâm, tinh ý, đoản mệnh, trường thọ, …. - Từ có yếu tố chính đứng sau, yếu tố phụ đứng trước. Loại này có ba loại nhỏ: + Yếu tố chính là yếu tố danh, như: học sinh, thanh niên, lương tâm, nhân loại, cổ thụ, tác phẩm, lễ đường, quảng trường, sinh vật, hải quân, hải cẩu, …. + Yếu tố chính là yếu tố chỉ hoạt động, như: ưu đãi, ám thị, tốc ký, hỗ trợ, tôn xưng, đại thắng, cô lập, cao hứng, cố tri, cố hữu, hậu tạ, hoan nghênh, … + Yếu tố chính là yếu tố chỉ tính chất, như: tối tân, cực đại, đại hàn, thượng thọ, tương phản, công ích, thậm tệ, …. 1.2.2.3.3. Từ ghép chủ vị Thí dụ: dân / chủ, nhân / tạo, pháp / định, niên / thiếu, dân / lập, nhật / thực, * Ngoài các phương thức trên, có một số từ Hán Việt được cấu tạo theo phương thức “phụ gia”, như: - đệ: đệ nhất, đệ nhị - khả: khả úy, khả ố, khả nghi - trưởng: lý trưởng, hiệu trưởng, đại đội trưởng - hóa: lý tưởng hóa, công hữu hóa, hợp tác hóa, hợp lý hóa, chuẩn hóa - sở: sở trường, sở đoản, sở đắc, sở thích - sĩ: thi sĩ, viện sĩ, họa sĩ - tính: nhân tính, thú tính - giả: học giả, độc giả, thính giả, khán giả ….. 1.2.2.4. Một số điểm lưu ý - Phần lớn từ Hán Việt do ta tiếp nhận từ tiếng Hán. Nhưng cũng có một bộ phận do người Việt Nam ta sáng tạo ra. Bộ phận này không có trong vốn từ tiếng Hán. Thí dụ: y sĩ, phi công, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, tiểu liên, trung liên, bộc phá, phát thanh, truyền hình, hành vi, tiền tố, căn tố, chuẩn hóa, phản biện, … - Một số từ Hán Việt tuy có trong vốn từ tiếng Hán nhưng nghĩa khác xa tiếng Hán, như:
- Một số từ Hán Việt ra đời do xu thế nói tắt, rút gọn:
******* *Thông tin phản hồi cho buổi 1 Hoạt động 1: Học viên thực hiện yêu cầu của người hướng dẫn về tổ chức Hoạt động 2: - Khi yếu tố đó hoàn toàn được chuyển thành yếu tố khác có nghĩa tương đương. - Vì “vệ” là yếu tố Hán Việt chưa được dùng độc lập hoàn toàn trong tiếng Việt - Phong (trong phong cảnh) với Phong (trong phong trần) là hiện tượng đồng âm: Phong (trong phong cảnh) được viết: 丯 (4 nét) còn Phong (trong phong trần) được viết: 風 (9 nét) - Giữa Xa (khoảng cách) với Xa (cái xe) có quan hệ đồng âm: đồng âm giữa yếu tố Hán Việt với yếu tố phi Hán Việt - Nguyên nhân: Các yếu tố đồng âm này vốn được viết bằng các chữ Hán khác nhau vì nghĩa của chúng vốn khác nhau, nhưng khi được viết bằng chữ Quốc ngữ của tiếng Việt thì như nhau. Hoạt động 3: - Khi tiếp nhận từ Hán Việt, ta tiếp nhận cả chỉnh thể từ gốc Hán tức là tiếp nhận tất cả thành tố cấu tạo từ (các yếu tố Hán Việt) khi trong tiếng Việt đã có sẳn yếu tố phi Hán Việt giữ cương vị là từ rồi thì yếu tố Hán Việt tương ứng này chỉ giữ vai trò cấu tạo từ mà thôi (không dùng độc lập như từ được). - Do tục kiêng úy Hoạt động 4: Các tổ nghiên cứu tài liệu, thảo luận, cử đại diện trình bày: - Căn cứ vào nguồn gốc có: + Từ Hán Việt có nguồn gốc vốn là từ tiếng Hán + Từ Hán Việt bao gồm cả những từ do người Hán mượn của ngôn ngữ khác rồi người Việt mượn lại và đọc theo âm Hán Việt + Từ Hán Việt do người Việt tạo nên bằng các yếu tố Hán Việt - Căn cứ vào số lượng yếu tố câu tạo + Từ đơn tiết + Từ đa tiết - Căn cứ vào phương thức cấu tạo + Từ ghép đẳng lập + Từ ghép chính phụ + Từ ghép chủ vị/ Buổi 2
Chia sẻ với bạn bè của bạn:
Page 4Tài liệu phát tay 1.3. Sự hình thành từ ngữ Hán Việt trong tiếng Việt 1.3.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa của sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt Qua các nghiên cứu có thể kết luận: sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt bắt đầu từ thời thượng cổ. Lúc đầu chỉ lẻ tẻ giữa các vùng cư dân gần gủi nhau. Sự tiếp xúc đó trở thành quy mô, lưu lại ảnh hưởng sâu đậm kể từ khi Triệu Đà xâm lược Âu Lạc (179 tr. CN) và nhất là từ lúc nhà Hán đặt nền đô hộ trên đất Giao Chỉ và Cửu Chân (111 tr. CN) cho đến năm 938, Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán, đem lại nền độc lập cho nước nhà. Đây là thời kỳ thống trị của phong kiến phương Bắc đối với nước ta. Về mặt chính trị, đây là thời kỳ chính quyền phong kiến ngoại xâm thống trị nước ta. Bộ máy thống trị đầu công nguyên mới chỉ hình thành ở một trung tâm được bọn chúng dùng làm trị sở, từ "cấp huyện" trở xuống thực quyền vẫn trong tay người Việt. Bắt đầu từ thời Đông Hán, sau khi đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, người Hán mở rộng các cứ điểm thống trị đến cấp huyện. Đến thời nhà Đường thì bộ máy cai trị này đã đi sâu xuống tận cấp xã. Về mặt xã hội, theo chân chính quyền đương thời, người Hán đã sơm thâm nhập vào các hoạt động quan trọng của xã hội Việt Nam, sống chen lẫn với người Việt Nam. Đó là những "kiều nhân" sang sinh cơ lập nghiệp ở Việt Nam: kẻ thì sang theo bà con, kẻ thì sang để lánh nạn khi ở ngay chính quốc bị loạn lạc, có kẻ sang vì phạm tội bị lưu đày, có kẻ sang chỉ vì nghe đồn ở Giao Châu dễ làm ăn sinh sống,.... Đó còn là những kiều nhân vốn là quan chức, vốn là quan chức, sau khi thôi làm quan, ở lại sinh cơ lập nghiệp; tầng lớp này đông đảo và giàu có, là một giai tầng có uy thế, họ dựa vào bộ máy chính quyền và cũng được bộ máy chính quyền ủng hộ, kính nể. Đó còn là những binh lính người Hoa sang Việt Nam đàn áp các cuộc khởi nghĩa yêu nước rồi ở lại. Đó còn là hàng vạn dân thường được chính quyền phong kiến phương Bắc bắt ép phải di dân sang Việt Nam để thực hiện ý đồ bành trướng của giai cấp thống trị ở mỗi các triều đại. Tất cả các tầng lớp cư dân người Hán này sinh sống và ở lẫn với người Việt, có quan hệ chặt chẽ với người Việt trong mọi hoạt động xã hội. Về mặt văn hóa, đây là thời kỳ văn hóa Hán được truyền bá thấm sâu vào xã hội Việt Nam. Lực lượng góp phần đắc lực nhất trước hết là bộ máy quan lại thống trị người Hán và tầng lớp "kiều nhân" Hán có uy thế. Thứ đến là tầng lớp "quyền quý" người Việt đã góp phần đáng kể vào công việc này. Qua giáo dục và khoa cử, trong giai cấp phong kiến Việt Nam đã xuất hiện một tầng lớp trí thức am hiểu Hán học và thông quan Hán học nắm được cả Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Do những nhân tố về chính trị, xã hội, văn hóa như đã nói ở trên, vào thời kỳ Bắc thuộc, quan hệ giữa tiếng Hán và tiếng Việt là quan hệ bất bình đẳng. Tiếng Hán được giữ địa vị chính thống trong công việc hành chánh, trong giáo dục và văn hóa, tiếng Việt không được coi trọng vì là ngôn ngữ của dân tộc bị trị. Thời kỳ độc lập tự chủ trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, trừ một số giai đoạn ngắn nước ta bị phong kiến phương Bắc xâm chiếm và đô hộ, giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn có quan hệ bang giao về chính trị, sự trao đổi về kinh tế và sự giao lưu về văn hóa. Đặc biệt là ở thời kỳ này, chữ Hán và tiếng Hán vẫn giữ vai trò chính thống trong giấy tờ hành chính, trong giáo dục, khoa cử và cả trong sáng tác văn chương. Mặc dù đất nước độc lập đã có những vị minh quân, các bậc sĩ phu có ý thức đề cao vai trò của tiếng Việt nhưng cái chủ đạo trong các thế hệ trí thức của các thời kỳ này vẫn là Hán học. Địa vị chính thống của tiếng Hán bị lung lay khi thực dân Pháp đặt nền thống trị ở Việt Nam. Cùng với việc củng cố bộ máy chính quyền thực dân và việc bãi bỏ chế độ thi cử truyền thống, tiếng Pháp bắt đầu giữ địa vị chính thống ở Việt Nam. Tầng lớp trí thức Hán học tàn lụi dần. Thời kỳ này, biết tiếng Hán là tầng lớp sĩ phu của chế độ cũ còn lại và những học trò của các nho sĩ đã thất thế; tuy nhiên không phải vì thế mà sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt hoàn toàn bị cắt đứt. Đặc biệt, từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nhà yêu nước Việt Nam qua sách báo chữ Hán đã tìm thấy những tư tưởng tiến bộ của Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, của Tôn Trung Sơn và tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đem lại địa vị chính thống cho tiếng Việt trong mọi mặt của đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Hoa gần gũi và chặt chẽ hơn, do đó, sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt cũng đậm nét hơn. Tóm lại, qua hàng ngàn năm lịch sử, trải qua các biến cố xã hội, tình hình có thay đổi nhưng sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt vẫn liên tục và đã để lại những dấu ấn, những hệ quả rõ nét trong tiếng Việt. 1.3.2. Từ Hán Việt - một hệ quả của sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt Sự tiếp xúc ngôn ngữ giữa Hán và Việt lâu dài và liên tục đã làm nảy sinh nhiều hiện tượng ngôn ngữ đáng chú ý, đặc biệt là sự hình thành và tồn tại lớp từ Hán Việt. Nhưng có phải tất cả các từ Hán được đọc theo âm tiếng Việt đều là từ Hán Việt? 1.3.2.1. Cách đọc Hán Việt. Cách đọc Hán Việt là cách đọc chữ Hán của người Việt bắt nguồn từ ngữ âm tiếng Hán thời nhà Đường chịu sự chi phối của hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Chữ Hán là thứ chữ tượng hình chứ không phải chữ ghi âm. Loại chữ này ở Trung Quốc có nhiều cách đọc khác nhau tùy theo từng địa phương. Tuy các địa phương có cách đọc khác nhau, nói khác nhau nhưng khi đọc các văn bản thì có thể hiểu nhau. Cách đọc chữ Hán ở Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử cũng có sự thay đổi theo sự thay đổi của hệ thống ngữ âm tiếng Hán. Thời kỳ Bắc thuộc, tiếng Hán ở Giao Châu (bắc Việt Nam ngày nay) như là một phương ngữ của tiếng Hán ở Trung Quốc tồn tại bên cạnh tiếng Việt, chịu tác động bởi cách nói của người Việt, nhưng nó vẫn gắn bó mật thiết với tiếng Hán ở Trung Quốc: khi tiếng Hán ở Trung Quốc có diễn biến thì nó cũng diễn biến theo. Ở các thế kỷ VIII, IX, cách đọc chữ Hán ở Giao Châu là cách đọc theo hệ thống ngữ âm tiếng Hán giai đoạn sau của tiếng Hán trung cổ. Sang thế kỷ X, khi Giao châu đã là một quốc gia độc lập tự chủ thì tiếng Hán ở Việt Nam đã cách ly khỏi tiếng Hán ở bên kia biên giới. Sau thế kỷ X, trải qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh, tiếng Hán ở Trung Quốc vẫn tiếp tục diễn biến, nhưng những sự chuyển biến này không còn tác động đến tiếng Hán ở Việt Nam một cách trực tiếp với vai trò quyết định như trước nữa. Từ thế kỷ X trở về sau, tiếng Hán ở Việt Nam chịu sự chi phối của tiếng Việt, nếu có diễn biến là nó diễn biến trong phạm vi, quỹ đạo và ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Cách đọc chữ Hán dựa trên hệ thống ngữ âm tiếng Hán thời Đường dần dần biến dạng đi dưới tác động của ngữ âm và ngữ âm lịch sử của tiếng Việt, tách xa hẳn cách đọc của người Hán và trở thành một cách đọc riêng của người Việt. Cách đọc đó thường được gọi là cách đọc Hán Việt như trên đã định nghĩa. Như vậy, cách đọc Hán Việt là sản phẩm lịch sử của sự tiếp xúc ngôn ngữ Hán và Việt ở thời kỳ nhà nước phong kiến Việt Nam độc lập tự chủ. Nói cách khác: vào thời kỳ phong kiến đôc lập tự chủ ở Việt Nam cách đọc Hán Việt đã hình thành, phát triển và tồn tại đến ngày nay. 1.3.2.2. Có phải tất cả các từ tiếng Hán được đọc theo âm Hán Việt đều là từ Hán Việt? Với cách đọc Hán Việt có thể đọc tất cả các từ tiếng Hán. Nhưng không phải tất cả các từ tiếng Hán được đọc theo âm Hán Việt đều được mượn vào tiếng Việt. Trên thực tế chỉ có một bộ phận từ tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt được mượn vào tiếng Việt mà thôi. Đọc bản phiên âm các bài thơ chữ Hán trong sách giáo khoa Ngữ văn 7 ta thấy rõ điều này. Chẳng hạn, trong bài Nam quốc sơn hà, các từ “tiệt nhiên”, “nhữ đẳng” không được mượn vào tiếng Việt, các từ như “sơn hà”, “xâm phạm” thì được mượn vào tiếng Việt. Chỉ những từ gốc Hán đọc theo âm Hán Việt được mượn vào tiếng Việt mới gọi là từ Hán Việt. 1.3.2.3. Phân biệt từ Hán Việt với những từ mượn gốc Hán nhưng không đọc theo cách đọc Hán Việt. Trong tiếng Việt hiện tồn tại một số từ gốc Hán không đọc theo cách đọc Hán Việt. Đó là các từ gốc Hán được mượn vào tiếng Việt trong giai đoạn chưa có cách đọc Hán Việt. Người ta gọi lớp từ này là từ tiền Hán Việt hoặc từ cổ Hán Việt.
Các từ này du nhập vào tiếng Việt khá sớm nên rất dễ nhầm lẫn, khó phân biệt với từ thuần Việt. Ngoài từ tiền Hán Việt (cổ Hán Việt), trong tiếng Việt còn có một số ít từ gốc Hán được mượn theo con đường khẩu ngữ, như: mì chính, vằn thắn, há cảo, xủi cảo, xập xám, loạn xị bát nháo, xập xí xập ngầu…. cũng không phải là từ Hán Việt.
Cách đọc Hán Việt Yếu tố gốc Hán - Khu vực I gồm các âm tuy có thể đọc theo âm Hán Việt nhưng không được tiếp nhận trong tiếng Việt, như: chẩm 怎 (sao, ra sao; tiếng trợ lời), giá 這 (ấy, sự ấy), ma 么 (dùng làm tiếng giúp lời) - Khu vực II gồm những yếu tố gốc Hán có cách đọc phi Hán Việt. Chúng gồm ba trường hợp: + Trường hợp thứ nhất, mượn trước cách đọc Hán Việt (tiền Hán Việt), thí dụ: mùa務, mùi 味, buồng 房, buồm 帆,.. + Trường hợp thứ hai, mượn từ đời Đường cùng một lần với cách đọc Hán Việt nhưng về sau diễn biến theo một con đường khác với cách đọc Hán Việt, thí dụ: gan 肝, gân 筋, ván 板, vốn 本 + Trường hợp thứ ba, mượn qua phương ngữ Hán, thí dụ: mì chính, mằn thắn, xủi cảo, há cảo… - Khu vực III là những yếu tố Hán Việt, thông qua cách đọc Hán Việt. Đây mới chính là từ Hán Việt mà chúng ta đang xét, gồm những từ đơn như: thiên 天, địa 地, giang 江, sơn 山, nhân 人, hà 河, thắng 勝, bại 敗, … và những từ ghép như: tổ quốc祖國, gia đình家庭, xã hội 社會, vận mệnh運命, thế giới世界, thời đại, 時代…Chính những yếu tố này tạo nên từ Hán Việt. 1.4. Thành ngữ, tục ngữ Hán Việt 1.4.1. Cấu tạo của thành ngữ, tục ngữ Hán Việt Trong vốn thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt có một số lượng khá lớn được cấu tạo bằng các từ Hán Việt, theo quy tắc ngữ pháp tiếng Hán. Về cấu tạo, chúng rất đa dạng nhưng thường gồm 4 chữ, 5 chữ hoặc 8 chữ, trong đó tỷ lệ các thành ngữ 4 chữ chiếm số lượng lớn (khoảng 70 – 80%). Về mặt nghĩa, cũng như tiếng Việt: thành ngữ là cụm từ cố định tương đương với từ, tục ngữ thì đúc kết kinh nghiệm hoặc một bài học nào đó. Đặc biệt có những thành ngữ, tục ngữ hình thành từ các điển tích, điển cố rất thú vị sẽ được đề cập tới ở phần sau. Trong thành ngữ, tục ngữ Hán Việt có nhiều thành ngữ, tục ngữ ta mượn toàn vẹn của tiếng Hán, nhưng cũng có mộ số thành ngữ, tục ngữ có sự khác biệt bộ phận so với thành ngữ, tục ngữ trong tiếng Hán hoặc do cộng đồng người Việt sáng tạo ra, không thấy có trong tiếng Hán. 1.4.1.1. Mượn toàn vẹn thành ngữ Hán. Thí dụ: - Công thành danh toại - Tâm đầu ý hợp - Phu xướng phụ tùy - Bách chiến bách thắng - Chiêu hiền đãi sĩ - Vạn sự khởi đầu nan - Trường sinh bất lão - Vô danh tiểu tốt - Tứ hải giai huynh đệ - Tham quyền cố vị - Đại sự hóa tiểu, tiểu sự hóa vô - Nhất nghệ tinh nhất thân vinh - Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại - Nhất tự vi sư bán tự vi sư - Phú quý sinh lễ nghĩa - Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí - Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung - Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách - Giang san dị cải, bản tính nan di 1.4.1.2. Có sự khác biệt bộ phận so với thành ngữ Hán. Thí dụ:
1.4.1.3. Do cộng đồng người Việt sáng tạo ra. Thí dụ: - Sinh cơ lập nghiệp - Tài cao đức trọng - Tôn sư trọng đạo - Vô thưởng vô phạt - Vinh thân phì gia - Nam thanh nữ tú - Lão nông tri điền - Tràng giang đại hải - Thăng quan tiến chức - Hữu sắc vô hương ….1.4.2. Thành ngữ Hán Việt có thành ngữ Việt tương đương. Thí dụ:
1.4.3. Nghĩa của thành ngữ, tục ngữ Hán Việt 1.4.3.1. Nghĩa của thành ngữ được suy trực tiếp từ nghĩa của các yếu tố tạo nên nó, nhưng cũng có nhiều thành ngữ có nghĩa bóng. Thí dụ:
1.4.3.2. Nghĩa của thành ngữ được hình thành trên những câu chuyện dân gian, câu chuyện lịch sử (gọi chung là điển tích) rất thú vị. Hiểu được những câu chuyện đó thì hiểu thành ngữ sâu sắc hơn. Thí dụ: - Thành ngữ “Dương dương tự đắc” dùng để chỉ thái độ vênh váo, kiêu kỳ, tự cho mình là ghê gớm lắm; dựa trên câu chuyện: Thời Chiến quốc, Án Tử là Thừa tướng nước Tề, do đấy người đánh xe cho ông cũng rất kiêu ngạo. Một lần Án Tử cưỡi xe đi qua của nhà anh đánh xe, vợ người đánh xe thấy chồng mình ra vẻ dương dương tự đắc. Đợi khi chồng về, vợ đòi ly hôn. Chị ta nói: “Án Tử là Thừa tướng của một nước mà ngồi xe khiêm tốn là thế, còn anh chỉ là người đánh xe của ông ấy thôi mà lại dương dương tự đắc như vậy”. Sau khi nghe vợ nói người đánh xe liền thay đổi thái độ. (Sử ký – Tư Mã Thiên – Quản Án liệt truyện). - Thành ngữ “ Kinh cung chi điểu” có nghĩa là bị nạn hụt một lần thì hay e ngại, sợ sệt, hoảng hốt; dựa trên câu chuyện: Canh Luy đứng trước Ngụy vương, giương cung không có tên, giả bắn một phát, một con nhạn liền rơi xuống. Canh Luy giải thích với Ngụy vương rằng: “Sở dĩ như vậy là vì con chim này đã bị thương, vết thương chưa lành và lòng khiếp sợ chưa tan, cho nên thấy cung giương lên là hãi”. (Chiến quốc sách) - Thành ngữ “Khai thiên lập địa” chỉ thời quá khứ rất xa xăm; dựa trên câu chuyện truyền thuyết về Bàn Cổ: Thế giới lúc đầu hỗn độn như một quả trứng, trong đó có ông Bàn Cổ. 18.000 năm trước, ông Bàn Cổ tách khối hỗn độn đó: phần trong sáng là trời, phần đục là đất. Về phần này, chúng ta có công cụ hỗ trợ là các quyển “Từ điển thành ngữ điển tích”./ ******* Thông tin phản hồi cho buổi 2 Hoạt động 1: Học viên thực hiện yêu cầu của người hướng dẫn về tổ chức Chia sẻ với bạn bè của bạn:
Page 5
* Tài liệu phát tay 2. Vai trò của từ ngữ Hán Việt trong vốn từ ngữ tiếng Việt 2.1. Từ Hán Việt trong tiếng Việt Tiếng Việt và tiếng Hán là hai ngôn ngữ cùng loại hình đơn lập. Sự tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ này diễn ra rất sớm (TK II tr CN) và kéo dài đến tận ngày nay. Vì vậy, tiếng Việt đã vay mượn tiếng Hán nhiều lớp từ, vào các thời kỳ khác nhau nên có âm đọc khác nhau. Đáng chú ý là lớp từ Hán cổ (mượn ở giai đoạn TK VII về trước) và lớp từ Hán Việt (mượn ở giai đoạn từ TK VIII về sau). Nằm trong quy luật phát triển, biến đổi ngữ âm của từ tiếng Việt, trải qua thời gian, một số từ Hán Việt đã biến đổi ngữ âm, ngữ nghĩa để hòa vào kho từ vựng tiếng Việt nói chung. 2.2. Nghĩa của từ Hán Việt 2.2.1. Một từ trong tiếng Hán có thể mang nhiều nghĩa, nhưng khi vào tiếng Việt chỉ giữ lại một, hai nghĩa mà thôi. Thí dụ từ Nhất 一 theo Từ hải có đến 13 nghĩa: 1. Tên chữ số: một, 2. Tất cả, 3. Bao gồm một mối, thống nhất, 4. Đều, 4. Cùng, 6. Chuyên về, 7. Một khi, 8. Một mình, 9. Hoặc, 10. Lên, 11. Thật, 12. Tên một loại nhạc phổ biểu thị thanh điệu, 13. Một loại từ đệm; trong sách cổ Nhất còn có nghĩa: cái bản thể uyên nguyên của vũ trụ vạn vật. Sang tiếng Việt, Nhất chỉ số thứ tự đầu tiên và do đó có thêm nghĩa là “trên hết”, “đứng đầu” (Anh nhất thì tôi thứ nhì, ai mà nhất nữa tôi thì thứ ba – Ca dao). Các nghĩa “số một”, “bao gồm”, “cùng” của Nhất chỉ xuất hiện trong từ ghép: duy nhất, độc nhất, nhất trí, nhất định, thống nhất,… 2.2.2. Một số từ vẫn giữ nguyên nghĩa cũ trong khi ở Trung Quốc không còn thông dụng nữa. Thí dụ: - từ Sinh 生 ở ta vẫn giữ nghĩa “sống” và “đẻ” trong khi Hán ngữ ngày nay không có hai nghĩa ấy, “sống” được thay bằng Hoạt 活 và “đẻ” được thay bằng Sản 產. - từ Thiên 天 ở Việt Nam ta vẫn giữ nghĩa “trời”, nay trong Hán ngữ có nghĩa là “ngày”, thay cho từ Nhật日 cổ (chỉ “mặt trời” mà Việt Nam ta thì cũng hiểu là “ngày”). - từ Công phu 工夫ở Việt Nam ta vẫn giữ nghĩa “sức lực đem ra để làm việc”, do đó cũng dùng để chỉ “làm cái gì một cách cẩn thận, tỉ mỉ, đầu tư nhiều sức lực, thời gian” trong khi Hán ngữ ngày nay từ Công phu có nghĩa “thì giờ”. 2.2.3. Nhiều từ Hán Việt đi vào tiếng Việt đã trải qua quá trình biến đổi nghĩa, như các trường hợp sau: 2.2.3.1. Vẫn giữ phần nào nghĩa gốc, nhưng mở rộng khả năng kết hợp. Thí dụ: - từ Bì 皮 là “lớp da ngoài” được dùng rộng ra để chỉ “những cái bao bọc bên ngoài một vật”: bì thư, bì thóc, bì kẹo…. - từ Ông 翁 là “cha của bố hay mẹ” được dùng “chỉ chung người đứng tuổi phái nam: ông hiệu trưởng, ông giáo, ông ba bị, trái lại là Bà 婆: bà chủ, bà giám đốc,… 2.2.3.2. Từ gốc có nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhưng khi chuyển qua từ Hán Việt chỉ dùng nghĩa bóng, nghĩa phái sinh, vì nghĩa đen đã có từ thuần Việt đảm nhiệm. Thí dụ: - từ Tâm 心 chỉ “tấm lòng, tình cảm tốt”, chứ không dùng nghĩa “trái tim” (trừ thuật ngữ y học: tâm thất) - từ Thâm 深 chỉ “người có mánh khóe hiểm ác để công kích, chơi khăm kẻ khác, chứ không dùng nghĩa “sâu” (trừ từ ghép: uyên thâm, thâm nhập). 2.2.3.3. Từ Hán Việt biểu đạt ý nghĩa trang trọng, thanh nhã hơn so với từ thuần Việt đồng nghĩa do văn cảnh hạn định. Thí dụ: - từ Tẩy uế 洗穢 là “rửa sạch đồ bẩn, dùng trong việc cúng tế”. - từ Phu nhân 夫人 là “vợ những người có địa vị, chức vụ xã hội”. 2.2.3.4. Từ Hán Việt thu hẹp nghĩa, dùng trong một trường hợp cụ thể. Thí dụ:
- từ Trình độ 程 度 là “mức cao thấp” được dùng để chỉ “khả năng hiểu biết tốt, nhiều kiến thức. - từ Hủ hóa 朽 化 là “hư hỏng, mục nát” được dùng để chỉ “quan hệ nam nữ không chính đáng”. - từ Đáo để 到 底 là “đến tận đáy” được dùng để chỉ “người có hành động quá quắt đáng sợ”. - từ Tâm địa 心 地 là “tấm lòng” được dùng để chỉ “bụng dạ thiên về cái gì không tốt, hại kẻ khác”. 2.2.3.5. Từ Hán Việt đã chuyển biến hơi xa nghĩa gốc, nhưng qua suy luận còn thấy mối tương quan. Thí dụ: - từ Diện 面 là “cái mặt” được dùng với nghĩa “trau chuốt bề ngoài cho đẹp”: nó diện thật bảnh. - từ Biệt 別 là “chia lìa, riêng” được dùng với nghĩa “mất hẳn”: đi biệt, biệt tin. - từ Biến 變 là “thay đổi trạng thái” được dùng với nghĩa “mất hẳn, không còn chút gì”: tan biến, mất biến. 2.2.3.6. Từ Hán Việt đã có nghĩa khác hẳn với nghĩa gốc, mối liên quan rất khó nhận thấy. Thí dụ: - từ Bạc 薄 nghĩa gốc là “mỏng”, nghĩa mới chỉ “tình trạng không gắn bó, thờ ơ, thay lòng đổi dạ”. - từ Đãi 待 nghĩa gốc là “đối xử”, nghĩa mới chỉ “việc cho người khác ăn uống dồi dào” - từ Đoán 斷 nghĩa gốc là “xét rõ”, nghĩa mới là “nghĩ một cách phỏng chừng, mơ hồ”. - từ Hư 虛 nghĩa gốc là “trống rỗng”, nghĩa mới là “hỏng, xấu”. - từ Mạt 末 nghĩa gốc là “ngọn cây, cuối” nghĩa mới là “hèn kém”. - từ Thủ đoạn 手段 nghĩa gốc là “cách thức, cơ mưu”, nghĩa mới là “mánh khóe xấu xa, làm hại người khác để kiếm lợi”. - từ Tâm thuật 心術 nghĩa gốc là “cách dùng tình cảm, đạo đức để cảm hóa người khác”, nghĩa mới chỉ “ý đồ không tốt”. - từ Tử tế 子細 nghĩa gốc là “cẩn thận, tỉ mỉ”, nghĩa mới là “tốt bụng, ăn ở tốt với người khác”. - từ Lịch sự 歷事 nghĩa gốc là “trải qua sự việc, thạo việc”, nghĩa mới là “giao thiệp khôn khéo hợp thời”. Tình trạng biến đổi nghĩa này đã làm cho từ Hán Việt trở thành từ thuần Việt.
Muốn sử dụng tốt từ ngữ Hán Việt, không những phải hiểu rõ ý nghĩa của từ ngữ mà còn phải thấu hiểu các giá trị phong cách của chúng. Vấn đề giá trị phong cách được đặt ra khi một từ ngữ Hán Việt đồng nghĩa với một hoặc nhiều từ ngữ phi Hán Việt khiến trong khi sử dụng bắt buộc ta phải lựa chọn. Về đại thể, từ Hán Việt có các giá trị phong cách sau: 2.3.1. Tạo sắc thái tao nhã, tránh gây ấn tượng ghê rợn 2.3.1.1. Tạo sắc thái tao nhã, như: hậu môn, tiểu tiện, đại tiện, hộ sinh, khỏa thân, dương vật, âm hộ, phân…. 2.3.1.2. Để giảm bớt ấn tượng ghê rợn, như: thổ huyết, xuất huyết, thi hài, hài cốt, di hài, thương vong, hỏa táng …. 2.3.2. Tạo sắc thái trang trọng Từ Hán Việt tạo sắc thái trang trọng, đặc biệt phù hợp với các trường hợp giao tiếp lễ nghi. So sánh các từ sau đây sẽ thấy rõ điều đó:
“Lệ” và “nước mắt” là hai từ đồng nghĩa. Thông thường người ta chỉ nói “nước mắt”, nhưng trong một số trường hợp dùng “lệ” thấy hay hơn, có giá trị nghệ thuật hơn là do tính trang trọng của từ Hán Việt, như: - Lệ rơi thấm đá, tơ chia rũ tằm (Nguyễn Du) - Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều (Tố Hữu) - Luận cương đến Bác Hồ, và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê-nin. (Chế Lan Viên) Do sắc thái trang trọng của từ ngữ Hán Việt mà người Việt Nam ta rất thích dùng từ ngữ Hán Việt để đặt tên người, tên đất. Người ta thích đặt tên là Sơn, là Hải, là Thủy, là Thảo, là Diệp … chứ ít ai lấy tên là Núi, là Biển, là Nước, là Cỏ, là Lá … mặc dù chúng có nghĩa như nhau. Nhiều tên làng cổ của Việt Nam bên cạnh tên Việt còn có thêm tên Hán Việt, như:
2.3.3. Gợi hình ảnh của thế giới khái niệm, im lìm, bất động Nếu như từ thuần Việt thường cung cấp cho ta hình ảnh sinh động thì từ Hán Việt, ngoài sắc thái trang trọng còn gợi cho ta hình ảnh của thế giới khái niệm, im lìm, bất động. So sánh ba bài thơ mùa thu của Nguyễn Khuyến với các bài “Cảnh chiều hôm”, “Thăng Long hoài cổ” của Bà Huyện Thanh Quan ta sẽ thấy rõ điều đó. Thu điếu Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo. Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,Cá đâu đớp động dưới chân bèo. Thu ẩm Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè. Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe. Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ? Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe. Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy.Độ năm ba chén đã say nhè.
Thu vịnh Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào Cảnh chiều hôm Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn, Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn. Gác mái, ngư ông về viễn phố, Gõ sừng, mục tử lại cô thôn. Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi, Dặm liễu sương sa khách bước dồn. Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ, Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?. Thăng Long thành hoài cổ Tạo hóa gây chi cuộc hý trường Đến nay thấm thoát mấy tinh sương Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt Nước còn cau mặt với tang thương Ngàn năm gương cũ soi kim cổ Cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Thơ của Nguyễn Khuyến thì dùng nhiều từ phi Hán Việt còn trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại dùng nhiều từ Hán Việt. Cảnh vật trong thơ Nguyễn Khuyến là cảnh thực, còn cảnh vật trong thơ Bà Huyện Thanh Quan là cảnh của muôn đời, cảnh của ý niệm. 2.3.4. Tạo sắc thái cổ Quả thật không thể phủ nhận giá trị của từ ngữ Hán Việt khi tái tạo hình ảnh các nhân vật và cuộc sống xã hội ngày xưa, đưa người đọc, người nghe trở về với không khí của quá khứ. Các từ này ngày nay không được dùng nhưng nó đã gắn bó với lời ăn tiếng nói của một thời. Đó là các từ như: hoàng thượng, hoàng hậu, trẫm, khanh, hoàng tử, công chúa, xa giá, ngự triều, hạ chỉ, bái yết, bình thân, vấn an, thuyền quyên, giai nhân, tiểu thư, vi hành, băng hà, …. / ******* * Thông tin phản hồi cho buổi 3 Hoạt động 1: Học viên thực hiện yêu cầu của người hướng dẫn về tổ chức Hoạt động 2: - Viết đoạn văn theo yêu cầu - Nghĩa của các từ: + Bì 皮 là “lớp da ngoài” được dùng rộng ra để chỉ “những cái bao bọc bên ngoài một vật”: bì thư, bì thóc, bì kẹo…. + Tâm心 chỉ “tấm lòng, tình cảm tốt”, chứ không dùng nghĩa “trái tim” (trừ thuật ngữ y học: tâm thất) + Phu nhân 夫人 là “vợ những người có địa vị, chức vụ xã hội”. + Hủ hóa朽 化 là “hư hỏng, mục nát” được dùng để chỉ “quan hệ nam nữ không chính đáng”. + Biệt別 là “chia lìa, riêng” được dùng với nghĩa “mất hẳn”: đi biệt, biệt tin. + Mạt 末 nghĩa gốc là “ngọn cây, cuối” nghĩa mới là “hèn kém”. Hoạt động 3: Thực hiện yêu cầu của người hướng dẫn Hoạt động 4: Thảo luận rút ra kết luận./ BÀI 3 TỪ NGỮ HÁN VIỆT TRONG CHƯƠNG TRÌNH THCS Mục tiêu cần đạt: Về kiến thức: Phạm vi tồn tại từ Hán Việt trong nhà trường trung học cơ sở. Về kỹ năng: Đọc từ Hán Việt theo phiên thiết và phiên âm Hán Việt Về thái độ: Có thái độ đúng đắn với từ ngữ Hán Việt và lớp từ vay mượn, nói chung. . Phương pháp - Hỏi - đáp - Làm việc cá nhân - Làm việc nhóm - Làm việc tập thể Hoạt động dạy học Buổi 4
* Tài liệu phát tay 3. Từ ngữ Hán Việt trong chương trình Trung học cơ sở hiện hành 3.1. Nguyên tắc biên soạn chương trình - Kế thừa thành quả của các chương trình trước đây. - Cập nhật các kết quả nghiên cứu về tiếng Việt và từ Hán Việt, lược bỏ những nội dung phức tạp, những kiến thức nặng tính hàn lâm. - Đảm bảo tính tích hợp của chương trình. - Cố gắng mỗi lớp cung cấp và mở rộng 50 – 60 từ Hán Việt cho học sinh. 3.2. Vị trí và phạm vi Số lượng từ Hán Việt chiếm một tỷ lệ rất lớn trong vốn từ tiếng Việt. Trong chương trình Trung học cơ sở nó bàng bạc trong bộ sách giáo khoa Ngữ văn, tập trung nhất là ở các văn bản văn học dân gian và văn học trung đại. Nó chỉ được dạy riêng trong bài Từ mượn (lớp Sáu) và từ Hán Việt (lớp Bảy), còn lại chủ yếu học sinh học qua phần đọc – hiểu văn bản. Mục chú thích trong sách giáo khoa đã có cố gắng trong việc cung cấp nghĩa của từ Hán Việt trong các văn bản. Cuối tập 2 bộ sách Ngữ văn của mỗi khối lớp đều có Bảng tra yếu tố Hán Việt. Tuy không cung cấp dạng thức chữ viết – vì điều này không thuộc mục tiêu của bộ sách, nhưng bảng này được thiết kế rất chi tiết: các yếu tố được sắp xếp theo thứ tự abc, bài có chứa yếu tố đó, nghĩa của nó và cuối cùng là từ chứa yếu tố Hán Việt đó. 3.3. Những hạn chế của HS khi tiếp nhận và sử dụng từ Hán Việt 3.3.1. Về mặt khách quan Từ Hán Việt thuộc lớp từ mượn và trải qua thời gian tồn tại lâu dài trong lời ăn tiếng nói của dân tộc, có những biến đổi nhất định về âm, nghĩa và cả cách cấu tạo. Điều này ít nhiều gây khó khăn cho việc nhận diện, phân biệt âm – nghĩa của một từ Hán Việt cụ thể, từ đó dẫn đến những hạn chế nhất định trong sử dụng khi nói và viết. Giáo viên chưa hướng dẫn học sinh đúng mức khi tiếp xúc với bảng tra các yếu tố Hán Việt nằm ở phụ lục cuối các tập 2 của bộ sách giáo khoa. Khi sử dụng bộ sách, các em thường bỏ qua bảng phụ lục này. 3.3.2. Về mặt chủ quan Phần đông học sinh Trung học cơ sở không nắm được chính xác nghĩa của các từ Hán Việt, nhất là những từ có chứa các yếu tố đồng âm khác nghĩa, các yếu tố nằm trong các thành ngữ điển tích. Hầu hết học sinh chưa có ý thức đầy đủ khi tiếp xúc với các từ Hán Việt trong phần Chú thích của bộ sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở, các em chỉ dừng lại ở chỗ xem đó là “những từ khó” một cách chung chung chứ chưa nhận ra đó là từ Hán Việt. Đa số học sinh Trung học cơ sở chưa có thói quen dùng từ điển để tìm nghĩa của từ, thường các em chỉ dừng lại ở chỗ cung cấp nghĩa của từ từ giáo viên. 3.4. Phiên thiết Hán Việt và phiên âm Hán Việt 3.4.1. Vấn đề phát âm của chữ Hán Chữ Hán là một loại chữ biểu ý, nên không thể nhìn vào mặt chữ mà đọc được. Do đó trong tự điển tiếng Hán người ta phải ghi chú cách đọc. Bản thân chữ Hán được phát âm khác nhau, ngay tại Trung Quốc, tuỳ từng vùng mà có nhiều giọng/âm đọc khác nhau, như tiếng Quảng Đông, tiếng Phúc Kiến, tiếng Triều Châu, tiếng Bắc Kinh... Các nước lân cận như Triều Tiên có cách đọc riêng của người Triều Tiên, gọi là Hán-Triều ; người Nhật có cách đọc riêng của người Nhật, gọi là Hán-Hoà; người Việt có cách đọc của mình gọi là Hán-Việt. Trong các tự điển Hán-Việt, bên cạnh ghi chú bính âm do người Trung Quốc đặt ra để đọc âm của họ, còn có ghi chú âm tiếng Việt dành riêng cho người Việt. Tức là âm tiếng Quan thoại chuẩn (nay gọi là "phổ thông thoại", tức tiếng Hán phổ thông dựa trên phương ngữ Bắc Kinh) được phiên sang âm tiếng Việt. Ví dụ chữ 北京 đọc theo âm Quan thoại là Pẩy Chinh, chú âm theo bính âm (pinyin) là Běijīng, còn người Việt đọc là Bắc Kinh. 3.4.2. Phiên thiết Hán Việt 3.4.2.1. Tình hình Chữ Hán là một loại chữ biểu ý, không phải là loại chữ biểu âm nên không thể nhìn vào mặt chữ mà đọc được. Thế thì người Trung Quốc dùng cách nào để đọc được thứ chữ ấy? Từ thời nhà Đông Hán (25 - 225) trở về trước, người Trung Quốc đã có lối chú âm bằng cách dùng chữ đồng âm, gọi là trực âm. Trực âm là lối dùng chữ đồng âm để trực tiếp chú âm một chữ khác hay dùng những chữ có âm gần giống, gọi là độc nhược, độc như hay độc vi. Nhưng lối trực âm không có chữ đồng âm thì không chú âm được, còn lối độc nhược, độc như, hay độc vi thì có khuyết điểm là chú âm không chính xác. Vì thế, thời Đông Hán đã có phép phiên thiết. 3.4.2.2. Phiên thiết là gì? Phương pháp phiên thiết được định nghĩa như sau trong những bộ từ điển, những tác phẩm ngữ học xưa và nay như sau: - Sách Lễ bộ vận lược của Đinh Độ đời nhà Tống giải thích: Âm và vận tuần tự hợp nhau gọi là Phiên. Hai chữ mài cọ nhau để thành âm đọc gọi là thiết. - Quyển Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển giải thích: Lấy hai âm mài cọ với nhau thành một âm nên gọi là phiên thiết, cũng gọi là thiết vận. - Sách Văn tự học toản yếu định nghĩa: Lấy hai âm mài cọ với nhau thành một âm, ấy gọi là phiên thiết. - Từ Nguyên định nghĩa: Lấy hai âm của hai chữ mài cọ với nhau tạo thành một âm: chữ trên là song thanh chữ dưới là điệp vận. - Từ Hải định nghĩa: Phương pháp lấy âm của hai chữ mài cọ thành âm của một chữ. - Từ Vị của Lục Sư Thành định nghĩa: Dùng hai chữ nếu chú âm một chữ. Lấy thanh (phụ âm đầu) và vận (vần) của chữ dưới mài cọ thành một âm. - Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh định nghĩa: Đem hai tiếng nói lái lại với nhau thành một tiếng khác. Ví dụ: Ha với Cam thành Ham. - Sách Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt của Nguyễn Tài Cẩn (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1979), trang 109 viết: Phiên thiết – nếu nói một cách nôm na – thì có thể định nghĩa là cách dùng hai chữ nói lái lại, để tìm ra cách đọc của chữ thứ ba. Ví dụ: đông = đô tông thiết. Rõ ràng là dùng hai chữ Đô và chữ Tông nói lái lại, thì sẽ tìm ra được cách đọc của Đông. Bởi vì Đông bao gồm phụ âm Đ của chữ Đô cộng với vần Ông của chữ Tông: Đông = Đ(ô) + (T)ông. - Sách Nghiên cứu về chữ Nôm của Lê Văn Quán (NXB Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1981), phần cuối chú trang 25 viết: Phiên thiết là dùng hai chữ Hán ghép lại để ghi âm đọc của một chữ. Ví dụ: 同 = 德紅切 – Đức hồng thiết = Đồng. Chữ trên đại biểu cho thanh mẫu, chữ dưới đại biểu cho vần (vận mẫu) và thanh điệu. Vậy: Phiên thiết Hán-Việt là dùng cách phiên thiết, tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán-Việt của một chữ Hán mà người đọc chưa biết cách đọc. Phiên thiết là một phương pháp ghi chú cách đọc của người Trung Quốc, dùng trong các tự điển chữ Hán, trước khi có phương pháp dùng chữ cái Latinh để ghi chú cách đọc (gọi là bính âm). Người Việt Nam áp dụng phép phiên thiết ấy cho các âm Hán-Việt tương ứng, gọi là phiên thiết Hán-Việt. Ví dụ: không biết cách đọc chữ 同, tra từ điển sẽ có phiên thiết 德 紅 切 (âm Hán-Việt là đức hồng thiết). Như vậy chữ 同 sẽ đọc là đồng, vì đồng = đức + hồng, theo quy tắc lấy phụ âm đầu (thanh mẫu) của chữ thứ nhất ghép với vần (vận mẫu) của chữ thứ hai. 3.4.2.3. Một chữ có thể có nhiều cách phiên thiết Phiên thiết Hán Việt có thể giúp định âm Hán Việt của một số từ Hán chưa có âm tương đương trong các tự điển Hán-Việt của tiếng Việt. Tuy vậy, phiên thiết trong tiếng Hán cũng khá phức tạp, vì là âm đọc trong một giai đoạn lịch sử và của một vùng lãnh thổ trong tiến trình ngữ âm của Hán ngữ, tạo nên một hệ thống thiết vận không ổn định nên có thể góp phần làm phức tạp việc định âm Hán-Việt cho các từ Hán. Do đó, có thể tồn tại các kiểu phiên thiết khác nhau. 阿 = 於何切 — Ư hà thiết = A 阿 = 厄何切 — Ách hà thiết = A 烏 = 哀都切 — Ai đô thiết = Ô 烏 = 汪胡切 — Uông hồ thiết = Ô 嫣 = 衣旜切 — Y chiên thiết = Yên 嫣 = 於虔切 — Ư kiền thiết = Yên 3.4.3. Phiên âm Hán Việt Phiên âm Hán-Việt là cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt. Một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam coi âm Hán-Việt chỉ là âm chữ Hán vào thời nhà Đường, đọc theo quy luật ngữ âm tiếng Việt. Do quá trình tiếp xúc giữa hai ngôn ngữ Hán và Việt bắt đầu từ lâu, và tiếng Hán đã được du nhập vào Việt Nam từ khi nhà Hán xâm chiếm Việt Nam. Tuy nhiên quá trình tiếp nhận các từ ngữ tiếng Hán giai đoạn đầu chỉ diễn ra một cách lẻ tẻ, không hệ thống và chủ yếu bằng đường khẩu ngữ. Đến giai đoạn nhà Đường thì tiếng Hán được du nhập một cách có hệ thống, với số lượng lớn và chủ yếu thông qua con đường sách vở. Theo quan điểm này thì phiên âm Hán-Việt là cách thức đọc tiếng Hán theo âm tiếng Hán thời nhà Đường qua đường sách vở, được những người Việt sử dụng chữ Hán đặt ra, Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt vào thời kỳ đó. Cũng theo quan điểm này, những từ Hán được du nhập từ giai đoạn trước hay các từ Hán cổ không được đọc theo âm Hán-Việt (đời Đường) mà theo âm Hán cổ, và đã được Việt hóa tương đối. Ví dụ: 房 : buồng (âm Hán cổ)/ phòng (âm Hán-Việt); 沈 : chìm (âm Hán cổ)/ trầm (âm Hán-Việt) .... Một số từ Hán-Việt sau khi được du nhập vào tiếng Việt đã chiu sự tác động của quy luật biến đổi ngữ âm của tiếng Việt, do vậy có một số từ đã bị thay đổi diện mạo so với dạng ngữ âm Hán-Việt ban đầu. Ví dụ: 印 : ấn (Hán-Việt)/ in (Hán-Việt Việt hóa); 種 : chủng (Hán-Việt)/ giống (Hán-Việt Việt hóa), 正 : chính, chinh (Hán-Việt)/ giêng (Hán-Việt Việt hóa) ... Cách đọc Hán Việt gắn liền với việc sử dụng văn tự: ban đầu là văn tự Hán, sau là chữ Hán và chữ Nôm và cuối cùng là ghi bằng chữ quốc ngữ. Không phải bao giờ phiên âm Hán-Việt cũng trùng với phiên thiết Hán-Việt, nghĩa là âm Hán-Việt không đọc theo phiên thiết Hán-Việt, vì phiên thiết của người Trung Hoa dùng cho người Trung Hoa chứ không phải dùng cho người Việt. 3.4.4. Một số thí dụ minh họa 亭 = 題形切 — Đề hình thiết = Đình 凡 = 符咸切 — Phù hàm thiết = Phàm 云 = 于分切 — Vu phân thiết = Vân 餒 = 弩磊切 — Nỗ lỗi thiết = Nỗi 仰 = 語兩切 — Ngữ lưỡng thiết = Ngưỡng 旦 = 得案切 — Đắc án thiết = Đán 漢 = 黑按切 — Hắc án thiết = Hán 痹 = 必至切 — Tất chí thiết = Tí 悢 = 力讓切 — Lực nhượng thiết = Lượng 耐 = 諾礙切 — Nặc ngại thiết = Nại 仗 = 直亮切 — Trực lượng thiết = Trượng 答 = 得案切 — Đức tháp thiết = Đáp 悉 = 息七切 — Tức thất thiết = Tất 責 = 側革切 — Trắc cách thiết = Trách 息 = 必即切 — Tất tức thiết = Tức 沓 = 惰拉切 — Đọa lạp thiết = Đạp 碣 = 巨列切 — Cụ liệt thiết = Kiệt 脈 = 墓獲切 — Mộ hoạch thiết = Mạch 堆 = 都回切 — Đô hồi thiết = Đôi 嘑 = 忽烏切 — Hốt ô thiết = Hô 乖 = 古懷切 — Cổ hoài thiết = Quai 亭 = 特丁切 — Đặc đinh thiết = Đình 斜 = 昨何切 — Tạc hà thiết = Tà 嫶 = 齊遙切 — Tề diêu thiết = Tiều 枸 = 居羽切 — Cư vũ thiết = Củ 姫 = 止忍切 — Chỉ nhẫn thiết = Chẩn 愀 = 七小切 — Thất tiểu thiết = Thiểu 抱 = 簿老切 — Bộ lão thiết = Bão 語 = 偶舉切 — Ngẫu cử thiết = Ngữ 痔 = 丈几切 — Trượng kỉ thiết = Trĩ 戽 = 虎誤切 — Hổ ngộ thiết = Hố 蒯 = 苦怪切 — Khổ quái thiết = Khoái 嗽 = 四候切 — Tứ hậu thiết = Tấu 槥 = 胡桂切 — Hồ quế thiết = Huệ 賂 = 洛故切 — Lạc cố thiết = Lộ 割 = 居曷切 — Cư hạt thiết = Cát 察 = 初八切 — Sơ bát thiết = Sát 咯 = 可赫切 — Khả hách thiết = Khách 各 = 古洛切 — Cổ lạc thiết = Các 仡 = 義乞切 — Nghĩa khất thiết = Ngật 宅 = 直格切 — Trực cách thiết = Trạch 寂 = 前歷切 — Tiền lịch thiết = Tịch / Chia sẻ với bạn bè của bạn:
Page 6
*Tài liệu phát tay 4. Cung cấp và mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt cho HS Trung học cơ sở 4.1. Mục đích và đối tượng Mục đích của việc giảng dạy từ ngữ Hán Việt ở Trung học học cơ sở là cung cấp cho học sinh một vốn kiến thức bước đầu về từ ngữ Hán Việt và mở rộng vốn yếu tố, vốn từ ngữ Hán Việt. Nói “mở rộng” là vì đến độ tuổi này, ở cấp học này học sinh đã có một vốn yếu tố, vốn từ ngữ Hán Việt nhất định; chỉ có điều là học sinh chưa hoặc không ý thức được đó là những yếu tố, những từ ngữ Hán Việt. Điều cần thiết đối với người soạn sách giáo khoa và người trực tiếp giảng dạy là phải nắm được các yếu tố, các từ ngữ Hán Việt mà học sinh đã tích lũy được. Công việc điều tra, khảo sát, thống kê về mặt này sẽ giúp ích rất nhiều cho việc giảng dạy từ ngữ Hán Việt ở Trung học cơ sở. Có thể nhận định một cách khái quát về mức độ khó dễ của các lớp yếu tố và từ ngữ Hán Việt như sau: 4.1.1. Các yếu tố được sử dụng với tư cách độc lập là từ dễ hiểu hơn các yếu tố không được sử dụng đôc lập mà chỉ làm yếu tố cấu tạo từ. Các yếu tố: hoa, quả, đông, tây, nam, bắc, bút, lợi, hại, thắng, bại…. rất quen thuộc và dễ hiểu đối với học sinh. Còn các yếu tố như: thiên, địa, nhân, sơn, hải, tiếu, khán, thính… thì phải học mới hiểu. 4.1.2. Trong các yếu tố không được dùng độc lập thì các yếu tố có sức sản sinh cao (tức là được sử dụng để cấu tạo nên rất nhiều từ ngữ khác nhau) thì dễ hiểu hơn các yếu tố có sức sản sinh thấp chỉ có mặt trong vài từ. Chẳng hạn: Nhai (bờ nước) chỉ xuất hiện một lần trong “sinh nhai”, Di (vui vẻ) chỉ xuất hiện trong “di dưỡng”, Cước (chân) xuất hiện trong “sơn cước”, “cước chú”, “cước phí”, “cước vận”, “cước lực”… đều là những yếu tố khó hiểu hơn sơn, hải, thiên, địa. 4.1.3. Những từ ngữ Hán Việt biểu thị những sự vật, hoạt động, tính chất gần gũi với cuộc sống học sinh, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh thì các em dễ hiểu hơn các lớp từ khác. Chẳng hạn: nhật, nguyệt, tiền, hậu, … giang sơn, ái quốc, trung nghĩa... Trong tiếng Việt có khoảng ba ngàn yếu tố Hán Việt, mỗi yếu tố lại có khả năng có nhiều nghĩa khác nhau, do đó ở Trung học cơ sở học sinh không thể học hết được tất cả. Còn từ ngữ Hán Việt thì có một số lượng rất lớn. Bộ môn Ngữ văn chỉ có thể giúp học sinh tăng thêm vốn từ ngữ Hán Việt ở một mức độ nhất định, còn lại học sinh sẽ học tập thêm từ ngữ Hán Việt ở những môn học khác. 4.2. Phương pháp giảng dạy từ ngữ Hán Việt trong trường THCS Trong sách giáo khoa hiện hành, các từ ngữ Hán Việt được dạy theo nhóm cùng trường nghĩa: các yếu tố chỉ màu sắc, các yếu tố chỉ số lượng, các yếu tố chỉ bộ phận cơ thể… Cách làm này có cái lợi là giúp học sinh nắm các yếu tố một cách có hệ thống, dễ ghi nhớ và cũng dễ tái hiện khi sử dụng. Tuy nhiên cách làm này cũng có chỗ yếu là: không trình bày được một lúc các nghĩa khác nhau của một yếu tố. Trong sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở, việc học từ ngữ Hán Việt chỉ có 2 tiết ở lớp 7, còn lại được thực hiện chủ yếu ở phần Đọc – hiểu văn bản. Một yếu tố/từ Hán Việt có thể có nhiều nghĩa, khi dạy cần cung các nghĩa cần yếu phù hợp với trình độ học sinh. Đồng thời, khi trình bày nghĩa của một yếu tố/từ nên theo hướng trình bày nghĩa gốc trước rồi trình bày các nghĩa phái sinh sau. Chẳng hạn nghĩa gốc của “trọng” là “nặng” (trong các từ: trọng lượng, trọng tải), nghĩa “quan trọng” của “trọng” gắn liền với nghĩa “đề cao, tôn quý” (trong các từ: tôn trọng, kính trọng). 4.2.1. Trình tự giảng dạy Có thể thao hai cách sau: Cách 1: Nêu nghĩa của yếu tố/từ rồi đưa ra một số từ ngữ có chứa yếu tố/từ với nghĩa đó. Thí dụ: - “Hương” 香 có nghĩa là “thơm” trong các từ: hương liệu, hương vị, dạ hương, hữu xạ tự nhiên hương… - “Hữu” có nghĩa là “bè bạn” trong các từ: bạn hữu, chiến hữu,… - “Nghênh” có nghĩa là “đón” trong các từ: hoan nghênh, nghênh chiến, tống cựu nghênh tân… Cách 2: Giáo viên nêu ra một nhóm từ ngữ có chứa yếu tố cần dạy, rồi gợi ý cho học sinh từ nghĩa của các từ ngữ đó suy ra nghĩa của yếu tố cần dạy. Thí dụ: - Nêu ra các từ: hải cảng, hải cẩu, hải đảo, hải đăng, hải quân, hải tặc, duyên hải, hàng hải… để học sinh có thể nhận ra nghĩa của “hải” là “biển”. - Nêu ra các từ: chiến thắng, chiến đấu, chiến trường, chiến sĩ, đình chiến, không chiến, nội chiến…. học sinh có thể nhận ra nghĩa của “chiến” là “đánh nhau” …. Cách thứ hai này có thể phát huy được tính tích cực của học sinh, làm cho giờ học thêm sinh động nhưng khó áp dụng khi giải nghĩa các yếu tố/từ khó. *Lưu ý: Khi dạy học yếu tố Hán Việt thường có sự liên hệ nghĩa của yếu tố với nghĩa của từ có chứa yếu tố đó, cũng như khi dạy học từ ngữ Hán Việt thường có sự liên hệ với nghĩa của các yếu tố cấu tạo nên chúng. Nhưng mối liên hệ giữa nghĩa của yếu tố với nghĩa của từ ngữ không phải bao giờ cũng đơn giản. - Có trường hợp từ nghĩa của các yếu tố có thể suy ra nghĩa của từ ngữ không đến nỗi khó khăn. Chẳng hạn: biết được nghĩa của “hải” là “biển” và “đăng” là “đèn”, học sinh có thể suy ra nghĩa của “hải đăng” là “ngọn đèn biển”; cũng như vậy, hiểu được nghĩa của “hảo” và “tâm” học sinh có thể suy ra nghĩa của từ “hảo tâm”, hiểu được nghĩa của các yếu tố “độc”, “nhất”, “vô”, “nhị” thì các em có thể suy ra nghĩa của thành ngữ “độc nhất vô nhị”… - Có nhiều trường hợp hiểu nghĩa của các yếu tố mà không dễ dàng suy ra nghĩa của từ ngữ. Chẳng hạn, biết được nghĩa của “mẫu” là “mẹ”, “tử” là “con” mà không thể hiểu thế nào là “mẫu số”, “tử số” nếu chưa học toàn đến phần phân số. Cũng vậy, có thể hiểu “độc” là “một mình”, “lập” là đúng mà vẫn không hiểu được nghĩa của từ “độc lập” với nghĩa chính trị của nó (nước độc lập)… Sở dĩ như vậy là vì nghĩa của từ ngữ không phải là một phép cộng đơn giản của các yếu tố cấu tạo nên nó. - Có trường hợp hiểu rõ nghĩa của từ ngữ mà không biết nghĩa của từng yếu tố tham gia cấu tạo từ đó. Chẳng hạn, học sinh hoàn toàn có thể hiểu được nghĩa của từ “hy sinh” mà không hề biết “hy” và “sinh” là gì; tương tự, các em có thể hiểu được thế nào là “gia đình” nhưng “đình” ở đây có nghĩa là gì thì học sinh không trả lời được. 4.2.2. Vài định hướng cho việc dạy - học từ ngữ Hán Việt ở THCS - Mục tiêu cuối cùng là làm cho học sinh hiểu nghĩa và cách dùng từ ngữ và mở rộng vốn từ ngữ Hán Việt. - Việc hiểu nghĩa của yếu tố Hán Việt có tác dụng làm cho học sinh từ một số lượng hạn chế các yếu tố có thể suy luận ra nghĩa của một khối lượng tương đối lớn các từ ngữ Hán Việt. Vì vậy việc dạy – học yếu tố/từ Hán Việt là cần thiết. - Việc liên hệ nghĩa của yếu tố với nghĩa của từ ngữ chỉ có thể thực hiện trong một phạm vi nhất định. Quá chú ý đến vấn đề này sẽ là quá sức đối với học sinh. 4.2.3. Phương pháp giải nghĩa từ Hán Việt Mỗi yếu tố Hán Việt tuy đều viết ra được bằng một chữ Hán, có ý nghĩa nhưng vai trò, khả năng hoạt động của nó trong tiếng Việt lại khác nhau, do vậy mà có nhiều cách giải nghĩa khác nhau. Đối với những từ đơn tiết Việt hóa cao được sử dụng như các từ thuần Việt đã trở nên quen thuộc thì không cần giải nghĩa học sinh cũng có thể hiểu được. Nhưng đối với các từ đa tiết thì nhất thiết phải giải nghĩa của từng yếu tố. Vì phần lớn các yếu tố trong từ đều có nghĩa nhưng không có khả năng hoạt động tự do trong tiếng Việt, nên việc hiểu nghĩa của từ ít nhiều phụ thuộc vào việc hiểu nghĩa của từng yếu tố trong từ. 4.2.3.1. Phương pháp “chiết tự” “Chiết tự” trong giải nghĩa từ Hán Việt tức là thuyết minh nghĩa của từng yếu tố cấu tạo và quan hệ giữa chúng. Phương pháp này thường được dùng khi giải nghĩa từ đa tiết. * Giải nghĩa từ ghép đẳng lập Các yếu tố trong từ ghép Hán Việt theo kiểu đẳng lập có vai trò ngữ pháp ngang nhau, nghĩa của chúng cùng chỉ một phạm trù, nằm trong một trường nghĩa, có quan hệ đồng nghĩa, gần nghĩa liên quan với nhau, hoặc trái nghĩa nhau. Ví vậy mà nghĩa của chúng hợp lại tạo cho từ có nghĩa khái quát, chứ không phải là phép cộng đơn giản từ nghĩa của các yếu tố. Đó là nghĩa đã được cấu trúc hóa, khía quát hóa, có thể theo hướng biểu trưng. Quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố có thể nảy sinh nét nghĩa bổ sung nằm ngoài nghĩa của các yếu tố. Thí dụ: - giang = sông, sơn = núi => giang sơn = sông núi, đất nước - thảo = cỏ, mộc = cây => thảo mộc = cỏ cây nói chung - vĩ = to lớn, đại = to, lớn => vĩ đại = rất lớn lao, cao cả - ấu = trẻ con, non, trĩ = non nớt => ấu trĩ = non nớt - lai = đến, vãng = đi qua => lai vãng = qua lại - sinh = sống, tử = chết => sinh tử = sự sống và chết… * Giải nghĩa từ ghép chính phụ + Đối với những từ có yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau: Trước hết phải giải nghĩa từng yếu tố như giải nghĩa từ ghép đẳng lập. Nhưng khi ghép lại thành nghĩa chung thì phải bắt đầu bằng nghĩa của yếu tố đứng sau (yếu tố chính). Thí dụ: - Quốc kỳ: quốc = nước, kỳ = cờ => quốc kỳ = cờ nước - Thiên tử: thiên = trời, tử = con = > thiên tử = con trời (vua) - Nhân tâm: nhân = người, tâm = lòng = nhân tâm = lòng người - Nhãn tiền: nhãn = mắt, tiền = trước => nhãn tiền = trước mắt…. Tương tự như vậy ta có thể giải thích gộp thành một bước nhưng phải đảm bảo đúng trật tự từ: hải cảng = cảng biển, mỹ nhân = người (đàn bà) đẹp, mỹ cảm = cảm thụ về cái đẹp, nguyên hình = hình thể vốn có, quốc văn = văn học của nước (mình), quốc huy = huy hiệu tượng trưng của một nước, khổ chiến = chiến đấu gian khổ, lạm dụng = sử dụng quá mức, lạm thu = thu quá mức,… + Đối với những từ có yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau thì khi trình bày nghĩa lại bắt đầu bằng yếu tố đứng trước (yếu tố chính). Thí dụ: - Đại diện: đại = thay, diện = mặt => đại diện = thay mặt - Lưu ban: lưu =ở lại, giữ lại, ban = lớp => lưu ban = ở lại lớp…. Tương tự ta cũng có thể giải thích gộp thành một bước: lưu danh = để lại tiếng (thơm), lưu niệm = để lại làm kỷ niệm, phóng đại = làm to ra, phóng sinh = thả (loài vật) ra cho sống, phóng to = truyền to tiếng nói, mãn hạn = đủ hạn, mãn khóa = hết khóa học, thuyết minh = nói cho rõ, thuyết lý = giảng giải lý lẽ, thuyết phục = nói cho người ta tin theo, trợ lực = tăng thêm sức, bất hiếu = không có hiếu, bất hòa = không hòa thuận, hữu hạn = có giới hạn nhất định, hữu dụng = có ích, … 4.2.3.2. Phương pháp dựa vào văn cảnh, ngữ cảnh Trong từ Hán Việt có sự kết hợp ngữ nghĩa giữa các yếu tố mang tính vỏ đoán hoặc theo thói quen nào đó. Thí dụ tứ “phu nhân” nếu giải thích theo kiểu chiết tự: phu = chồng, nhân = người thì “phu nhân” sẽ là “người chồng” chứ không phải là “vợ của người có địa vị đáng kính trọng”; tương tự, từ “gia nhân” nếu giải thích theo lồi chiết tự thì sẽ có nghĩa là “người nhà” chứ không phải là “người ở giúp việc trong nhà – đầy tớ). Ngoài ra, hiện tượng đồng âm, hiện tượng đa nghĩa trong các yếu tố cấu tạo từ cũng là một khó khăn trong việc nhận diện và giải thích nghĩa của từ. Để khắc phục khó khăn trên, ta có thể dùng phương pháp đặt từ trong ngữ cảnh cụ thể. Thí dụ: “án” là một yếu tố đa nghĩa nhưng qua các câu thơ khác nhau trong Truyện Kiều, “án” có các nghĩa cụ thể như sau: (1) Sinh vừa tựa án thiu thiu Nửa chiều như tỉnh, nửa chiều như mê. (2) Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây. “án” trong (1) có nghĩa là “cái bàn”, trong (2) là “vụ phạm pháp, việc kiện tụng” Tương tự, xem yếu tố “bạc”: (3) Dù em nên vợ nên chồng Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. (4) Đã cam chịu bạc với tình Tuổi xuân để tội một mình cho hoa. (5) Rành vâng diện kiến rành rành Chuông vàng khánh bạc bên mình dở ra. (6) Cách năm mây bạc xa xa Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn. “bạc” trong (3) có nghĩa “mỏng manh”, trong (4) mang nghĩa “nhạt nhẽo, bạc tình”, trong (5) là “một thứ kim loại” – từ thuần Việt, trong (6) là “sắc trắng”. 4.2.3.3. Phương pháp đối chiếu với từ thuần Việt đồng nghĩa Đây là cách dùng từ đã quen thuộc, dễ hiểu để giải thích cho từ không quen thuộc, khó hiểu. Tuy nhiên, khi đối chiếu từ Hán Việt với từ thuần Việt đồng nghĩa cần chú ý: - Những từ tương đồng về nghĩa ở mức độ cao thì chỉ cần dẫn ra từ thuần Việt tương ứng là học sinh có thể nắm được nghĩa của từ Hán Việt cần giải nghĩa. Thí dụ: phi cơ = máy bay, phi trường = sân bay, hải phận = vùng biển, hỏa tiễn = tên lửa, giang sơn = sông núi, huynh đệ = anh em, bằng hữu = bạn bè,… Đối với thành ngữ cũng vậy. Trong tiếng Việt có một số thành ngữ thuần Việt tương đồng về nghĩa với thành ngữ Hán Việt. Thí dụ: bách chiến bách thắng = trăm trận trăm thằng, bán tín bán nghi = nửa tin nửa ngờ, bất cộng đái thiên = không đội chung trời, cao lương mỹ vị = của ngon vật lạ, dĩ độc trị độc = lấy độc trị độc, độc nhất vô nhị = có một không hai, kim chi ngọc diệp = cành vàng lá ngọc, … - Những tử vừa tương đồng vừa phân biệt nhau về nghĩa, về sắc thái nghĩa thì ngoài cách đối chiếu với từ thuần Việt, ta cần chỉ ra nghĩa hoặc nét nghĩa khác nhau giữa chúng. Đó chính là những từ Hán Việt đồng nghĩa với từ thuần Việt nhưng nghĩa của chúng không đồng nhất với nhau. Thí dụ: vĩ đại là to lớn, nhưng vĩ đại không chỉ là to và lớn mà còn có sắc thái nghĩa về tầm vóc, tầm cỡ và giá trị lớn lao, đáng khâm phục; hạnh phúc là sung sướng, nhưng hạnh phúc thiên về giá trị tinh thần, cái đã phấn đấu đạt được theo ý nguyện, theo lý tưởng, còn sung sướng thì nghiêng về trạng thái vui vẻ, thích thú, cảm thấy thỏa mãn về vật chất; kiến thiết là xây dựng, nhưng kiến thiết có nghĩa hẹp hơn xây dựng: ngoài nghĩa chung là “tạo ra, làm nên công trình quy mô, công phu, đòi hỏi kỹ thuật”, xây dựng còn nói tới “việc tạo ra những cái trừu tượng và cụ thể về đời sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm, phong trào, tổ chức… Thí dụ: Đảng đoàn kết và lãnh đạo nhân dân ta thi đua kiến thiết chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống vui tươi no ấm. (Hồ Chí Minh) - Những từ tương đồng về nghĩa nhưng khác nhau về sắc thái biểu cảm và phong cách thì cần chỉ ra sắc thái biểu cảm và phong cách đối lập (tao nhã, trang trọng, cổ kính) của từ Hán Việt. Thí dụ: lệ, nguyệt tao nhã hơn nước mắt, trăng; phu nhân, phụ nữ, nam giới, thiếu niên, phụ lão thì trang trọng hơn vợ, đàn bà, đàn ông, trẻ con, người già, … * Giải nghĩa thành ngữ + Đối với các thành ngữ mà nghĩa của nó được suy ra trực tiếp từ các yếu tố tạo nên nó, về cơ bản, muốn giải nghĩa thì cũng phải bắt đầu từ việc hiểu, giải thích các yếu tố tạo thành. Thí dụ: hữu (có) sắc (màu sắc) vô (không) hương (thơm) = có màu sắc đẹp mà không có hương thơm; hữu (có) sinh (đẻ ra) vô (không) dưỡng (nuôi nấng) = có sinh đẻ mà không nuôi được,… + Đối với các thành ngữ được dùng với nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng thì nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng đó bao giờ cũng được tạo ra từ nghĩa đen. Thí dụ: Hữu (có) xạ (chất thơm lấy từ bìu con vật có xạ, thường là con chồn mướp) tự (mình, tự mình) nhiên (như vậy) hương (thơm), có nghĩa đen là: có chất thơm thì tự nhiên thơm; nghĩa bóng là: có tài thì tự nhiên được biết đến. Đồng (cùng) sàng (giường) dị (khác) mộng (nằm mơ, chiêm bao), có nghĩa đen là: ngủ cùng chung một giường mà có chiêm bao khác nhau, nghĩa bóng là: gần gũi nhau mà suy nghĩ, chí hướng khác nhau…. + Đối với các thành ngữ được hình thành trên cơ sở những câu chuyện: Muốn biết được nghĩa của nó thì phải biết câu chuyện có liên quan. Thí dụ: Tọa (ngồi) sơn (núi) quan (xem) hổ (con hổ, cọp) đấu (đánh nhau) có nghĩa đen là: “Ngồi trên núi xem cọp đánh nhau.” Thành ngữ này có nguồn gốc từ một chuyện ở Chiến Quốc sách: Có hai con hổ tranh nhau vồ người nên đánh nhau. Quản Trang định đâm hổ nhưng Quản Dữ ngăn lại: “Hổ là con vật ác, người là miếng mồi ngon. Bây giờ hai con đang tranh vì miếng mồi, con yếu nhất định chết, con mạnh nhất định sẽ bị thương. Anh hãy đợi một chút nữa rồi hãy đâm. Như vậy một lần ra tay mà đâm được hai hổ.”. Từ câu chuyện trên, thành ngữ này có nghĩa mở rộng: “mưu sâu, chờ hai phe đánh nhau đến kiệt sức rồi nhảy vào can thiệp để đánh thắng cả hai.” 4.3. Mở rộng vốn yếu tố Hán Việt Ở đây chúng tôi tuyển chọn một số yếu tố Hán Việt không được dùng với cương vị từ, có chú ý đến những nghĩa chuyển khó hiểu và chú ý nhiều đến các yếu tố Hán Việt đồng âm. Tuy nhiên, do sự phát triển của từ, có một số yếu tố cũng không thể dẫn ra hết các nghĩa, cũng như không dẫn ra hết những từ đồng âm.
Chia sẻ với bạn bè của bạn:
Page 74.4. Mở rộng vốn thành ngữ, tục ngữ Hán Việt4.4.1. Mở rộng vốn thành ngữ An cư lạc nghiệp: (An: yên, cư: ở, lạc: vui, nghiệp: nghề): sinh sống yên ổn, làm ăn vui vẻ. Bạch diện thư sinh: (Bạch:trắng, diện: mặt, thư sinh: học trò): chỉ người học trò còn non trẻ, ít kinh nghiệm. Bán thân bất toại: (Bán: nửa, thân: người, bất: không, toại: theo ý muốn): Bị liệt nửa người. Bạo hổ bằng hà: (Bạo hổ: bắt hổ bằng tay không, bằng hà: qua sông không có thuyền): táo tợn dám làm những việc nguy hiểm. Bế quan tỏa cảng: (Bế: đóng, quan: cửa ải ở biên giới, tỏa: đóng cửa, cảng: bến tàu thủy thông thương với nước ngoài): không giao lưu với bên ngoài. Cao đàm khoát luận: (đàm: nói chuyện, khoát: rộng): bàn luận những vấn đề cao siêu, rộng lớn, ít gắn bó với thực tế (hàm ý chê). Cao lương mỹ vị: (Cao: béo, lương: lương thực, mỹ vị: mùi vị thơm ngon): các món ăn ngon, quý, sang trọng. Cầu toàn trách bị: (Cầu: mong muốn, toàn: hoàn toàn, trách: đòi hỏi, bị: đầy đủ): yêu cầu cao, khắt khe, tuyệt đối; đòi hỏi phải đạt đến mức hoàn thiện, đầy đủ, trọn vẹn tất cả mọi mặt. Chúng khẩu đồng từ: (Chúng: nhiều, số đông, khẩu: miệng, đồng: cùng, từ: lời): ý kiến, lời lẽ mọi người nói ra đều thống nhất, thường là chính xác, khó chối cãi. Danh bất hư truyền: (Danh: tiếng tăm, bất: không, hư: không thực, truyền: truyền): tiếng tăm, danh tiếng truyền đi không sai với sự thực. Danh gia vọng tộc: (Danh: tiếng tăm, gia: nhà, vọng: có tiếng tăm, tộc: họ): gia đình, gia tộc có danh tiếng. Đa đa ích thiện: (Đa: nhiều, ích: càng thêm, thiện: tốt): Càng nhiều càng tốt. Đái tội lập công: (đái: đội, đeo): lập công chuộc tội. Điệu hổ ly sơn: (Điệu: điều, hổ: cọp, ly: rời khỏi, sơn: núi): tách kẻ mạnh ra khỏi hoàn cảnh có lợi để dễ bề chinh phục hoặc tiêu diệt, ví như đưa cọp ra khỏi nơi có nhiều lợi thế với cọp để vây bắt hoặc bắn giết). Đồng bệnh tương liên: (tương: nhau, lẫn nhau, liên/lân: thương): cung chung cảnh ngộ nên đồng tình, thông cảm, thương nhau. Hạc lập kê quần: (Hạc: chim hạc, lập: đứng, kê: gà, quần: số đông): người tài giỏi phải chung đụng với kẻ dốt nát, ví như con hạc đứng giữa bầy gà. Hồng diệp xích thằng: (Hồng: đỏ, diệp: lá, xích: đỏ, thằng: dây): lá thì màu hồng dây thì màu đỏ hay lá thắm chỉ hồng. Thành ngữ này dựa trên 2 câu chuyện: Vu Hựu đời Đường kết hôn với người cung nữ mà trước đây chàng đã từng đề thơ của mình vòa chiếc lá thắm thà trôi theo dòng nước gửi vào cung cấm; Vi Cô - cũng đời Đường - kết duyên với người con gái mà trước đây chàng đã từng thuê người giết vì muốn chống lại duyên phận. Không tiền khoáng hậu: (Không: trống, trống rỗng, tiền: trước, khoáng: trống, không có, hậu: sau): trước đây và sau này không bao giờ có. Kinh bang tế thế: (Kinh: quản lý; bang: nước; tế: cứu, giúp; thế: đời): cai quản, trông nom việc nước để nhân dân sống yên vui. Kính nhi viễn chi: (Kính: kính trọng, nhi: mà, viễn: xa, chi: đại từ thay thế cho đối tượng vừa nói trước đó): kính trọng, ngưỡng mộ nhưng có chỉ thể đứng xa mà chiêm ngưỡng, không thể gần gũi được). Lão bạng sinh châu: (Lão: già, bạng: con trai ở biển, sinh: đẻ, châu: ngọc trai): người đã già mà sinh ra được đứa con (trai) quý. Lão đương ích tráng: (Lão: già; đương: nên, cần phải; ích: càng thêm, tráng: khỏe mạnh): tuổi già mà vẫn khỏe mạnh làm nên nhiều việc có ích cho đời. Liên chi hồ điệp: (Liên: liền; chi: cành; hồ điệp: con bướm): nối tiếp nhau, liên tiếp không ngừng, không dứt. Ôn cố tri tân: (Ôn: nhớ lại, nhắc lại; cố: cũ; tri: biết; tân: mới): ôn lại cái cũ, cái đã qua để hiểu rõ hơn, biết cách ứng xử đúng đắn với cái mới, cái hiện tại. Quả bất địch chúng: (Quả: đơn độc, một mình; bất: không; địch: cự lại; chúng: số đông): một mình hoặc thiểu số thì không thể địch được số đông. Sinh ly tử biệt: (Sinh: sống; ly: rời; tử: chết; biệt:xa cách nhau): sống thì xa cách nhau, chết thì không bao giờ gặp nhau. Sơn lam chướng khí: (Sơn: núi; lam: khí ở núi bốc lên; chướng khí: khí độc ở rừng): khí độc ở miền rừng núi bốc lên, dễ gây bệnh. Tả phù hữu bật: (Tả: bên trái; phù: nâng đỡ; hữu: bên phải; bật: giúp đỡ): giúp đỡ từ nhiều phía của những người xung quanh. Tao nhân mặc khách: (Tao: một thể thơ đời xưa ở TQ, về sau chỉ chung thơ văn; mặc: mực): người sành về sáng tác hoặc thưởng thức văn chương. Tâm đầu ý hợp: (Tâm: lòng; ý: điều chưa nói ra; đầu và hợp: phù hợp): tâm hồn, tình cảm và ý nghĩ, chí hướng rất hợp nhau. Tận mục sở thị: (mục: mắt; sở: trợ từ; thị: nhìn thấy): trông thấy tận mắt. Tha phương cầu thực: (Tha: khác; phương: nơi; cầu: kiếm; thực: ăn): đi kiếm ăn, kiếm kế sinh nhai ở nơi khác xa quê hương mình. Thệ hải minh sơn: (Thệ: thề; hải: biển; minh: thề ước; sơn: núi): thề trước biển và núi, biểu thị lời thề rất thiêng liêng sâu nặng. Thiên kinh địa nghĩa: (Thiên: trời; kinh: mãi mãi không thay đổi; địa: đất; nghĩa: thích hợp, chính đáng): đạo lý đúng đắn, rõ ràng, chắc chắn bất di bất dịch, không có gì đáng nghi ngờ. Thiên la địa võng: (la: lưới bắt chim, võng: lưới đánh cá): bủa vây khắp nơi không thể thoát được. Thực sự cầu thị: (Thực: thật; sự: việc; cầu: tìm, theo đuổi; thị: lẽ phải, chân lý): xuất phát từ thực tế tìm ra chân lý, lẻ phải. Thương hải tang điền: (Thương: xanh; tang: dâu): bãi biển nương dâu – sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời, trong xã hội. Tiên ưu hậu lạc: (ưu: lo; lạc: vui): lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Tiền hô hậu ủng: (ủng: vây quanh): hộ tống rầm rộ, oai phong. Tọa hưởng kỳ thành: (Tọa: ngồi; kỳ: đại từ thay thế; thành: thành quả): ngồi mà hưởng kết quả. Tọa thực băng sơn: (Tọa: ngồi; thực: ăn; băng: lở; sơn: núi): chỉ ngồi ăn, không làm gì thêm thì bao nhiêu cũng hết. Tọa sơn quan hổ đấu: (quan: xem, đấu: đánh nhau): mưu sâu, chờ hai phe đánh nhau đến kiệt sức rồi nhảy vào can thiệp để đánh thắng cả hai. Tống cựu nghinh tân: (Tống: đưa, tiễn; cựu: cũ; nghinh: đón; tân: mới): tiễn cái cũ đón cái mới; tiễn người cũ đón người mới, tiễn năm cũ đón năm mới…. Trà dư tửu hậu: (dư: thừa, tửu: rượu): lúc thảnh thơi nhàn rỗi, sau khi uống trà uống rượu. Trầm tư mặc tưởng: (Trầm: chìm, sâu kín; tư: suy nghĩ; mặc: im, lặng lẽ; tưởng: suy nghĩ): trầm lặng, đăm chiêu suy nghĩ. Tri kỷ tri bỉ: (Tri: biết; kỷ: mình; bỉ: người khác): biết người biết ta. Tứ cố vô thân: (Tứ: bốn; cố: ngoảnh nhìn; vô: không; thân: thân thích): đơn độc, trơ trọi một mình, không có anh em, bè bạn thân thích. Tứ đại đồng đường: (đại: đời. đường: nhà): bốn đời cùng ở chung một nhà. Tự nhiên nhi nhiên: (nhi: mà, nhiên: như thế): cứ tự nhiên mà thành như thế, không nên tác động gì. Tương kế tựu kế: (tương: đem; tựu: làm, thi hành): lợi dụng kế của đối phương mà lập kế của mình để đối phó có hiệu quả. Ưu thời mẫn thế: (Ưu: buồn phiền; thời: thời cuộc; mẫn: lo; thế: đời): lo lắng việc đời, thương dân. Vạn thọ vô cương: (cương: giới hạn): sống lâu muôn tuổi (chúc tụng vua chúa xưa), sống lâu không giới hạn. Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình: (Văn: nghe; kỳ: đại từ chỉ định; thanh: tiếng; bất: không; kiến: nhìn thấy): nghe tên, nghe tiếng mà chưa từng thấy người, thấy mặt. Vinh thân phì gia: (Vinh: vẻ vang; thân: bản thân; phì: béo; gia: nhà, gia đình): đạt đượng vinh hoa, danh vọng, sự giàu sang cho bản thân, gia đình. Xuất kỳ bất ý: (Xuất: ra; kỳ: đại từ; ý: để ý, chú ý): hành động nhân lúc đối phương không chú ý. 4.4.2. Mở rộng vốn tục ngữ Bệnh tùng khẩu nhập: tai vạ từ đường miệng mà ra, bệnh tật từ cửa miệng mà vào: bệnh tật do ăn uống mà sinh, tai vạ do nói năng mà có. Bĩ cực thái lai: Bĩ và thái là 2 quả trong Chu dịch, bĩ là “xấu” hoặc “việc bất lợi”, thái là “tốt” hoặc “thuận lợi”. Sự phát triển của sự vật đến cực điểm thì biến thành mặt đối lập, bĩ chuyển thánh thái, tình hình xấu biến thành tốt. Cẩn tắc vô ưu: cẩn thận thì không phải lo lắng gì cả. Danh chính ngôn thuận: Việc gì mà danh nghĩa chính đáng thì đạo lý ắt thông. Dĩ bất biến ứng vạn biến: lấy cái bất biến (cố định) để ứng phó với cái vạn biến (luôn thay đổi); lấy cái nguyên tắc cứng rắn để đối phó với mọi tình hình phức tạp. Dục tốc bất đạt: Làm việc gì chớ có nóng vội, phải tuần tự mà tiến tới mới có thể đạt được mục đích. Dụng nhân như dụng mộc: dùng người như dùng gỗ, phải khéo léo, biết bố trí đúng chỗ, hợp với sở trường, khả năng và hoàn cảnh của từng người. Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân: điều mà mình không nuốn thì đừng gây cho người khác. Kính lão đắc thọ: kính người già thì mình được sống lâu Lương y như từ mẫu: Thầy thuốc như mẹ hiền. Ngôn dị hành nan: nói thì dễ làm thì khó. Nhân định thắng thiên: Ý chí của con người, quyết tâm của con người có thể thắng được sức mạnh của tự nhiên. Nhập gia tùy tục: Vào một gia đình, một nơi nào đó thì phải hòa nhập, tuân thủ nếp sống, lề thói ở đó. Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất: chỉ phẩm chất cao đẹp và khí phách dũng cảm, giàu sang không cám dỗ được, nghèo hèn không làm di chuyển được, uy vũ không khuất phục được. Tam nhân hành tất hữu ngã sư: Không tử: “Ba người cùng đi, trong đó nhất định có một người có thể làm thầy ta, ta tìm ưu điểm của họ để học, khuyết điểm của họ cũng giúp ta chú ý sửa mình”; tùy lúc, tùy nơi đều có thể học tập ở người khác. Thực túc binh cường: Lương thực đầy đủ thì quân dội mạnh. Tiên học lễ, hậu học văn: Trước hết phải học phép tắc, sau đó mới học kiến thức. Vạn sự khởi đầu nan: Việc gì khi bắt đầu đều khó khăn./ ******* * Thông tin phản hồi cho buổi 5 Hoạt động 1: Học viên thực hiện yêu cầu của người hướng dẫn về tổ chức Hoạt động 2: Rút ra nhận định từ thực tế giảng dạy từ ngữ Hán Việt - Các yếu tố được sử dụng với tư cách độc lập là từ dễ hiểu hơn các yếu tố không được sử dụng đôc lập mà chỉ làm yếu tố cấu tạo từ. - Trong các yếu tố không được dùng độc lập thì các yếu tố có sức sản sinh cao (tức là được sử dụng để cấu tạo nên rất nhiều từ ngữ khác nhau) thì dễ hiểu hơn các yếu tố có sức sản sinh thấp chỉ có mặt trong vài từ. Chẳng hạn: - Những từ ngữ Hán Việt biểu thị những sự vật, hoạt động, tính chất gần gũi với cuộc sống học sinh, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh thì các em dễ hiểu hơn các lớp từ khác. Chẳng hạn: nhật, nguyệt, tiền, hậu, … Hoạt động 3: - Trình tự giảng dạy: Có 2 cách: - Cách 1: Nêu nghĩa của yếu tố/từ rồi đưa ra một số từ ngữ có chứa yếu tố/từ với nghĩa đó. - Cách 2: Giáo viên nêu ra một nhóm từ ngữ có chứa yếu tố cần dạy, rồi gợi ý cho học sinh từ nghĩa của các từ ngữ đó suy ra nghĩa của yếu tố cần dạy. Hoạt động 4: Có thể bằng các cách sau: + Phương pháp “chiết tự” + Phương pháp dựa vào văn cảnh, ngữ cảnh + Phương pháp đối chiếu với từ thuần Việt đồng nghĩa Hoạt động 5: - Yếu tố Chính: có 5 nghĩa: 1. Ngay ngắn, chuẩn mực: chính xác, bất chính; 2. Đúng ở thời điểm đó: chính ngọ; 3. (mặt) phải: chính diện; 4. quan trọng hơn cả, trái với phụ: chính khóa, chính phẩm; 5. Ngay thẳng, đúng đắn, trái với tà: chính đáng, chính nghĩa. - Yếu tố Đảm: có 2 yếu tố đồng âm: 1. Cái mật, tính cách mạnh dạn: can đảm, đảm lược; 2. Gánh vác, nhận lấy mà làm: đảm đang, đảm nhận, đảm bảo. - Yếu tố Quân: có 3 yếu tố đồng âm: 1. Lực lượng vũ trang: quân đội, dân quân; 2. a. Vua: quân chủ, minh quân, b. Từ tôn xưng người đàn ông: quân tử, táo quân; 3. Đều, bằng nhau: quân bình, quân phân, bình quân - Yếu tố Phu: có 4 nghĩa: 1. Người đàn ông ở tuổi trưởng thành: đại phu, lão phu, sĩ phu; 2. Người lao động nặng nhọc: xa phu, tiều phu, nông phu; 3. Người bị bắt lao dịch: phu phen, phu làm đường; 4. Chồng: phu thê, phu quân, vọng phu. - Yếu tố Phụ: có 5 yếu tố đồng âm: 1. a. Cha: phụ huynh, thân phụ, b. Người đàn ông được tôn trọng như hàng cha: phụ lão, sư phụ; 2. a. Đàn bả: phụ nữ, sản phụ, thiếu phụ, b. Vợ: quả phụ, tiết phụ; 3.a. Đảm nhận: phụ trách, b. Dựa vào, nhờ cậy: tự phụ, c. Thua, trái với tháng: bất phân thắng phụ, d. Làm trái ngược (với điều đã hứa): phụ ước, phụ tình, phụ lòng tin; 4. a. Thêm vào: phụ cấp, phụ trách, b. Gần: phụ cần, c. Không phải là chính: phụ phẩm, phụ tùng, phụ thuộc. d. (Nghĩa phát triển): Góp, giúp thêm: phụ một tay; 5. Giúp đỡ, giúp thêm vào: phụ trợ Buổi 6: Thực hành
* Tài liệu phát tay 1. Con rồng cháu tiên (SGK lớp 6 – tập – trang 7) 2. Sơn tinh thủy tinh (SGK lớp 6 – tập – tramg 36) *******
Hoạt động 1: Học viên thực hiện yêu cầu của người hướng dẫn Hoạt động 2: - Thành ngữ Cao lương mỹ vị: (Cao: béo, lương: lương thực, mỹ vị: mùi vị thơm ngon): các món ăn ngon, quý, sang trọng. - Thành ngữ Danh bất hư truyền: (Danh: tiếng tăm, bất: không, hư: không thực, truyền: truyền): tiếng tăm, danh tiếng truyền đi không sai với sự thực. - Thành ngữ Quả bất địch chúng: (Quả: đơn độc, một mình; bất: không; địch: cự lại; chúng: số đông): một mình hoặc thiểu số thì không thể địch được số đông. - Thành ngữ Bạch diện thư sinh: (Bạch:trắng, diện: mặt, thư sinh: học trò): chỉ người học trò còn non trẻ, ít kinh nghiệm. - Thành ngữ Không tiền khoáng hậu: (Không: trống, trống rỗng, tiền: trước, khoáng: trống, không có, hậu: sau): trước đây và sau này không bao giờ có. Hoạt động 3: - Tục ngữ Dĩ bất biến ứng vạn biến: lấy cái bất biến (cố định) để ứng phó với cái vạn biến (luôn thay đổi); lấy cái nguyên tắc cứng rắn để đối phó với mọi tình hình phức tạp. - Tục ngữ Nhân định thắng thiên: Ý chí của con người, quyết tâm của con người có thể thắng được sức mạnh của tự nhiên. - Tục ngữ Tiên học lễ, hậu học văn: Trước hết phải học phép tắc, sau đó mới học kiến thức. - Tục ngữ Vạn sự khởi đầu nan: Việc gì khi bắt đầu đều khó khăn.
20 phút
Page 85.2.2. Sử dụng đúng sắc thái phong cách của từ ngữ Hán Việt Sử dụng từ ngữ đúng phong cách thì hiệu quả giao tiếp tốt, không sử dụng từ ngữ đúng phong cách thì hiệu quả sẽ ngược lại. Không phải trường hợp nào dùng từ Hán Việt cũng là hay, không phải lúc nào dùng từ thuần Việt cũng là tốt. Chúng ta có thể nói” tôi cùng vợ tôi…, tôi cùng bà xã tôi…, tôi cùng nhà tôi…. Nhưng không thể nói: Thủ tướng và vợ, Tổng thống và vợ…. mà phải nói là: Thủ tướng và phu nhân, tổng thống và phu nhân… Chúng ta nói “bà ấy bị thổ huyết” chứ không thể nói “bà ấy bị hộc máu”. (xem 2.3) 5.3. Việt hóa từ ngữ Hán Việt Vai trò, vị trí, tầm quan trọng … của từ ngữ Hán Việt trong hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt đã rõ. Nhưng trong sử dụng từ Hán Việt không thể không chú ý đến một xu thế tích cực và lành mạnh là: Việt hóa từ ngữ Hán Việt. Việt hóa từ ngữ Hán Việt có thể theo hai cách: Cách 1: Đổi các yếu tố Hán Việt thành các yếu tố thuần Việt. Thí dụ:
Cách 2: Đổi trật tự các yếu tố cấu tạo hoặc trật từ theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt. Thí dụ:
Những từ được Việt hóa như trên đã được dùng rộng rãi và những từ ngữ Hán Việt tương ứng đã trở thành từ cũ, chỉ còn sử dụng trong những trường hợp nhất định. 5.4. Có thể thay thế từ ngữ Hán Việt theo hướng Âu hóa? Trong chiều hướng hội nhập quốc tế ngày nay, chúng ta cần chú ý tới xu thế thay thế một số từ Hán Việt bằng từ ngữ gốc Ấn – Âu để quốc tế hóa một số thuật ngữ, tên gọi. Thí dụ:
Tương tự, chúng ta cũng đổi Ý thành I-ta-li-a, Mễ Tây Cơ thành Mê-hi-cô, Á Căn Đình thành Ác-hen-ti-na, … nhưng vẫn nói: (nước) Anh, Pháp, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Hy Lạp, Mỹ/Hoa Kỳ…. Điều này chứng tỏ từ ngữ Hán Việt vẫn có chỗ mạnh của nó trong lời ăn tiếng nói của người Việt. Cái mạnh ấy thể hiện ở chỗ trong một số trường hợp việc Việt hóa bằng cách thay đổi yếu tố Hán Việt bởi yếu tố Việt hoặc thay đổi trật tự của các yếu tố như đã nói ở trên không thể bao quát hết ý nghĩa và chức năng của bản thân từ Hán Việt. Chẳng hạn: “đại lộ” không thể đổi thành “đường lớn”, “tối tân” không thể đổi thành “mới nhất”. Ngược lại “mọi mặt” không thể bao giờ cũng thay thế được “toàn diện”, “chấm dứt” không thể bao giờ cũng thay thế được “đình chỉ”, … Kết luận chuyên đề này cần thấy rằng: Từ Hán Việt vẫn là lớp từ quan trọng trong hệ thống từ tiếng Việt. Việc sử dụng từ Hán Việt cần có những cân nhắc nhất định để phát huy tính tích cực của nó trong cách diễn đạt nhằm đảm bảo sự trong sáng của tiếng Việt./
Hoạt động 2: Có thể dựa vào các căn cứ sau để xác định từ Hán Việt: Từ đó có vỏ ngữ âm là âm Hán Việt, là từ viết ra được bằng chữ Hán, là từ được dịch nghĩa bằng từ thuần Việt, Khả năng sản sinh và tính độc lập hay không độc lập của yếu tố Hán Việt Hoạt động 3: Chúng ta có thể sử dụng đúng từ ngữ Hán Việt trên 2 phương diện sau đây: Sử đúng âm và nghĩa của từ ngữ Hán Việt, Sử dụng đúng sắc thái phong cách của từ ngữ Hán Việt Hoạt động 4: Có thể Việt hóa từ ngữ Hán Việt bằng những cách sau: Đổi các yếu tố Hán Việt thành các yếu tố thuần Việt, Đổi trật tự các yếu tố cấu tạo hoặc trật từ theo trật tự ngữ pháp tiếng Việt. TÀI LIỆU SỬ DỤNG 1. Dương Quảng Hàm - Việt Nam văn học sử yếu - Nxb HNV (tái bản) - 1996 2. Đào Duy Anh - Từ điển Hán Việt – Nxb Trường Thi – SG – 1957 3. Đặng Đức Siêu (chủ biên) – Giáo trình Ngữ văn Hán Nôm – Nxb ĐHSP - 2007 4. Hoàng Phê (chủ biên) - Từ điển Tiếng Việt – Nxb Đà Nẳng (tái bản) - 1996 5. Lê Trí Viễn (chủ biên) - Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm - Nxb Giáo dục – 1984 6. Lê Nguyễn Lưu - Từ chữ Hán đến chữ Nôm - Nxb Thuận Hóa - 2002 7. Nguyễn Quang Ninh (chủ biên) – RLKN SD tiếng Việt - Nxb GD - HN - 2002 8. Nguyễn Tài Cẩn - Lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo) - Nxb GD – HN – 1995 9. Nguyễn Tài Cẩn - Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt - Nxb ĐHQG Hà Nội (tái bản) – 2000 10. Nguyễn Thanh Hùng – PPDH Ngữ văn ở THCS – Nxb ĐHSP - 2007 11. Trần Trí Dõi - Giáo trình Lịch sử tiếng Việt (sơ thảo) - Nxb ĐHQG HN - 2005 12. Trần Ngọc Thêm – Văn hóa học và văn hóa Việt Nam - Nxb ĐHSP - 2003 13. Bộ SGK và bộ SGV Ngữ văn THCS - Nxb GD phát hành hằng năm Chia sẻ với bạn bè của bạn:
|