Lượng nước ngọt con người có thể sử dụng chiếm bao nhiêu phần trăm?

Nước quan trọng là vậy, nhưng hiện nay, thế giới vẫn phải đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu nước sạch và nguồn nước bị ô nhiễm trầm trọng

Tình trạng ô nhiễm nguồn nước, thiếu nước sạch sinh hoạt làm tăng nguy cơ mắc các bệnh đường ruột, bệnh ngoài da và một số căn bệnh khác.Trung bình có khoảng 1,5 triệu trẻ em bị chết do bệnh tiêu chảy mỗi năm. Theo ước tính của WHO, cho tới nay có khoảng 130 triệu người đang phải đối mặt với việc dùng nước bi nhiễm arsenic với nồng độ cao hơn nồng độ cho phép là 10 mg/lít. Vì vậy, vai trò của nước sạch với đời sống quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.

Nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất công nông nghiệp đang gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và sự bùng nổ dân số. Theo kết quả đánh giá năm 1999 có 8,8% tổng lượng dòng chảy năm tương ứng với tần suất 75% là tổng lượng nước cần dùng của cả nước. Con số này tăng lên tới 12,5% vào năm 2000 và 16,5% vào năm 2010. Đạt 41 km3 (chiếm 89,8%) năm 1985, tăng lên 46,9 km3 (năm 1990) và 60 km3 năm 2000 (chiếm 85%) là tổng lượng nước dùng để tưới cho cây trồng, con số này chiếm tỉ lệ khá cao. Lượng nước dùng cho nông nghiệp vào mùa cạn là rất lớn. Tổng lượng nước cần sử dụng trong mùa cạn năm 2000 đạt tới 70,7 km3, chiếm khoảng 42,4% tổng lượng nước có khả năng cung cấp trong mùa cạn hay 51% tổng lượng dòng chảy mùa cạn tương ứng với tần suất 75%.

Ở rất nhiều vùng và lưu vực sông, lượng nước cần dùng có thể gấp vài lần tổng lượng nước có thể cung cấp, nghĩa là chẳng những vượt quá xa ngưỡng lượng nước cần có để duy trì sinh thái mà còn không có nguồn nước tại chỗ để cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất.

Như trên đã nêu, sự gia tăng dân số và các hoạt động của con người sẽ ngày càng tác động mạnh mẽ đến môi trường tự nhiên nói chung và môi trường nước nói riêng.

Những rừng xanh bạt ngàn ở Trường Sơn, Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc đang bị chặt phá để lại những núi đồi trơ trọi, xám ngắt, canh tác nông lâm nghiệp không hợp lý và thải chất thải bừa bãi vào các thuỷ vực… đã và sẽ gây nên những hậu quả rất nghiêm trọng, làm cho nguồn nước bị cạn kiệt, bị ô nhiễm, hạn hán có khả năng càng khốc liệt. Nguy cơ thiếu nước sạch càng trầm trọng, nhất là vào mùa cạn ở các vùng mưa ít.

Lượng nước ngọt con người có thể sử dụng chiếm bao nhiêu phần trăm?

Cạn kiệt nguồn nước – nguy cơ đe dọa tới cuộc sống

Nhận thức về giá trị của nguồn nước đối với cuộc sống của con người là một trong những ưu tiên hàng đầu vì mục tiêu phát triển bền vững của mọi quốc gia. Con người hoàn toàn có khả năng bảo đảm tài nguyên đáp ứng được những nhu cầu hiện tại của mình mà không gây phương hại đến việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đồng thời giảm thiểu tổn hại tới hệ thống kinh tế – xã hội và môi trường. Trong số các nguồn tài nguyên, nước là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong việc duy trì sự sống và mọi hoạt động của con người trên hành tinh. Việc đáp ứng nhu cầu về nước bảo đảm cả về chất lượng và số lượng là một điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững.

Kể từ đầu thế kỷ XX, lượng nước tiêu thụ toàn cầu tăng 7 lần, chủ yếu do sự gia tăng dân số và nhu cầu về nước của từng cá nhân. Cùng với sự gia tăng dân số và khát vọng cải thiện cuộc sống của mỗi quốc gia và của từng cá nhân thì nhu cầu về nước ngày một tăng. Vì vậy, việc bảo đảm cung cấp nước đáp ứng về chất lượng cho toàn bộ dân số toàn cầu và bảo tồn các hệ sinh thái vẫn còn nhiều thách thức.

Do sự biến đổi về nhiệt độ và lượng mưa, hiện nay nhiều nơi trên thế giới thường xuyên không có đủ nước để đáp ứng nhu cầu của con người khi 70% diện tích của Trái Đất được nước che phủ nhưng chỉ 0,3% tổng lượng nước nằm trong các nguồn có thể khai thác dùng làm nước uống. Vì thế, trong thế kỷ XXI, tình trạng thiếu nước đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng nhất trong các vấn đề về nước, đe dọa quá trình phát triển bền vững. Theo đánh giá của nhiều cơ quan nghiên cứu về tài nguyên nước, hiện tại có khoảng 1/3 số quốc gia trên thế giới bị thiếu nước và đến năm 2025, con số này sẽ là 2/3 với khoảng 35% dân số thế giới sẽ rơi vào tình cảnh thiếu nước nghiêm trọng . Ở một số quốc gia, lượng nước cho mỗi đầu người đang bị giảm đáng kể. Và mặc dù, Hội nghị về nước của Liên hợp quốc vào năm 1997 đã thống nhất, “tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, địa vị kinh tế, xã hội đều có quyền tiếp cận nước uống với số lượng và chất lượng bảo đảm cho các nhu cầu cơ bản của mình, theo đó, tiếp cận với nước uống là quyền cơ bản của con người”, song, cho đến nay, số người thiếu nước sạch vẫn không ngừng tăng. Tại Hội nghị lần thứ 21 Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP21) diễn ra tại Pa-ri (Pháp) tháng 12-2015, Phó Chủ tịch Ngân hàng Thế giới phụ trách phát triển bền vững Lau-ra Tuốc cảnh báo, chỉ tính riêng trong vòng 35 năm tới sẽ có 40% dân số toàn cầu phải sống trong những quốc gia khan hiếm nước sạch, cao hơn nhiều so với 28% hiện nay.

Hội đồng Năng lượng Thế giới (WEC) dự báo đến năm 2030, lượng nước trên toàn cầu giảm đến 40%. Lượng nước sụt giảm tác động lớn đến sinh hoạt, sản xuất lương thực, vệ sinh và sức khỏe cộng đồng, cũng như 98% hoạt động sản xuất điện năng trên toàn cầu. Theo WEC, mối liên hệ năng lượng – nước – lương thực cho thấy “một rủi ro mang tính hệ thống”, có nguy cơ dẫn đến tác động mạnh mẽ đến nguồn cung và nhu cầu năng lượng trong nhiều năm tới .

Còn theo báo cáo của Liên hợp quốc, đến năm 2030, nhu cầu về nước của thế giới sẽ tăng thêm 40% và nhu cầu năng lượng sẽ tăng thêm 50% so với hiện tại. Nguồn tài nguyên nước sẽ tiếp tục phải chịu sức ép của các yếu tố như tăng dân số, ô nhiễm môi trường, tình trạng biến đổi khí hậu (nắng nóng, hạn hán, lũ lụt). Hiện nay, trên toàn thế giới, có khoảng 770 triệu người không tiếp cận được với nước sạch; con số này sẽ tăng lên tại các khu vực như Bắc Mỹ, Trung Đông, Tây Nam Á, châu Á nói chung (4). Bên cạnh đó, các rủi ro lớn đang hiện hữu đối với các con sông lớn có vai trò chiến lược của thế giới, như sông Bra-ma-pu-ta ở Tây Nam Á; sông A-mu Đa-ri-a ở Trung Á; sông Nin và lưỡng hà Ti-grít Ưu-phrát ở Trung Đông và sông Mê Công ở khu vực Đông Nam Á.

Ủy ban Nghiên cứu về nguồn nước của Nam Phi (WRC) cũng chỉ ra rằng, mực nước ngầm tự nhiên tại Nam Phi và một số nước khác ở châu Phi đang ngày càng giảm đi vì bị khai thác quá mức, dẫn đến nguy cơ nhiễm mặn và ô nhiễm nặng. WRC cảnh báo, Nam Phi sẽ lâm vào tình trạng khủng hoảng nước nghiêm trọng vào năm 2026 nếu tiếp tục sử dụng tùy tiện nguồn nước như hiện nay. Đó là chưa tính đến nguy cơ nguồn nước ngầm bị ô nhiễm chì, thạch tín và một số độc tố khác do hoạt động của ngành khai thác mỏ trong hàng trăm năm qua .

Lượng nước ngọt con người có thể sử dụng chiếm bao nhiêu phần trăm?

Nguyên nhân và những hệ lụy đáng tiếc

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng khan hiếm nước có thể thấy do những yếu tố sau:

Một là, sự tăng nhanh của dân số thế giới. Ngày nay, theo đà tăng của dân số, lượng nước dùng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt không ngừng tăng. Theo đó, các tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới ngày càng nhiều. Đó là sức ép lớn tới tài nguyên nước do khai thác quá mức phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất công nghiệp; tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân hủy của môi trường tự nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp… gây ô nhiễm nguồn nước sạch. Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hóa và các nước đang phát triển gia tăng, dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hóa. Sự chênh lệch ngày càng tăng giữa đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển công nghiệp và các nước kém phát triển dẫn đến tình trạng di dân dưới mọi hình thức, ảnh hưởng tới sự phân bố các nguồn nước.

Hai là, môi trường sinh thái bị phá hoại do nạn chặt phá rừng, biến đổi khí hậu,… Trong nhiều năm qua, nạn chặt phá rừng bừa bãi đã gây ra những hiểm họa làm biến dạng hệ sinh thái, tăng nguy cơ khan hiếm nước, đất bị xói mòn, thoái hóa. Theo các chuyên gia, tốc độ nạn phá rừng hiện nay sẽ dẫn tới 2 tỷ người, tức 20% dân số thế giới bị thiếu nước vào năm 2050. Hầu hết số người chịu cảnh thiếu nước này sống tại các quốc gia đang phát triển. Ngoài ra, nguồn thực phẩm cũng có nguy cơ bị đe dọa vì nước dùng để tưới tiêu cũng trở nên khan hiếm (6). Bên cạnh đó, sự nóng lên của Trái đất khiến nạn hạn hán kéo dài, tình trạng mực nước biển dâng lên, đồng nghĩa với việc cạn kiệt nguồn nước ngọt quý hiếm tại một số nơi, khu vực trên thế giới.

Ba là, sự ô nhiễm tài nguyên nước. Cùng với tốc độ phát triển đô thị hóa, các khu công nghiệp hiện đại là số lượng chất thải làm nhiễm bẩn nguồn nước ngày càng khó kiểm soát. Việc sử dụng thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, lượng nước thải ra môi trường của các nhà máy luyện kim, nhiệt điện, hóa chất, thực phẩm, cùng với lượng nước thải do sinh hoạt… khiến nguồn nước sạch bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Bốn là, sử dụng và quản lý tài nguyên nước không hợp lý. Sự cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước cũng như sự khan hiếm nguồn nước ngày càng trầm trọng do chưa thực sự có các biện pháp quản lý tốt nguồn tài nguyên nước. Tài nguyên nước hiện vẫn chưa được công nhận giá trị đầy đủ và công tác quản lý còn lỏng lẻo. Hầu hết các quốc gia đều chưa có nhiều hệ thống giám sát thích hợp cho cả khối lượng lẫn chất lượng nước và đặc biệt là việc sử dụng nước lãng phí

Những nguyên nhân trên đã gây ra tình trạng cạn kiệt nguồn tài nguyên nước, dẫn theo đó là những hệ lụy không nhỏ đối với đời sống của con người. Theo dự đoán, các nguồn cung nước ngọt hiện nay sẽ không thể thỏa mãn nhu cầu của toàn cầu vào năm 2040, khiến xảy ra nguy cơ gây bất ổn định chính trị, làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế và đe dọa các thị trường lương thực thế giới. Khả năng sản xuất lương thực và năng lượng của các khu vực gồm Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi được dự báo sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn liên quan tới nguồn nước ngọt.

Lượng nước ngọt con người có thể sử dụng chiếm bao nhiêu phần trăm?

Làm thế nào để biến nước bẩn thành nước uống được ?

Đây là câu hỏi mà nhiều người phải đau đầu suy nghĩ. Chúng tôi có giải pháp tối ưu cho bạn. Thiết bị lọc nước Sonaki được phân phối bởi công ty Hako Unity không những mang lại nguồn nước sạch cho bạn mà còn phù hợp với túi tiền, thiết kế nhỏ gọn và sang trọng. Nếu bạn quan tâm hãy tham khảo một số sản phẩm bên dưới.

Nước ngọt trên thế giới chiếm bao nhiêu phần trăm?

Nước ngọt | WWF. Nước được ví như dòng máu sự sống của sinh quyển, chi phối sự vận hành của kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, trong tổng lượng nước trên thế giới (bao phủ hơn 70% bề mặt trái đất), chỉ có 3% là nước ngọt mà con người có thể sử dụng được (Rinkesh, 2016).

Nước ngọt và nước mặn chiếm bao nhiêu phần trăm?

Người ta đã ước tính rằng có khoảng1,386 triệu kilômét khối (333.000 dặm khối Anh) nước trên Trái Đất. Nó bao gồm nước ở dạng lỏng và đóng băng từ nước ngầm, đại dương, hồ và các con suối. Trong số đó, Nước mặn chiếm khoảng 97.5%, và nước ngọt chỉ chiếm 2.5%.

Nước tự nhiên chiếm bao nhiêu phần trăm?

Nước chiếm khoảng 70,8% bề mặt Trái Đất trong đó đại dương chiếm khoảng 96,5%. Nước cũng tồn tại trong không khí dưới dạng hơi, trong ao, hồ, những tảng băng và sông băng.

Bao nhiêu phần trăm nước uống được?

Chỉ số nước trung bình trong cơ thể bạn sẽ nằm trong phạm vi cho phép nếu tỷ lệ nước có trong cơ thể là hơn 50 %. Vào những ngày nắng nóng hay hoạt động nhiều, bạn cần uống nhiều nước hơn bình thường. Duy trì lượng nước trong cơ thể một cách hợp lý giúp bạn tránh được các vấn đề liên quan đến sức khỏe.