Kiểu nhân vật chính trong sử thi

Kiểu nhân vật chính trong sử thi

Kiểu nhân vật chính trong sử thi

Kiểu nhân vật chính trong sử thi

Kiểu nhân vật chính trong sử thi

Kiểu nhân vật chính trong sử thi

Truyền thuyết là thể loại có vị trí nổi bật trong hệ thống thể loại văn học dân gian Việt Nam không chỉ ở số lượng phong phú mà ở cả chất lượng phản ánh vô cùng đặc sắc của nó. Do những đặc thù lịch sử về vấn đề chữ viết và hàng ngàn nầm bị ngoại bang xâm lược (chính sử của nước ta xuất hiện muộn) nên truyền thuyết dân gian trở thành pho sử truyền miệng đặc biệt quý báu được nhân dân lưu truyền, gìn giữ trong suốt mấy ngàn năm lịch sử.Bạn đang xem: Truyền thuyết là gì

Truyền thuyết là thể loại tự sự bằng văn xuôi, kể lại các sự kiện và nhân vật có quan hệ với lịch sử địa phương, dân tộc, thường dùng yếu tố tưởng tượng để lí tưởng hoá các sự kiện và nhân vật được kể, nhằm thể hiện ý thức lịch sử và thái độ, tình cảm của nhân dân.

Bạn đang xem: Kiểu nhân vật chính trong truyền thuyết

Đang xem: Truyền thuyết là gì

Nếu như truyện cổ tích kể về những điều không có thật, những truyện hư cấu, không thể xảy ra trong thưj tế thì truyền thuyết kể về những điều gắn với các sự kiện lịch sử đã xảy ra trong quá khứ. Song, chức năng làm sứ của truyền thuyết dân gian cũng mang những đặc trưng riêng. Truyền thuyết không ghi chép lịch sử một cách khô cứng, máy móc, đơn giản mà đằng sau việc phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử là thái độ, tình cảm, cách đánh giá của nhân dân đối với các nhân vật và sự kiện lịch sử đó. Truyền thuyết dân gian phản ánh lịch sử nhưng đó là lịch sử được phản chiếu qua lăng kính nghệ thuật của nhân dân, có chức năng nhận thức và thẩm mĩ to lớn. cốt lõi lịch sử và yếu tố hư cấu, tưởng tượng là hai đặc trưng không thể thiếu của truyền thuyết dân gian. “Truyền thuyết dân gian thường có cái lõi là sự thật lịch sử mà nhân dân qua nhiều thế hệ đã lí tưởng hoá, gửi gắm vào đó tâm tình tha thiết của mình cùng với thơ và mộng, chắp đôi cánh của trí tưởng tượng và nghệ thuật dân gian, làm nên những tác phẩm mà đòi đời con người yêu thích” (Nhận định của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng, báo Nhân dân, 29 – 4 – 1969).- Khi nghiên cứu và tìm hiểu truyền thuyết, cần có huớng tiếp cận tác phẩm theo hệ thống các yếu tố nghệ thuật nhu hình tuợng nhân vật, kết cấu, lời kể.

READ: Trường Đại Học Mở Tp Hcm - Cổng Thông Tin Tuyển Sinh

+ Nhân vật cổ tích là nhân vật hư cấu, còn nhân vật truyền thuyết do chính lịch sử tạo ra. Tuy không phải nhân vật hư cấu, nhung nhân vật truyền thuyết cũng không phải là bản sao của nhân vật lịch sử. Nhân dân đã lựa chọn những nhân vật mang ý nghĩa biểu trung cho lịch sử khái quát của dân tộc (những nhân vật trong truyền thuyết thời vua Hùng nhu Thánh Gióng (Thánh Gióng), Son Tinh (Sơn Tinh, Thuý Tinh),…) hoặc nhũng nhân vật cụ thể, có thật trong lịch sử vừa phản ánh hiện thực vừa lí tuởng hoá nhân vật, qua đó gửi gắm thái độ, tình cảm của nhân dân.

Sử thi của các dân tộc thường được thể hiện duới hình thức thơ ca hoặc văn vần kết họp với văn xuôi, nên ngôn ngữ là yếu tố nghệ thuật cần đuợc chú ý khai thác kĩ. Truyền thuyết của nguời Việt thường tồn tại trong lời kể văn xuôi, do vậy mà ta phải chú ý vào kết cấu và các chi tiết nghệ thuật, còn lời kể lại là yếu tô thứ yếu.

+ Khi khai thác, phân tích truyền thuyết phải chú ý đến vai trò của kết cấu. Kết cấu truyền thuyết có mô hình đơn giản hơn kết cấu truyện cổ tích.

+ Tìm hiểu truyền thuyết cũng cần chú ý đến các môtíp truyền thống khi mô hình hoá kết cấu xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm.

Hoàn cảnh xuất hiện nhân vật chính : môtíp sinh nở thần kì hoặc đặc điểm lạ trên cơ thể, hoặc tài nầng nhân vật,…

Sự nghiệp của nhân vật chính : môtíp vũ khí thần kì, chiến công, sự nghiệp của nhân vật.

Kết thúc của truyền thuyết, nhân vật thường hoá thân, được thờ phụng, gia phong, có trường họp nhân vật hiển linh, phù trợ cho các nhân vật anh hùng đời sau. Chủ Đồng Tử hiển linh phù trợ Triệu Quang Phục, Bà Triệu hiển linh phù trợ đoàn quân của Quang Trung trên đường hành quân ra Bắc,…

Môi trường diễn xướng của truyền thuyết là lễ hội dân gian. Nếu những địa danh, đền đài, miếu mạo tồn tại dày đặc khắp noi ưên đất nước ta là vốn văn hoá vật thể vô cùng quý báu của dân tộc thì các truyền thuyết dân gian là linh hồn, là vốn văn hoá phi vật thể luôn lung linh toả sáng. Hai mặt này luôn luôn hoà quyện, không thể tách rời.


I. KHÁI NIỆM VỀ TRUYỀN THUYẾT:

1. Khái niệm

Truyền thuyết là những truyện kể truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại.

2. Phân biệt truyền thuyết với thần thoại và cổ tích :

a. Truyền thuyết và thần thoại:

Tiêu chí nhân vật chính:

Nhân vật chính trong thần thoại là thần hoặc bản thân. Nhân vật chính trong truyền thuyết giàu nhân tính hơn.

Tiêu chí nội dung:

Thần thoại nêu lên khát vọng hiểu biết, khám phá những hiện tượng của vũ thụ, loài người mang tính suy nguyên. Truyền thuyết thuyết tập trung vào những vấn đề xã hội.

Thời kỳ ra đời:

Thần thoại ra đời từ thời nguyên thủy. Truyền thuyết ra đời ở xã hội giai đoạn sau.

b. Truyền thuyết và cổ tích

Về cốt truyện và nhân vật:

Ðặc điểm nổi bật của cốt truyện và nhân vật cổ tích là tính hư cấu, tưởng tượng. Cốt truyện và nhân vật truyền thuyết có xu hướng bám sát lịch sử.

Về nội dung:

Truyện cổ tích phản ánh những xung đột trong gia đình và xã hội, đặc biệt là trong gia đình phụ quyền và xã hội phong kiến. Truyền thuyết hướng về đề tài lịch sử, nhân vật lịch sử.

Về kết thúc truyện:

Truyện cổ tích kết thúc có hậu hoặc không có hậu, nhân vật chính mãi mãi hạnh phúc hoặc trở thành biểu tượng của nhân phẩm. Truyền thuyết thường kết thúc mở, nhân vật vẫn tồn tại và sẽ tham gia vào những sự kiện mới của lịch sử.

3. Phân kỳ truyền thuyết :

Cơ sở để phân kỳ truyền thuyết : Dựa vào sự phân kỳ lịch sử xã hội và đặc điểm nội dung, nghệ thuật của truyền thuyết. Cần chú ý phân biệt truyền thuyết về một thời kỳ và truyền thuyết của một thời kỳ. Việc xác định truyền thuyết về một thời kỳ có thể dựa vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của tác phẩm truyền thuyết. Muốn biết truyền thuyết của một thời kỳ nào cần phải biết thời điểm ra đời của tác phẩm. Ðiều này là rất khó đối với chúng ta ngày nay.


Truyền thuyết Việt Nam gồm các thời kỳ sau : Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang, truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc, truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ, truyền thuyết về thời kỳ Pháp thuộc.

Câu 2

II. NỘI DUNG TRUYỀN THUYẾT:1. Truyền thuyết về họ Hồng Bàng và thời kỳ Văn Lang:

Họ Hồng Bàng mở đầu thời kỳ lập quốc của dân tộc ta kéo dài 2622 năm (2879tcn - 258tcn) , từ Kinh Dương Vương đến Lạc Long Quân và các đời Hùng Vương. Theo Ðại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên, cho đến thời vua Hùng cương vực nước Văn Lang trải rộng , phía đông giáp Nam Hải, phía tây đến Ba Thục, phía bắc đến hồ Động Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn ( nước Chiêm Thành).

Truyền thuyết về Họ Hồng Bàng là hệ thống truyền thuyết mang tính chất sử thi, phản ánh không khí anh hùng ca thời Hùng Vương dựng nước và trình độ khá văn minh của người Văn Lang. Các nhân vật Vua Hùng, Sơn Tinh ( Thần Tản Viên) Phù Đổng Thiên Vương là những biểu tượng của quốc gia Văn Lang trong thời kỳ đang lớn mạnh. Hình tượng Lạc Long Quân - Âu Cơ có ý nghĩa khái quát hoá cho công cuộc chinh phục tự nhiên mở mang bờ cõi của người Văn Lang.

Xem thêm: Bài 2 Kể Tên Các Hoạt Động Của Thư Viện, Kể Tên Các Hoạt Động Chính Của Thư Viện

Những truyền thuyết tiêu biểu trong chuỗi truyền thuyết về thời các vua Hùng : Lạc Long Quân – Âu Cơ, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng.

Nhân vật Hùng Vương không phải là nhân vật chính của từng truyện riêng nhưng lại là nhân vật nổi bật trong hệ thống truyện. Vua Hùng ( Hùng Vương thứ sáu, Hùng Vương thứ mười tám, Hùng Vương nói chung) là người đứng đầu quốc gia, vị vua có uy tín với con người, tiếp cận với thần linh, là biểu trưng của sức mạnh và tinh thần Văn Lang.

Yếu tố thần kỳ còn khá đậm đặc trong truyền thuyết thời kỳ này. Tuy nhiên, từ Lạc Long Quân đến Thánh Gióng phương pháp sáng tác thần thoại đã thay đổi một mức độ nhất định: Vai trò của thần linh cũng như tính chất siêu nhiên giảm xuống trong khi tính chất trần thế tăng lên. Lạc Long Quân là một vị thần, cuộc hôn phối của Lạc Long quân với Âu Cơ cũng mang tính chất phi thường. Khác với Lạc Long Quân, cho dù nhân vật Thánh Gióng còn mang những nét thần kỳ nhưng vẫn gần gũi với con người bình thường (có mẹ, sinh ra ở làng Phù Đổng, ăn cơm, cà) Mặt khác, từ Lạc Long Quân đến Thán h Gióng, truyền thuyết thời kỳ nầy cũng có sự thay đổi về đề tài, chủ đề: từ đề tài đấu tranh chinh phục thiên nhiên đến đề tài đấu tranh chống xâm lược. Nói tóm lại, từ ”Sơn Tinh Thuỷ Tinh” cho tới Thánh Gióng, truyền thuyết thời kỳ Văn Lang đã có sự biến đổi.

2. Truyền thuyết về thời kỳ Âu Lạc và Bắc Thuộc :

Nước Âu Lạc của An Dương Vương tồn tại khoảng 50 năm (257tcn - 208tcn) .Sở dĩ ta gắn thời kỳ Âu Lạc vào thời Bắc thuộc vì lịch sử Âu Lạc cũng như truyền thuyết An Dương Vương mang tính chất bi hùng. Thời kỳ Bắc thuộc hơn 10 thế kỉ (207tcn-938) là thời kỳ bị xâm lược và chiến đấu dành độc lập của dân tộc ta. Trong hơn một ngàn năm bị nô lệ, dân tộc ta đã không bị đồng hoá hay bị diệt vong như nhiều dân tộc trên thế giới, đó là điều hết sức phi thường.

Truyền thuyết thời kỳ này đã phản ánh và chứng minh được sức sống và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Nhờ có sức sống mãnh liệt và bản lĩnh cao, dân tộc ta đã vượt qua thời kỳ bị uy hiếp và thử thách gay go, lâu dài.

Truyền thuyết phản ánh cả lịch sử chiến thắng và lịch sử chiến bại của dân tộc. Nhiều truyền thuyết thời kỳ này mà trong đó truyện An Dương Vương là tiêu biểu, có kết cấu hai phần: phần đầu là lịch sử chiến thắng, phần sau là lịch sử chiến bại.

Truyền thuyết phản ánh được tất cả các cuộc vũ trang khởi nghĩa chống xâm lược thời kỳ Bắc Thuộc (Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí …).

Truyền thuyết thời kỳ này cho thấy tác giả dân gian nhận thức được dân tộc, nhận thức được bản chất kẻ thù ( chẳng hạn như bản chất tàn bạo, âm mưu thâm độc của các tên quan đô hộ như Tô Ðịnh, Mã Viện, Cao Biền…) và ngày càng đi sát lịch sử hơn (Bám sát lịch sử về nội dung cũng như hình thức biểu hiện : tên người, sự kiện …). Yếu tố thần kỳ tuy có giảm so truyền thuyết giai đoạn trước nhưng vẫn còn khá đậm đặc trong truyền thuyết giai đoạn nầy( An Dương Vương được Rùa Vàng giúp trừ ma quỷ ở núi Thất Diệu…,Hai Bà Trưng bay lên trời…)

3. Truyền thuyết về thời kỳ phong kiến tự chủ :

Về phương diện lịch sử, thời kỳ phong kiến tự chủ từ TK X đến TK XIX có những nét lớn như sau:

Từ TK X đến TK XV: giai cấp phong kiến Việt Nam xây dưng một quốc gia thống nhất, gìn giữ, củng cố nền độc lập dân tộc.

Từ TK. XVI đến TK XIX: sự suy sụp của các triều đại phong kiến và cuối cùng đi đến tan rã quốc gia phong kiến trước thế lực phương Tây.

Trong suốt chặng dài lịch sử nêu trên, dân tộc ta đã làm nên những chiến tích: nhà Trần ba lần đánh tan quân Nguyên-Mông, Lê Lợi quét sạch quân Minh ra khỏi cõi, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh ở phía Bắc và quân Xiêm ở phía Nam. Bên cạnh đó còn phải kể đến các cuộc nội chiến giữa những tập đoàn phong kiến và các phong trào nông dân khởi nghĩa chống lại triều đình.


Truyền thuyết thời kỳ nầy gồm các nhóm sau đây: Truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm ( Truyền thuyết về Yết Kiêu, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Trãi…),truyền thuyết về danh nhân văn hóa (Truyền thuyết về Chu Văn An, Trạng Trình…),truyền thuyết về lịch sử địa danh ( Sự tích Hồ Gươm, Sự tích núi Ngũ Hành…),truyền thuyết về anh hùng nông dân (Truyền thuyết về Chàng Lía, Quận He, Ba Vành…)

So với truyền thuyết thời kỳ trước, yếu tố hoang đường kỳ diệu trong truyền thuyết thời kỳ nầy giảm đi một mức đáng kể. Ðặc biệt, có những truyền thuyết về anh hùng nông dân không có yếu tố thần kỳ(Truyền thuyết về Hầu Tạo, Chàng Lía, Lê Văn Khôi…).

Hai nhóm truyền thuyết nổi bật của thời kỳ này là: truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm và truyền thuyết về anh hùng nông dân. Nhân vật anh hùng có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dân tộc sâu sắc, giàu lòng thương yêu nhân dân. Ðây là những nhân vật có tài năng phi thường, mang vẻ kỳ vĩ, siêu nhiên.

4. Ý nghĩa của truyền thuyết :

Về mặt lịch sư: Truyền thuyết là cơ sở cho các nhà sử học tham khảo về các giai đoạn lịch sử dân tộc.

Về mặt ý thức xã hội: Truyền thuyết giáo dục lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.

Về mặt văn học nghệ thuật: Truyền thuyết là nguồn cảm hứng cho nhà văn, nhà thơ sáng tác.

Câu 3

III. MẤY NÉT VỀ THI PHÁP TRUYỀN THUYẾT:

1. Cốt truyện và nhân vật:

Truyền thuyết không có kiểu cốt truyện hay như cổ tích. Cốt truyện thường gồm ba phần: hoàn cảnh xuất hiện nhân vật chính, sự nghiệp của nhân vật, chung cục thân thế của nhân vật.

Nhân vật trong truyền thuyết là nhân vật lịch sử được tái tạo. Tác giả dân gian hư cấu, sáng tạo trên nền lịch sử (thường là lý tưởng hóa những sự kiện, con người mà họ ca ngợi)

Nhân vật trong truyền thuyết cũng là hành động của nó như trong cổ tích và có số phận không thể đảo ngược so với sự thật lịch sử. Nhân vật chính có thể là nhân vật trung tâm của một truyện hoặc một chuỗi truyện.

2. Lời kể trong truyền thuyết:

Nhìn chung, lời kể trong truyền thuyết Việt Nam chưa có giá trị nghệ thuật cao như trong cổ tích và sử thi. Lời kể của một số truyền thuyết rút ra từ thần tích không còn giữ được chất dân gian.

Xem thêm: Toán 8 Bài Diện Tích Đa Giác, Hình Học 8 Bài 6: Diện Tích Đa Giác

Phần thực hành : (Bài tập dành cho sinh viên)

Phân tích một truyền thuyết (An Dương Vương, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Sự tích Hồ Gươm …).