Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

Chiến tranh lạnh là gì? Em hãy nêu hậu quả mà nó đem lại

Xuất bản ngày 06/04/2019 - Tác giả: Huyền Chu

Hãy cho biết chiến tranh lạnh là gì? Những biểu hiện của tình trạng Chiến tranh lạnh và hậu quả của nó mang lại cho thế giới

Chiến tranh Lạnh (1946–1989) là tình trạng tiếp nối xung đột chính trị, căng thẳng quân sự, và cạnh tranh kinh tế tồn tại sau Thế chiến II (1939–1945), chủ yếu giữa Liên bang Xô viết và các quốc gia đồng minh của họ, với các cường quốc thuộc thế giới phương Tây, gồm cả Hoa Kỳ.

Chiến tranh lạnh là gì?

Chiến tranh lạnh là chính sách thù địch của Mĩ và các nước đế quốc trong quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Biểu hiện của chiến tranh lạnh

- Mĩ và các nước đế quốc:

+ Ráo riết chạy đua vũ trang, tăng cường ngân sách quân sự, thành lập các khối quân sự, các căn cứ quân sự bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

+ Gây ra những cuộc chiến tranh đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

- Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa: buộc phải tăng ngân sách quốc phòng, củng cố khả năng phòng thủ của mình.

Hậu quả mà chiến tranh lạnh đã gây ra

- Thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, các cường quốc chi một khối lượng khổng lồ về tiền của và sức người để sản xuất các loại vũ khí hủy diệt, xây dựng hàng nghìn căn cứ quân sự mà bất cứ lúc nào cũng có nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới mới.

- Con người phải chịu đựng khó khăn do đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai, ô nhiễm môi trường... , chịu ảnh hưởng nặng nhất là các nước ở Châu Á, châu Phi.

» Tham khảo thêm:Nêu khái quát xu thế phát triển của thế giới ngày nay

-Giải lịch sử 9- Đọc Tài Liệu -

Chiến tranh lạnh đã để lại hậu quả nào lớn nhất tác động đến lịch sử nhân loại?


Câu 43716 Thông hiểu

Chiến tranh lạnh đã để lại hậu quả nào lớn nhất tác động đến lịch sử nhân loại?


Đáp án đúng: a


Phương pháp giải

Trật tự thế giới mới sau chiến tranh --- Xem chi tiết

...

Mục lục

  • 1 Lịch sử
  • 2 Những nguồn gốc của thuật ngữ
  • 3 Bối cảnh
  • 4 Thế chiến II và thời kỳ hậu chiến (1939–47)
    • 4.1 Quan hệ châu Âu đầu Thế chiến 2 (1939-41)
    • 4.2 Đồng minh chống Phe Trục (1941-45)
    • 4.3 Hậu chiến và những mâu thuẫn ban đầu
    • 4.4 Liên bang Xô Viết và sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản
      • 4.4.1 Albania và Bulgaria
      • 4.4.2 Tiệp Khắc
      • 4.4.3 Hungary và Romania
      • 4.4.4 Tây Đức và Đông Đức
      • 4.4.5 Phần Lan và Nam Tư
    • 4.5 Bức màn Sắt
  • 5 Chính sách chống Cộng của Mỹ, bắt đầu Chiến tranh Lạnh
  • 6 Chiến tranh Lạnh được "hâm nóng"
    • 6.1 Kế hoạch Marshall
    • 6.2 Viện trợ cho Tây Berlin
    • 6.3 Sự hình thành các khối liên hiệp
    • 6.4 Sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản
    • 6.5 Chiến tranh Lạnh và tác động trong lòng nước Mỹ
  • 7 Thập niên 1950
    • 7.1 Mỹ Latinh
    • 7.2 Châu Á
    • 7.3 Việt Nam
    • 7.4 Lào
    • 7.5 Trung Đông
    • 7.6 Sự kiện Hungary năm 1956
    • 7.7 Khủng hoảng kênh đào Suez 1956
  • 8 Thập niên 1960
    • 8.1 Sự kiện vịnh con Lợn và cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba
    • 8.2 Khủng hoảng Berlin năm 1961
    • 8.3 Mùa xuân Praha
    • 8.4 Chia rẽ Trung-Xô
    • 8.5 Mỹ Latinh
    • 8.6 Châu Á
    • 8.7 Châu Phi
  • 9 Cuộc chạy đua công nghệ giữa Mỹ và Liên Xô
    • 9.1 Vũ khí hạt nhân
    • 9.2 Tên lửa liên lục địa
    • 9.3 Công nghệ vũ trụ
  • 10 Thập niên 1970
    • 10.1 Hòa giải Trung-Mỹ
    • 10.2 Giảm căng thẳng
    • 10.3 Mỹ Latinh
    • 10.4 Châu Á
    • 10.5 Châu Phi
  • 11 Từ 1979 đến 1985
    • 11.1 Học thuyết Reagan
    • 11.2 Cuộc tập trận Able Archer năm 1983
    • 11.3 Châu Á
      • 11.3.1 Cách mạng Hồi giáo Iran
      • 11.3.2 Chiến tranh Liên Xô - Afghanistan
      • 11.3.3 Campuchia và Khmer Đỏ
    • 11.4 Mỹ Latinh
      • 11.4.1 Các nhóm phiến quân Contras
      • 11.4.2 Mỹ xâm lược Grenada
  • 12 Chấm dứt Chiến tranh Lạnh (1985–1991)
    • 12.1 Những cuộc cải tổ của Gorbachev
    • 12.2 Sự tan băng trong mối quan hệ
    • 12.3 Sự khủng hoảng của hệ thống Xô viết
    • 12.4 Liên Xô tan rã
  • 13 Di sản
  • 14 Đánh giá
  • 15 Xem thêm
  • 16 Chú thích
  • 17 Tham khảo
  • 18 Đọc thêm
  • 19 Liên kết ngoài

Lịch sử

Những nước tư bản phương Tây được dẫn dắt bởi Hoa Kỳ, một quốc gia theo thể chế cộng hòa liên bang với hệ thống chính trị đa đảng, cũng như những quốc gia First-World (chỉ những quốc gia liên kết chung với NATO hoặc chống lại Liên Xô trong Chiến tranh lạnh). Đại đa số các quốc gia First-World là các nước cộng hòa hoặc quân chủ lập hiến cũng với hệ thống chính trị đa đảng và những tổ chức độc lập, nhưng về mặt kinh tế và chính trị thì họ chi phối chặt chẽ một mạng lưới của những quốc gia cộng hòa kém phát triển và các chế độ độc tài khác, hầu hết trong số đó từng là các thuộc địa cũ của Khối phương Tây[1]. Liên Xô thì tuyên bố mình là một quốc gia theo Chủ nghĩa Marx-Lenin, áp dụng hệ thống chính trị độc đảng được lãnh đạo bởi một cấp lãnh đạo cao nhất là Xô viết tối cao và Bộ chính trị. Các Đảng cộng sản lãnh đạo toàn bộ quốc gia, báo chí, quân sự, kinh tế và những tổ chức địa phương khắp Second World (Second World chỉ những quốc gia vệ tinh hoặc đồng minh của Liên Xô), bao gồm những thành viên của Hiệp ước Warsaw và những quốc gia khác theo Hệ thống XHCN. Điện Kremlin đã tài trợ tiền của cho những đảng cộng sản hoặc cánh tả trên khắp thế giới, nhưng họ bị thách thức vị thế này bởi Cộng hòa nhân dân Trung Hoa của Mao Trạch Đông theo sau đó là sự chia rẽ Trung Quốc-Liên Xô vào khoảng những năm 1960. Gần như tất cả các quốc gia thuộc địa đã giành được độc lập trong khoảng thời gian 1945-1960, họ đã trở thành Third World (những quốc gia trung lập) trong Chiến tranh Lạnh.[1]

Ấn Độ, Indonesia và Nam Tư đã đi đầu trong việc thúc đẩy sự trung lập với Phong trào Không liên kết, nhưng các quốc gia này chưa bao giờ có nhiều tầm ảnh hưởng trên thế giới. Liên Xô và Hoa Kỳ chưa từng tham gia trực tiếp vào một cuộc chiến tranh vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện có thể xảy ra. Riêng Trung Quốc và Hoa Kỳ đã từng giao chiến với nhau trong một cuộc chiến tranh có thương vong cao tại Triều Tiên (1950-53) mà kết thúc với sự bế tắc cho cả hai bên. Mỗi bên đều có một chiến lược hạt nhân riêng nhằm ngăn cản một cuộc tấn công của phía bên kia, trên cơ sở một cuộc tấn công như vậy sẽ dẫn đến sự hủy diệt hoàn toàn của kẻ tấn công - "Học thuyết về sự hủy diệt lẫn nhau được đảm bảo" (MAD). Bên cạnh những phát triển kho vũ khí hạt nhân của cả hai bên, và triển khai của họ về lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh cho vị thế thống trị được thể hiện qua các cuộc chiến tranh ủy nhiệm trên toàn cầu, chiến tranh tâm lý, chiến dịch tuyên truyền, hoạt động gián điệp, cấm vận, sự ganh đua ở các môn thể thao tại những giải đấu và các chương trình công nghệ như Cuộc chạy đua vào không gian.

Giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh (1947-1953) khi chính quyền Mỹ ban hành ra Học thuyết Truman bắt đầu trong 2 năm đầu tiên sau khi kết thúc Thế chiến II (1945). Liên Xô củng cố sự kiểm soát của mình lên những quốc gia của khối Đông Âu, trong khi Hoa kỳ bắt đầu một chiến lược ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu, mở rộng quân sự và viện trợ tài chính tới những quốc gia Đông Âu (ví dụ như ủng hộ phe chống cộng sản trong Nội chiến Hy Lạp và thành lập liên minh quân sự NATO). Sự kiện phong tỏa Berlin (1948-49) là cuộc khủng hoảng ngoại giao lớn đầu tiên của Chiến tranh Lạnh. Với chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong Nội chiến Trung Quốc và sự bùng nổ của Chiến tranh Triều Tiên (1950-53), căng thẳng giữa hai bên đã lan rộng. USSR (Gọi tắt của Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết) và USA (Hoa Kỳ) đã cạnh tranh giành sự ảnh hưởng của mình tại những quốc gia Mỹ Latinh và những thuộc địa đang giành độc lập ở châu Phi và châu Á. Liên Xô đã dập tắt cuộc bạo động ở Hungari. Sự mở rộng và leo thang đã xảy ra lần lượt nhiều cuộc khủng hoảng ngoại giao lớn như Khủng hoảng Suez năm 1956, Khủng hoảng Berlin 1961 và Khủng hoảng tên lửa Cuba 1962, suýt nữa gây ra một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Trong thời gian đó, phong trào hòa bình quốc tế đã được thiết lập và phát triển giữa các công dân khắp thế giới, đầu tiên ở Nhật Bản từ năm 1954, khi người dân trở nên lo lắng về những vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, nhưng sớm lan rộng sang châu Âu và Hoa Kỳ. Phong trào hòa bình, và đặc biệt là phong trào chống lại vũ khí hạt nhân, đạt được tiến triển và được dân chúng ủng hộ nhiều hơn từ những năm cuối thập niên 1950, và đầu những năm 1960, và đã tiếp tục phát triển qua những năm của thập niên 70 và 80 với những cuộc tuần hành, biểu tình, và nhiều hoạt động phi nghị viện phản đối chiến tranh và kêu gọi phi hạt nhân hóa trên toàn cầu. Theo sau Khủng hoảng tên lửa Cuba, một giai đoạn mới đã bắt đầu đã cho thấy mối quan hệ phức tạp của sự chia rẽ Xô-Trung, trong khi những đồng minh của Hoa Kì, đặc biệt là Pháp đã rời khỏi NATO (Quay lại vào năm 2009). USSR đã dập tắt thành công phong trào Mùa xuân Prague 1968 của Tiệp Khắc, trong khi Hoa Kỳ đã trải nghiệm sự hỗn loạn khủng khiếp ngay trong nội bộ nước này bởi phong trào dân quyền, chống phân biệt chủng tộc và phản đối Chiến tranh Việt Nam (1955-1975), cuộc chiến mà Hoa Kỳ đã bước vào tham chiến sau khi Pháp buộc phải từ bỏ cai trị Việt Nam và Việt Nam bị tạm chia cắt thành 2 vùng tập kết quân sự năm 1954, rồi cuối cùng nó đã kết thúc với thất bại nặng nề của Hoa Kỳ và chế độ bản địa chống cộng ở Nam Việt Nam do Mỹ hậu thuẫn, Việt Nam thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa do đảng Cộng sản lãnh đạo năm 1976.

Những năm trong thập niên 1970, cả hai bên bắt đầu trở nên quan tâm hơn trong việc xem xét để tạo ra mối quan hệ quốc tế ổn định và dễ dự đoán hơn, mở đầu cho một giai đoạn lắng dịu (de'tence) bao gồm việc "Đàm phán giới hạn vũ khí chiến lược" và quan hệ cởi mở của Mỹ với Cộng hòa nhân dân Trung Hoa như một chiến lược đối trọng tới USSR. Sự lắng dịu đã sụp đổ tại những năm cuối thập niên 1970 với sự bắt đầu của Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan trong năm 1979. Những năm đầu thập niên 1980 là một giai đoạn đã gia tăng căng thẳng, với việc Liên Xô bắn hạ máy bay KSL-Filght-007 của Nam Triều Tiên và những đợt diễn tập quân sự Ablee Archer của NATO, cả hai đều ở năm 1983. Hoa Kỳ đã tăng sức ép kinh tế, ngoại giao, quân sự lên Liên Xô, vào thời điểm Liên Xô đã bị trì trệ kinh tế. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1982, một triệu người biểu tình đã tụ tập ở Công viên Trung tâm, New York để kêu gọi kết thúc chạy đua vũ trang, chiến tranh Lạnh và đặc biệt là giải trừ vũ khí hạt nhân. Giữa những năm 1980, lãnh đạo mới Mikhail Gorbachev đã đưa ra những sự cải cách tự do hóa perestroika (1987) (tên một hoạt động chính trị cho sự cải cách trong Đảng Cộng sản Liên Xô trong suốt những năm của thập niên 80) và glasnost (cởi mở, 1985) và kết thúc sự dính líu quân sự của Liên Xô vào Afghanistan năm 1979 rồi sau đó là sự thắng lợi của những người chống cộng Afganistan năm 1992. Sức ép về chủ quyền quốc gia đã lớn mạnh hơn trong Đông Âu, đặc biệt tại Phần Lan. Trong thời gian đó Gorbachev từ chối sử dụng quân đội Liên Xô để củng cố những chế độ trì trệ thuộc Khối Hiệp ước Warsaw như đã xảy ra trong quá khứ. Kết quả trong năm 1989 là một làn sóng cách mạng đã lật đổ tất cả những nhà nước thuộc khối XHCN của Trung và Đông Âu. Bản thân Đảng cộng sản Liên Xô đã mất sự kiểm soát và bị đình chỉ hoạt động sau một kế hoạch đảo chính chống Gorbachev sớm thất bại trong tháng 8 năm 1991. Điều này dẫn tới sự tan rã chính thức của Liên Xô vào tháng 12 năm 1991 và sự sụp đổ của những nhà nước thuộc khối XHCN trong những quốc gia khác như Mông Cổ, Campuchia, và Nam Yemen. Vì vậy, Hoa Kỳ trở thành siêu cường quốc duy nhất của thế giới.

Chiến tranh Lạnh và những sự kiện của nó đã để lại một sức ảnh hưởng đến tận ngày nay. Nó thường được nói tới trong văn hóa đại chúng (đặc biệt với thành công quốc tế của loạt sách và phim của thương hiệu James Bond) cũng như sự đe dọa của chiến tranh hạt nhân. Trong khi đó, một sự căng thẳng quốc gia lặp lại giữa quốc gia kế thừa Liên Xô là Nga, và Hoa Kỳ trong những năm sau 2010 (bao gồm những đồng minh phương Tây) và đặc biệt là sự gia tăng căng thẳng giữa cường quốc mới nổi là Trung Quốc với Mỹ và đồng minh phương Tây, đôi khi được nói đến với tên gọi "Chiến tranh lạnh lần 2" (tên tiếng Anh: Second Cold War).[2]

Hậu quả nặng nề, nghiêm trọng nhất mang lại cho thế

Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

Câu hỏi và phương pháp giải

Nhận biết

Hậu quả nặng nề, nghiêm trọng nhất mang lại cho thế giới trong suốt thời gian cuộc chiến tranh lạnh là?


A.

Các nước ráo riết, tăng cường chạy đua vũ trang .

B.

Thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, đối đầu, nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới .

C.

Hàng ngàn căn cứ quân sự được thiết lập trên toàn cầu .

D.

Các nước phải chi một khối lượng khổng lồ về tiền của và sức người để sản xuất các loại vũ khí hủy diệt .

Bạn hãy kéo xuống dưới để xem đáp án đúnghướng dẫn giải nhé.

Đáp án đúng: B

Lời giải của Luyện Tập 247

Cách giải nhanh bài tập này

(Sgk trang 60)

Chiến tranh lạnh là cuộc đối đầu căng thẳng giữa hai phe – tư bản chủ nghĩa do Mĩ đứng đầu và phe xã hôi chủ nghĩa do Liên Xô làm trụ cột. Chiến tranh lạnh đã diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực, từ chính trị, quân sự đến kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ..ngoại trừ sự xung đột trực tiếp bằng quân sự giữa hai xiêu cường. Tuy không nổ ra một cuộc chiến tranh thế giới, nhưng trong gần nữa thế kỉ của Chiến tranh lạnh, thế giới luôn trong tình trạng căng thẳng. Các cuộc chiến tranh cục bộ nổ ra ở nhiều khu vực như Đông Nam Á, Triều Tiên, Trung Đông,….

Chọn đáp án: B

Các câu hỏi liên quan

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Nguyên nhân cơ bản nhất đưa nền kinh tế Nhật Bản phát triển

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Những tờ báo tiến bộ của tầng lớp tiểu tư sản trí thức xuất

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Điểm giống nhau trong chính sách đối ngoại của các đời tổng

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Ph

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Trong khoảng hai thập niên đầu sau Chiến tranh thế giới thứ

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Giai cấp tư sản ViệtNam được thực dân Pháp đối xử như thế n

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Sự kiện nào đánh dấu giai cấp công nhân Việt Nam đi vào đấu

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Giai cấp nào có số lượng tăng nhanh nhất trong cuộc khai thá

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Vì sao trong quá trình khai thác thuộc địa lần thứ 2, tư bản

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Chính sách văn hóa, giáo dục mà Pháp thực hiện ở Việt Nam nh

Ý kiến của bạn Cancel reply

LuyenTap247.com

Học mọi lúc mọi nơi với Luyện Tập 247

© 2021 All Rights Reserved.

Tổng ôn Lý Thuyết

Câu hỏi ôn tập

Luyện Tập 247 Back to Top

Chiến tranh lạnh

Mục 1

1. Hoàn cảnh lịch sử

- Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Mĩ và Liên Xô nhanh chóng chuyển từ liên minh chống phát xít sang tình trạng ngày càng mâu thuẫn, đối đầu nhau gay gắt.

- Tháng 3-1947, Tổng thống Mĩ Truman chính thức phát động "Chiến tranh lạnh".

-Chiến tranh lạnh là chính sách thù địch về mọi mặt của Mĩ và các nước đế quốc trong quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.

Mục 2

2. Những biểu hiện của Chiến tranh lạnh

-Mĩ và các nước đế quốc ráo riết chạy đua vũ trang, tăng cường ngân sách quân sự, thành lập các khối quân sự cùng các căn cứ quân sự bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, tiến hành nhiều cuộc chiến tranh đàn áp cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc.

-Trước tình hình bị đe dọa đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa buộc phải tăng ngân sách quốc phòng, củng cố khả năng phòng thủ của mình.

- Những cuộc chiến tranh xâm lược liên tiếp sảy ra: Chiến tranh Việt Nam (1945 - 1975), chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), chiến tranh Afghanistan (1979 - 1989),...

Mục 3

3. Hậu quả

-Chiến tranh lạnh đã mang lại những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là:

+ Thế giới luôn trong tình trạng căng thẳng, thậm chí có lúc đứng trước nguy cơ bùng nó một cuộc chiến tranh thế giới mới.

+ Các cường quốc đã chi một khối lượng khổng lồ về tiền của và sức người để sản xuất các loại vũ khí hủy diệt, xây dựng hàng nghìn căn cứ quân sự. Trong khi đó, loài người vẫn phải chịu đựng bao khó khăn do đói nghèo, dịch bệnh, thiên tai... gây ra, nhất là các nước ở châu Á, châu Phi.

ND chính

Tóm tắt về Chiến tranh lạnh: hoàn cảnh lịch sử; nhữngbiểu hiện và hậuquảcủa Chiến tranh lạnh.

Sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy Chiến tranh lạnh

Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

Loigiaihay.com

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Thế giới sau chiến tranh lạnh

    Tóm tắt mục IV. Thế giới sau chiến tranh lạnh. Sau bốn thập niên chạy đua vũ trang quá tốn kém.

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Lý thuyết Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai

    Lý thuyết Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Hội nghị I-an-ta đã có những quyết định nào và hệ quả của các quyết định đó?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 45 SGK Lịch sử 9

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Những nhiệm vụ chính của Liên hợp quốc là gì?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 46 SGK Lịch sử 9

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Em hãy nêu lên những việc làm của Liên hợp quốc giúp nhân dân Việt Nam mà em biết

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 46 SGK Lịch sử 9

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và "Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam có điểm gì giống và khác nhau?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 142 SGK Lịch sử 9

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Vì sao thực dân Pháp và phát xít Nhật thỏa hiệp với nhau để cùng thống trị Đông Dương?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 82 SGK Lịch sử 9

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Mặt trận Việt Minh ra đời (19 - 5 - 1941)

    Tóm tắt mục I. Mặt trận Việt Minh ra đời (19 - 5 - 1941)

  • Hậu quả mà chiến tranh lạnh mang lại là gì

    Tại sao Nhật phải đảo chính Pháp?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 89 SGK Lịch sử 9

Hãy nêu những biểu hiện của tình hình “chiến tranh lạnh” và hậu quả của nó.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 11: Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai

- Một thời gian ngắn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ đã nhanh chóng chuyển từ đồng minh chống phát xít sang tình trạng mâu thuẫn, đối đầu nhau gay gắt. Đó là tình trạng "chiến tranh lạnh" giữa hai phe: tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, kéo dài trên 40 năm (1945 - 1989).

- Chiến tranh lạnh là chính sách thù địch về mọi mặt của Mĩ và các nước đế quốc trong quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mĩ và các nước đế quốc ráo riết chạy đua vũ trang, tăng cường ngân sách quân sự, thành lập các khối quân sự, các căn cứ quân sự bao quanh Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ; đồng thời gây ra những cuộc chiến tranh đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

- Chiến tranh lạnh đã gây ra những hậu quả hết sức nặng nề:

+ Thế giới luôn ở trong tình trạng căng thẳng, có lúc đứng trước nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới mới.

+ Các cường quốc đã chi một khối lượng khủng về tiền, của, sức người để sản xuất vũ khí hủy diệt, xây dựng căn cứ quân sự.

+ Loài người phải chịu khó khăn do nghèo đói, ô nhiễm môi trường, bệnh tật gây ra...

(Nguồn: trang 46 sgk Lịch Sử 9:)