Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Cái nôi sản sinh nhiều thế hệ công nhân ưu tú Thành lập năm 1906, tiền thân là Trường Cơ khí Á Châu, còn gọi là Trường Bá Nghệ, đến nay Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng có bề dày hơn 100 năm trong sự nghiệp trồng người, đào tạo nhân lực phục vụ đất nước.

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy
Tượng đài Chủ tịch Tôn Đức Thắng hiện diện trong khuôn viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Ảnh: Xuân Khu – TTXVN
Đây cũng là cái nôi đào tạo ra nhiều nhà yêu nước, anh hùng cách mạng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngôi trường này cũng chính là nơi đã đào tạo người học sinh Cơ khí tàu biển Tôn Đức Thắng vào năm 1915 -1917. Theo tài liệu của trường, đây cũng là nơi người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã theo học ba tháng trước khi ra đi tìm đường cứu nước.   Ngày 20/4/1919, người thợ cơ khí tàu biển Tôn Đức Thắng – cựu học sinh ưu tú của trường đã tham gia sự kiện kéo lá cờ phản chiến trên Chiến hạm France thuộc Hạm đội Pháp ở biển Hắc Hải ủng hộ Cách mạng tháng Mười Nga. Kể từ năm 1985, ngày này hàng năm trở thành ngày truyền thống nhà trường nhằm nhắc nhở các thế hệ lãnh đạo, sinh viên nhà trường tiếp tục nỗ lực vươn lên, phát huy xứng đáng truyền thống thế hệ cha anh.   Theo tư liệu của nhà trường, đây là một trong những ngôi trường dạy nghề đầu tiên ở Nam bộ được Toàn quyền Đông Dương ra quyết định thành lập. Thực dân Pháp xây dựng trường nhằm đáp ứng yêu cầu của bộ máy thuộc địa và các xí nghiệp của người Pháp, nhưng cũng chính nơi đây đã sản sinh ra nhiều chiến sĩ cách mạng; các thế hệ học sinh trường tích cực tham gia các phong trào cách mạng.   Truyền thống yêu nước của học sinh Trường Cơ khí Á Châu đã hình thành từ sớm, tham gia các phong trào cách mạng từ cuộc kháng chiến chống Pháp rồi đến chống Mỹ. Trong các thời kỳ đấu tranh cách mạng, các thế hệ học sinh Cao Thắng luôn là lực lượng nòng cốt trong phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh Sài Gòn - Gia Định, góp phần vào sự nghiệp giành độc lập, thống nhất đất nước. Trường Cao Thắng trở thành điểm hội tụ liên kết, ngọn cờ hiệu triệu, chỗ dựa cho việc hình thành các trung tâm công khai chung của học sinh Sài Gòn. Khi đất nước hòa bình, những thế hệ sinh viên học tập, trưởng thành từ Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng luôn đi đầu, nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong các cơ quan, đơn vị, nắm giữ trọng trách xây dựng và phát triển đất nước.
Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy
Học bạ của học sinh Tôn Đức Thắng tại trường Cơ khí Á Châu (1915-1917), (nay là Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng) được trưng bày tại phòng truyền thống nhà trường. Ảnh: Xuân Khu – TTXVN
Để mọi sinh viên hiểu về truyền thống, tiếp bước các thế hệ cha anh, anh Lê Hiếu Để - Bí thư Đoàn Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng cho biết, trường thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục truyền thống trong sinh viên. Đặc biệt, ngay từ buổi đầu bước chân vào nhà trường, các tân sinh viên đã được trải nghiệm Hành trình xuyên bảo tàng đi qua các Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Tôn Đức Thắng. Qua đó, các bạn hiểu biết thêm về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ, Bác Tôn, hai người học sinh ưu tú đã từng học tại trường. Hay các buổi sinh hoạt Chi đoàn chủ điểm về giáo dục truyền thống, về Bác Tôn, Bác Hồ, cũng là một trong những hình thức sinh động để sinh viên thêm hiểu và tự hào về truyền thống.   Bản thân cũng là một cựu sinh viên của trường, anh Để chia sẻ: Với tôi, truyền thống vẻ vang trong các chặng đường lịch sử của nhà trường luôn nhắc nhở các thế hệ sinh viên tiếp nối, phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, giỏi nghề, phục vụ đất nước.   Ông Nguyễn Công Thành, Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng cho biết, trong quá trình phát triển, nhà trường luôn đồng hành cùng đất nước trong các giai đoạn đấu tranh cách mạng cũng như xây dựng và phát triển đất nước ngày nay; hướng tới thực hiện phương châm “Đoàn kết - Yêu nước - Giỏi nghề” mà các thế hệ lãnh đạo và sinh viên nhà trường đã thực hiện. Các thế hệ sinh viên nhà trường kế tục và phát huy xứng đáng truyền thống trường nghề, vừa giỏi lý thuyết vừa rèn luyện tay nghề, trui rèn nhiều thế hệ sinh viên có ý thức, có kỷ luật và có kỹ thuật phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.  

Tự hào ngôi trường mang tên Bác Tôn

Hơn 20 năm trước, ngôi trường đại học mang tên Bác Tôn tại Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập với tên gọi ban đầu là Trường Đại học Công nghệ dân lập Tôn Đức Thắng, do Liên đoàn Lao động Thành phố Hồ Chí Minh sáng lập và quản lý, nhằm thực hiện mục tiêu chính là đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, tay nghề cho lực lượng công nhân thành phố.
Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy
Tượng đài Chủ tịch Tôn Đức Thắng hiện diện trong khuôn viên Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Ảnh: Xuân Khu – TTXVN
Cũng vì mục tiêu đó mà ngôi trường này được mang tên Bác Tôn - người công nhân ưu tú, người lãnh đạo đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và của công nhân thành phố nói riêng. Trong suốt quá trình phát triển, thay đổi tên và mô hình quản lý, từ Đại học Công nghệ dân lập Tôn Đức Thắng đến Đại học bán công Tôn Đức Thắng và nay là Đại học Tôn Đức Thắng, trong sự nghiệp trồng người nhà trường luôn gắn với tên Bác Tôn.   “Tự lực cánh sinh” ngay từ khi mới ra đời, nhưng mới bước qua tuổi 20, nhà trường đã trở thành một trong những ngôi trường có cơ sở vật chất hiện đại nhất cả nước, đáp ứng yêu cầu học tập và rèn luyện của sinh viên nhà trường. Trường hiện đào tạo theo Chương trình TOP 100 với toàn bộ nội dung, chương trình, giáo trình học của trường đều nghiên cứu, ứng dụng từ các đại học trong TOP 100 thế giới. Sản phẩm đào tạo được xã hội đánh giá tốt, tỷ lệ sinh viên ra trường có việc làm sau một năm đạt 99%.   Cùng với đó, công tác giáo dục truyền thống, đặc biệt là tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác Tôn - vị Chủ tịch nước mà trường vinh dự được mang tên luôn được chú trọng. Vào đầu mỗi khóa học, trường tổ chức tuần lễ sinh hoạt công dân, với nhiều hoạt động giáo dục truyền thống, trong đó đặc biệt là về cố Chủ tịch Tôn Đức Thắng. Tại tất cả các cơ sở của nhà trường đều có sự hiện diện của Tượng đài Bác Tôn và nơi thờ phụng Bác. Đây là một trong những cách để giới thiệu, giáo dục truyền thống để giảng viên, học viên biết được cội nguồn của nhà trường.   Tự hào được học ở ngôi trường mang tên Bác Tôn, em Phạm Nguyễn Bạch Trân, sinh viên năm thứ 4, Khoa Ngoại ngữ, chia sẻ: Cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Tôn là một tấm gương về lòng trung thành, tận tụy, đức tính khiêm tốn, giản dị, nhất là tinh thần trách nhiệm cao trong phụng sự đất nước. Học tập Bác Tôn, em luôn tự nhủ rằng, bản thân phải nỗ lực, trau dồi, chuẩn bị mọi mặt từ kiến thức, kỹ năng, để đóng góp cho xã hội, cho sự phát triển của đất nước.   Ông Nguyễn Ngọc Sơn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tôn Đức Thắng cho biết: Vinh dự được mang tên Bác Tôn, suốt hơn 20 năm hình thành và phát triển, nhà trường luôn nỗ lực phấn đấu để xứng đáng với danh xưng, tên gọi và uy tín của vị Chủ tịch nước kính yêu, người đại diện cho giai cấp công nhân Việt Nam và là bạn chiến đấu của Bác Hồ. Mục tiêu trong 20 năm kế tiếp, trường sẽ trở thành một đại học nghiên cứu thuộc top 60 trường đại học tốt nhất châu Á, trở thành một đại học hàng đầu trong top 500 trường đại học tốt nhất thế giới.
Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy
Góc phòng truyền thống trưng bày các tư liệu liên quan đến Bác Hồ và Bác Tôn tại trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng. Ảnh: Xuân Khu - TTXVN

“Sản phẩm đào tạo của trường là những sinh viên có kỷ luật nghiêm, đạo đức tốt, chuyên môn giỏi và sẵn sàng phụng sự đất nước. Đúng như mong muốn của Chủ tịch Tôn Đức Thắng đối với lực lượng công nhân, nhà trường không chỉ là nơi cung cấp kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, mà còn cả ý thức, tác phong công nghiệp trong lao động”, ông Nguyễn Ngọc Sơn chia sẻ.  

Những ngôi trường vinh dự mang dấu ấn về cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng của “người thợ cả” của giai cấp công nhân Việt Nam – Chủ tịch Tôn Đức Thắng, đang từng ngày tiếp bước truyền thống, đóng góp cho sự nghiệp trồng người, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước./.

Tôn Đức Thắng (20 tháng 8 năm 1888 - 30 tháng 3 năm 1980) là một nhà cách mạng, chính khách của Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam (từ ngày 22 tháng 9 năm 1969 đến khi qua đời); trước đó là Phó Chủ tịch nước (1960-1969) và Quyền Chủ tịch nước (từ 2 tháng 9 cho đến 22 tháng 9 năm 1969), Trưởng ban Thường trực Quốc hội (1955-1960) - tương đương với Chủ tịch Quốc hội bây giờ.

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy
Tôn Đức Thắng

Tôn Đức Thắng năm 1960

Chức vụ

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (trước 1976)
Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau 1976)

Nhiệm kỳ23 tháng 9 năm 1969 – 30 tháng 3 năm 1980 (mất)
10 năm, 189 ngàyTiền nhiệmHồ Chí Minh
Nhà nước thống nhấtKế nhiệmNguyễn Hữu Thọ (Quyền)
Trường ChinhPhó Chủ tịch
  • Nguyễn Lương Bằng (1969-1979)
  • Nguyễn Hữu Thọ

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh
Tổng tư lệnh các Lực lượng Vũ trang Nhân dân Việt Nam

Nhiệm kỳ23 tháng 9 năm 1969 – 30 tháng 3 năm 1980
10 năm, 189 ngàyTiền nhiệmHồ Chí MinhKế nhiệmTrường Chinh

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Quyền Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Nhiệm kỳ2 tháng 9 năm 1969 – 22 tháng 9 năm 1969
21 ngàyTiền nhiệmHồ Chí MinhKế nhiệmNhà nước thống nhất

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Phó Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Nhiệm kỳ15 tháng 7 năm 1960 – 23 tháng 9 năm 1969
9 năm, 69 ngàyTiền nhiệmNguyễn Hải ThầnKế nhiệmNguyễn Lương Bằng

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Trưởng ban Thường trực Nghị viện Nhân dân

Nhiệm kỳ20 tháng 9 năm 1955 – 15 tháng 7 năm 1960
5 năm, 93 ngàyTiền nhiệmBùi Bằng ĐoànKế nhiệmTrường ChinhPhó Trưởng banTôn Quang Phiệt

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Chủ tịch Đoàn Chủ tịch
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

Nhiệm kỳ10 tháng 9 năm 1955 – 31 tháng 1 năm 1977
21 năm, 143 ngàyTiền nhiệmbản thân (Chủ tịch Mặt trận Liên Việt)Kế nhiệmHoàng Quốc Việt

Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Mặt trận Liên Việt

Nhiệm kỳ3 tháng 3 năm 1951 – 10 tháng 9 năm 1955
4 năm, 191 ngàyTiền nhiệmđầu tiênKế nhiệmbản thân (Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc)

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Quyền Trưởng ban
Thường trực Nghị viện Nhân dân

Nhiệm kỳ1 tháng 8 năm 1948 – 20 tháng 9 năm 1955
7 năm, 50 ngàyTrưởng banBùi Bằng Đoàn (chữa bệnh)

Thanh tra Đặc biệt Toàn quốc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Nhiệm kỳ4 tháng 8 năm 1947 – 18 tháng 12 năm 1949
2 năm, 136 ngàyTiền nhiệmBùi Bằng ĐoànKế nhiệmHồ Tùng Mậu

Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội

Nhiệm kỳ8 tháng 11 năm 1946 – 20 tháng 9 năm 1955
8 năm, 316 ngàyTrưởng banBùi Bằng Đoàn

Thông tin chung

Sinh20 tháng 8 năm 1888
làng Mỹ Hòa Hưng, tổng Định Thành, hạt Long Xuyên, Nam Kỳ, Liên bang Đông DươngMất30 tháng 3, 1980(1980-03-30) (91 tuổi)
Hà NộiNơi ởHà NộiDân tộcKinhTôn giáokhôngĐảng pháiĐảng Cộng sản Việt NamVợĐoàn Thị GiàuCon cái
  • Tôn Thị Hạnh (con gái, s.1926)
  • Tôn Thị Nghiêm (con gái, đã mất)
  • Tôn Đức Liêm (1929-1932)
  • Tôn Thị Ngọc Quang (con gái nuôi, s.1927)
  • Tôn Thị Tuyết Dung (con gái nuôi)

Đồng chí Tôn Đức Thắng từng theo học tại trường Cơ khí Châu á khóa máy

Tượng đài Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại trung tâm thành phố Long Xuyên

Sau khi kế nhiệm Hồ Chí Minh, ông trở thành Chủ tịch nước thứ 2 và cũng là Chủ tịch nước cuối cùng của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là Chủ tịch nước đầu tiên của chính thể sau đó - Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tôn Đức Thắng còn có bí danh Thoại Tôn, sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888 tại Cù lao Ông Hổ, làng Mỹ Hoà Hưng, tổng Định Thành, hạt Long Xuyên (nay thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Nơi thường trú tại quận Nam Từ Liêm, thủ đô Hà Nội. Là con đầu của ông Tôn Văn Đề, và bà Nguyễn Thị Dị. Gia đình đông con, theo thông lệ miền Nam, ông còn được gọi là Hai Thắng.

Gia đình ông thuộc hạng nông dân khá giả nên từ nhỏ ông đã được học hành đàng hoàng. Năm 1906, sau khi tốt nghiệp Sơ cấp tiểu học Đông Dương (Certificat d'Etudes Primaires Complémentaires Indochinoises - CEPCI) tại Long Xuyên, ông rời quê lên Sài Gòn học nghề thợ máy tại Trường Cơ khí Á Châu (L’école des Mécaniciens Asiatiques), dân gian thường gọi là Trường Bá Nghệ. Tốt nghiệp hạng ưu, ông được nhận vào làm công nhân ở Nhà máy Ba Son của Hải quân Pháp tại Sài Gòn.

Năm 1912, ông tham gia tổ chức công nhân bãi công đòi quyền lợi, vì vậy bị sa thải. Năm 1913, ông sang Pháp làm công nhân ở Toulon (Pháp). Năm 1914, ông được tuyển mộ làm lính thợ cho một đơn vị Hải quân Pháp, tham gia phản chiến chống lại cuộc can thiệp của Đế quốc Pháp vào nước Nga Xô Viết tại Hắc Hải (ngày 20 tháng 4 năm 1919), treo cờ đỏ trên một thiết giáp hạm của Pháp tại đây để ủng hộ Cách mạng Nga.[1]

Năm 1920, ông về nước, xây dựng cơ sở công hội (tiền thân của Công đoàn Việt Nam), vận động công nhân đấu tranh, tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân Ba Son từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1925, quyết tâm trì hoãn việc sửa chữa chiếc Đô đốc hạm Jules Michelet trong đoàn tàu chiến Pháp đang trên đường sang Trung Quốc.[2]

Năm 1927, ông tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, là Ủy viên Ban Chấp hành Thành bộ Sài Gòn và Kỳ bộ Nam Kỳ, và được phân công trực tiếp phụ trách phong trào công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Ông bị thực dân Pháp bắt ở Sài Gòn (1928), cảnh sát thực dân Pháp gán cho ông vào tội chủ mưu giết người trong vụ ám sát một người hợp tác với chính quyền thuộc địa Nam Kỳ tên là Phát do các đồng chí của ông thực hiện, đường Barbier (nay là đường Thạch Thị Thanh). Nhờ có một đồng chí trẻ tự nhận là chủ mưu, cùng với sự vận động của một số nhân sĩ trí thức người Việt như bà Trần Thị Cừu, Đốc học Nguyễn Văn Bá, luật sư Trịnh Đình Thảo, nên ông chỉ bị chính quyền thuộc địa tuyên án chung thân khổ sai, đày ra Côn Đảo.[3] Có tổng cộng hơn 60 người bị bắt trong vụ án này, theo hồi ký Passion, Betrayal, and Revolution in Colonial Saigon: The Memoirs of Bao Luong, của bà Nguyễn Trung Nguyệt (Bảo Lương).

Năm 1930, ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Côn Đảo.

Theo ông Christoph Giebel,[4] giáo sư khoa Sử tại Đại học Washington, Hoa Kỳ và là tác giả cuốn sách nghiên cứu về ông Tôn Đức Thắng ("Tiền bối tưởng tượng của những nhà Cộng sản Việt Nam: Tôn Đức Thắng và chính trị của lịch sử và ký ức" - Imagined Ancestries of Vietnamese Communism: Ton Duc Thang and the Politics of History and Memory[5]) cho rằng "không có bằng chứng cho thấy ngay từ thời rất trẻ, thậm chí trước cả thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông Tôn đã hoạt động rất tích cực trong các hoạt động cách mạng tại Sài Gòn", ông Tôn không bị bắt lính sang Pháp năm 1914 mà được tuyển mộ. Trong sự kiện ở Hắc Hải năm 1919, Giebel "tin rằng ông Tôn Đức Thắng không có mặt trên bất kì con tàu nào của Pháp liên quan vụ binh biến ở Hắc Hải", bộ máy tuyên truyền đã dùng hình ảnh ông Tôn cắm cờ trên một trong những con tàu ở Hắc Hải để kết nối cách mạng Việt Nam với Cách mạng tháng Mười Nga. Trong cuộc đình công ở Ba Son năm 1925, theo Giebel không phải là một cuộc đình công chính trị với mục đích chống đế quốc, và cũng không "giam chân" được chiến hạm Pháp trên đường đến Trung Quốc.[6]

Sau Cách mạng tháng 8

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến, giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (1945). Ông là Phó ban Thường trực Quốc hội (1946-1955), Quyền Trưởng ban (1948-1955) rồi Trưởng ban Thường trực Quốc hội (1955-1960), tương đương Chủ tịch Quốc hội sau này. Ông là Đại biểu Quốc hội liên tục các khóa I-VI.

Về mặt chính quyền, ông là Bộ trưởng Bộ Nội vụ (tháng 5 năm 1947-tháng 11 năm 1947); Thanh tra đặc biệt toàn quốc (tháng 8 năm 1947), Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1960-1969), Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1969-1976) và sau này là Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976-1980).

Về mặt Đảng, ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1947, và khóa II đến khóa IV, nhưng không tham gia bộ chính trị.

Về mặt đoàn thể, ông là Phó hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (1946-1951), Chủ tịch Ủy ban Toàn quốc Mặt trận Liên Việt (1951-1955), Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1955-1977), Chủ tịch danh dự Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1977-1981). (Kế nhiệm ông tại Mặt trận là ông Hoàng Quốc Việt).

Trong các văn kiện của nhà nước Việt Nam, báo chí của Nhà nước, giai đoạn ông làm Chủ tịch nước, tên ông bao giờ cũng được đặt lên đầu, trên cả Tổng bí thư Lê Duẩn và các lãnh đạo khác.

Ông qua đời ngày 30 tháng 3 năm 1980 tại nhà riêng Hà Nội.

Ông kết hôn với bà Đoàn Thị Giàu (sinh năm 1898 tại ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang; mất ngày 25 tháng 5 năm 1974) vào năm 1921 ở nhà ông bà ngoại của bà Giàu ở xã Vĩnh Kim, Tiền Giang. Đây là cuộc hôn nhân có ý nghĩa đền ơn trả nghĩa vì ông đã giúp an táng ông Ba Sứ, anh trai bà Giàu, một người bạn của ông ở Pháp.[7] Bà Đoàn Thị Giàu là cô giáo trường làng.[8]

Hai người sinh được hai con gái, con gái đầu là Tôn Thị Hạnh, sinh năm 1924[9] và con gái thứ hai là Tôn Thị Nghiêm, sinh năm 1928. Đầu năm 1929, hai ông bà sinh con trai thứ ba tên là Tôn Đức Liêm, nhưng Liêm đã qua đời lúc 3 tuổi vì bị bệnh nặng.[7][8][10]

Bà Tôn Thị Hạnh kết hôn với ông Dương Văn Phúc, nguyên là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, vào năm 1950.[7][9] Sau ngày toàn quốc kháng chiến 19 tháng 12 năm 1946, Tôn Thị Hạnh và Tôn Thị Nghiêm theo cha lên chiến khu Việt Bắc. Tôn Thị Hạnh làm văn thư lưu trữ còn Tôn Thị Nghiêm làm điện báo viên ở Văn phòng Trung ương.[7]

Bà Tôn Thị Nghiêm kết hôn với ông Tưởng Bích Trúc, Phó Tiến sĩ, Chủ nhiệm khoa Đại học Y Hà Nội. Vợ chồng bà Tôn Thị Nghiêm đã mất vào thập niên 1980, ít năm sau khi Tôn Đức Thắng qua đời.[7] Hai người có ba con gái (Tưởng Bích Vân, Tưởng Bích Hà và Tưởng Hoài Nam).[11]

Năm 1946, Tôn Đức Thắng nhận nuôi hai người con gái nuôi là Tôn Thị Ngọc Quang, sinh năm 1927 (không phải họ Tôn, sau 1954 đổi sang họ Tôn) và Tôn Thị Tuyết Dung, sinh năm 1933 [12][13]. Bà Tôn Thị Ngọc Quang làm y tá ở một Viện quân y ở huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, và kết hôn với Nguyễn Thanh Phúc, quê Quảng Trị, chiến sĩ tình nguyện Việt Nam tại Lào. Hai người có một con gái (Nguyễn Thanh Thanh) và hai con trai (Nguyễn Thanh Bình và Nguyễn Thanh Phong).[10]

Ông được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng năm 1958, nhân dịp ông 70 tuổi và là người đầu tiên được tặng Huân chương này.[cần dẫn nguồn]

Ông được Hồ Chí Minh ca ngợi là "gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân." Trong dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của ông, đoàn Chủ tịch Quốc hội Mông Cổ đã trao tặng Chủ tịch Tôn Đức Thắng Huân chương Xukhe Bato - huân chương cao quý nhất của Mông Cổ.[14]

 

Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Long Xuyên

Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng Hòa bình Quốc tế Lenin do Chính phủ Liên bang Xô viết trao tặng.[15][16]

Tên ông được đặt cho một đường phố ở thành phố Odessa, Ukraina vì liên quan đến sự kiện phản chiến ở Hắc Hải,[17] và cũng là tên của một trường đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều con đường ở Việt Nam cũng được đặt tên theo tên ông.

Tên gọi Tôn Đức Thắng cũng được đặt cho một giải thưởng cấp thành phố của Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh những công nhân, kỹ sư có thành tích đặc biệt trong lao động và sản xuất.

Vào dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông (20/8/1888 - 20/8/1988), Nhà nước Việt Nam đã cho thành lập một bảo tàng với tên gọi ban đầu là "Nhà trưng bày cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng" tại Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó được đổi tên thành Bảo tàng Tôn Đức Thắng, bảo tàng này trước đây là tư dinh của Trần Thiện Khiêm, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Hiện nay, Khu lưu niệm chủ tịch Tôn Đức Thắng ở An Giang cũng đã được Thủ tướng chính phủ Việt Nam xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt.

Phim Tổ quốc tiếng gà trưa- biên kịch Nguyễn Quang Sáng, đạo diễn Nguyễn Huy Thành.

Đường Tôn Đức Thắng tại Việt Nam

Tên ông đặt cho đường phố ở Hà Nội (nối Chu Văn An với Nguyễn Lương Bằng), Thành phố Hồ Chí Minh (nối Đinh Tiên Hoàng đến đoạn cắt Võ Văn Kiệt - Hàm Nghi), Hải Phòng (từ ngã tư Tô Hiệu và Trần Nguyên Hãn đến đường Hùng Vương), Đà Nẵng (nối Nguyễn Lương Bằng với Điện Biên Phủ), Đồng Hới (từ ngã tư Trần Hưng Đạo, Xuân Diệu và Hoàng Diệu đến đường Hà Huy Tập), Thành Phố Pleiku (Nối Ngô Quyền Và Phạm Hùng Với Lê Đại Hành Và QL14).

Bảo tàng

Bảo tàng Tôn Đức Thắng đặt tại Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, là nơi lưu giữ nhiều hình ảnh, tư liệu về Tôn Đức Thắng, phục vụ nhu cầu thăm viếng và tưởng nhớ của người dân các tỉnh, thành phía Nam[18]. Một số tỉnh, thành gần đây cũng có xây dựng các phòng trưng bày về Tôn Đức Thắng, nhưng ở quy mô nhỏ hơn.

  • Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng

  1. ^ “Chủ tịch Tôn Đức Thắng trọn đời nêu gương sáng”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2013.
  2. ^ Bác Tôn - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, người bạn chiến đấu thân thiết của Bác Hồ, bài viết của Nguyễn Minh Triết
  3. ^ Người lãnh án tử hình thay bác Tôn, Trang thông tin điện tử báo Pháp luật TP.HCM
  4. ^ Giebel Lưu trữ 2009-04-20 tại Wayback Machine là một giáo sư tại Đại học Washington, chuyên gia về Đông Nam Á/Việt Nam. Chuyên gia về Tôn Đức Thắng vì Luận án tiến sĩ của ông tại Đại học Cornell là về Tôn Đức Thắng, thắng giải "Cornell Southeast Asia Program Lauriston Sharp" năm 1996 và ông đã xuất bản một số bài viết, nghiên cứu về nhân vật này. Quyển Imagined Ancestries of Vietnamese Communism dựa vào luận án tiến sĩ của ông, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Đại học Washington. Quyển này được review trong một số tạp chí chuyên ngành như Journal of Cold War Studies và Graduate studies of Asian-Pacific Studies[liên kết hỏng]. Quyển này cũng được Sophie Quinn-Judge dùng làm nguồn tham khảo trong quyển tiểu sử Hồ Chí Minh và khoảng 50 công trình hàn lâm khác
  5. ^ (tiếng Anh) “Tiền bối được tô vẽ của những nhà Cộng sản Việt Nam: Tôn Đức Thắng với lịch sử và ký ức bị chính trị hoá”. Tạp chí lịch sử Canada. Truy cập Số mùa thu, 2006. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  6. ^ “Trường hợp ông Tôn Đức Thắng”. BBC Việt ngữ. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2003.
  7. ^ a b c d e “Đòn gánh lưng cong”. Báo An ninh Thế giới. 24 tháng 3 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  8. ^ a b “Người vợ giản dị của Chủ tịch Tôn Đức Thắng”. Báo điện tử Phụ nữ Việt Nam. 16 tháng 1 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  9. ^ a b D.Thu (19 tháng 10 năm 2011). “Lãnh đạo CĐ thăm hỏi con gái Bác Tôn”. Báo Người lao động. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  10. ^ a b Dương Đức Quảng (14 tháng 4 năm 2008). “Tấm vải và lá thư của Bác Tôn”. Báo An ninh Thế giới. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  11. ^ Dương Đức Quảng (Nguyên Vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí - VPCP) (18 tháng 8 năm 2015). “Người lái xe của Bác Hồ và Bác Tôn”. Báo điện tử Văn phòng Chính phủ. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  12. ^ “Trưng bày "Cuộc đời và sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng"”. Bảo tàng Tôn Đức Thắng. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  13. ^ Linh Đoan (23 tháng 10 năm 2010). “Triển lãm "Mẫu phác thảo tượng Bác Hồ - Bác Tôn"”. Báo Tuổi trẻ. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  14. ^ “Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng (thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang)”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2017. Truy cập 7 tháng 2 năm 2015.
  15. ^ Bài viết về Tôn Đức Thắng trên bách khoa toàn thư Britannica
  16. ^ О присуждении международных Сталинских премий "За укрепление мира между народами" за 1955 год. Pravda. Dec 21, 1955, page 1
  17. ^ Đặt lại tên Tôn Đức Thắng cho một phố ở Odessa Lưu trữ 2013-12-24 tại Wayback Machine, Báo Lao động số 97, ngày 06.04.2004
  18. ^ Nguyễn, Thành Luân (báo Đại Đoàn Kết). “Kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng”.

  • Tôn Đức Thắng tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Trường hợp ông Tôn Đức Thắng - đài BBC phỏng vấn giáo sư Christoph Giebel
  • Những ngày tôi làm thầy thuốc riêng cho Bác Tôn - Trần Hữu Nghiệp
  • Chủ tịch Tôn Đức Thắng - Tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng Lưu trữ 2009-10-19 tại Wayback Machine
  • Bác Tôn với Cách mạng tháng Mười Nga
  • Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Bác Tôn Lưu trữ 2009-04-18 tại Wayback Machine

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tôn_Đức_Thắng&oldid=69079516”