Dòng chảy tư tưởng kinh tế của nhân loại là gì

Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng ta, phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác nói riêng, Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung mãi mãi là kim chỉ nam cho hành động của cách mạng, đã, đang và sẽ tiếp tục đem lại những thắng lợi vẻ vang trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bài 1:Phương pháp kế thừa tri thức nhân loại - Nét đặc sắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin

Nghiên cứu toàn diện và sâu sắc đồng thời tiếp thu có phê phán, chọn lọc toàn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng là đặc điểm nổi bật trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác.

Trước Mác, các nhà tư tưởng hoặc là kế thừa một cách rập khuôn, giáo điều hoặc là phủ định sạch trơn, do vậy lịch sử tư tưởng nhân loại trước Mác đều có những hạn chế nhất định. Mác và Ăng-ghen đã vượt lên tất cả những hạn chế của lịch sử tư tưởng trước đó bằng cách kế thừa toàn bộ tinh hoa tri thức nhân loại, đồng thời phê phán, phủ định những hạn chế của những tư tưởng đó và sáng tạo ra chủ nghĩa mới mang bản chất khoa học và cách mạng, đó là Chủ nghĩa Mác.

Ảnh minh họa: dangcongsan.vn

Trước Mác, Hê-ghen và Phoi-ơ-bắc đại diện cho hai trường phái triết học đối lập nhau: Hê-ghen là đại biểu cho trường phái duy tâm nhưng “hạt nhân hợp lý” trong triết học của ông là phương pháp biện chứng cách mạng (phép biện chứng); Phoi-ơ-bắc đại diện cho trường phái duy vật nhưng hạn chế trong triết học của ông là phương pháp siêu hình (phép siêu hình). Mác đứng trên lập trường duy vật cách mạng củaPhoi-ơ-bắcnhưng phê phán phép siêu hình của ông ta; Mác cũng phủ định lập trường duy tâm của Hê-ghen nhưng tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong triết học của ông là phép biện chứng cách mạng. Nhờ đó, triết học Mác có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng: Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng còn phép biện chứng là phép biện chứng duy vật, nó hoàn toàn khác về chất so với chủ nghĩa duy tâm biện chứng của Hê-ghen và chủ nghĩa duy vật siêu hình củaPhoi-ơ-bắc. Hơn nữa, trước Mác, các nhà triết học chủ yếu là giải thích thế giới, triết học Mác không chỉ giải thích thế giới mà sứ mệnh cao cả hơn là cải tạo thế giới.

Học thuyết về kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học cũng tương tự như vậy. Mác đã kế thừa có phê phán những tư tưởng kinh tế chính trị học cổ điển Anh và tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp... Trên cơ sở đó, ông đã tìm ra quy luật giá trị thặng dư và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

Trong diễn văn tại Đại hội III toàn Nga của Đoàn Thanh niên Cộng sản Nga diễn ra ngày 2-10-1920, Lênin đã truyền thụ phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác cho thế hệ trẻ và mong muốn thế hệ trẻ sẽ là người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang đó. Trong khuôn khổ bài này, tôi xin nêu hai biểu hiện đặc sắc trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác:

Một là, Mác đã nghiên cứu toàn diện và sâu sắc toàn bộ tri thức nhân loại đã sáng tạo ra.Lênin khẳng định: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại một cách có phê phán, không hề bỏ sót một điểm nào”. Muốn trở thành người cộng sản, nhất là đối với thanh niên, thế hệ trẻ thì phải không ngừng học tập, nghiên cứu để có tri thức toàn diện, phong phú và sâu sắc. Lênin nhấn mạnh: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”.

Theo chỉ dẫn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nghiên cứu, đã kế thừa toàn bộ tri thức nhân loại sáng tạo ra, trên cơ sở đó lựa chọn con đường phát triển đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng vô sản nhằm giải phóng dân tộc và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Sự lựa chọn đó đã dứt khoát từ năm 1930 và kiên định thực hiện, kể cả khi hệ thống CNXH hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ,đặtCNXHtrước sự phê phán gay gắt chưa từng thấy, từ nhiều hướng. Trong muôn vàn khó khăn đó, tại Đại hội VII, Đảng ta đã quyết nghị và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh 1991): Khẳng định ý chí sắt đá, không gì lay chuyển nổimục tiêu CNXH mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, toàn Đảng, toàn dân ta quyết tâm theo đuổi đến cùng con đường dẫn tới mục tiêu ấy. Nhân dân ta, dưới ngọn cờ của Đảng, phát huy cao độ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc, đã chiến đấu hy sinh ròng rã mấy chục năm trời, hoàn thành về cơ bản những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đã chuyển sang thực hiện những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, không có lý gì nay lại rẽ sang con đường khác ngược với mục tiêu đã lựa chọn.

Hai là, trên cơ sở phê phán những khuyết điểm, hạn chế, Mác đã tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tri thức nhân loại.Đây là đặc sắc trong phương pháp kế thừa tri thức nhân loại của Mác. Lênin nhấn mạnh: “Tất cả những cái mà xã hội loài người đã sáng tạo ra, Mác đã nghiền ngẫm lại, đã phân tích, phê phán và đã căn cứ phong trào công nhân để kiểm tra lại”. Thật vậy, Mác đã phê phán những hạn chế, khuyết điểm mà tri thức nhân loại đã sáng tạo ra, nhất là những tiền đề lý luận trực tiếp lúc bấy giờ là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh vàCNXHkhông tưởng Pháp để xây dựng nên học thuyết mới hoàn chỉnh với ba bộ phận cấu thành gồm triết học, kinh tế chính trị học vàCNXHkhoa học.

Con đường tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện sinh động cho phương pháp kế thừa tri thức nhân loại. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối nhưng không tán thành con đường cứu nước của họ, bởiphong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản, qua khảo nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại.Người chọn con đường khác để tìm ra và đi theo Chủ nghĩa Mác, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo cách mạng giành độc lập dân tộc, đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lênCNXH.

Con đường đi lênCNXHở nước tabỏ qua giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản là sáng tạo đặc sắc của Việt Nam. Bỏ qua ở đây là bỏ qua quan hệ sản xuất bóc lột tư bản chủ nghĩa, bỏ qua kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, bỏ qua những thói hư, tật xấu của xã hội tư bản. Còn tiếp thu những thành tựu phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, tiếp thu văn minh mà nhân loại đạt được trong giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.Đồng chí Nguyễn Đức Kiên-Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “Mỗi một dân tộc họ chọn một con đường khác nhau và chúng ta lựa chọn con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướngCNXH. Ở đây nó sáng tạo ở chỗ chúng ta tận dụng được tất cả những thành tựu của trí tuệ con người để chúng ta đạt được mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bỏ qua chủ nghĩa tư bản, bỏ qua những vấn đề bất cập để tiến thẳng lênCNXHthì nó chính là ở khía cạnh ấy và khi người đứng đầu(1)mà tuyên bố như thế thì nó giúp cho người điều hành trực tiếp có động lực và có niềm tin để họ có thể đi tắt, đón đầu”.

(còn nữa)

QUÁCH ĐÌNH HỢI

(1)Bài viết: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng


C. Mác, Hồ Chí Minh là những vĩ nhân, những nhà sáng lập ra một giá trị văn hóa đặc sắc không chỉ góp phần làm biến đổi diện mạo của cả một dân tộc, mà có ảnh hưởng đến cả một thời đại. Khái niệm văn hóa có nội hàm rất rộng. Ở đây chúng tôi chỉ giới hạn để nói về một khía cạnh của văn hóa là đoàn kết, một dòng chủ lưu trong tư tưởng của hai vĩ nhân này.

Lâu nay người ta đã có sự hiểu lầm cho rằng, học thuyết của C. Mác chỉ là học thuyết nói nhiều đến mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhất của sự biến đổi lịch sử. Sinh thời, năm 1947, trong cuốn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán sự hiểu biết không thấu đáo về học thuyết đấu tranh giai cấp của C. Mác, nên mắc vào bệnh giáo điều, bắt chước như sau: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”(1).



C. Mác và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nêu cao khẩu hiệu đoàn kết, coi đoàn kết là bản chất của con người và là động lực chủ yếu trong sự phát triển của xã hội loài người. Chính nhờ biết kết đoàn mà con người mới có đủ trí khôn và sức mạnh để sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Một xã hội văn minh được xây lên bởi kết đoàn, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người, đó cũng chính là lý tưởng cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đảng viên cộng sản chân chính ở nước ta tin theo.
Đoàn kết là một phạm trù cốt lõi của khoa học về con người. C. Mác đã từng nói “bản thân khoa học về con người là một sản phẩm của việc con người biểu hiện bản thân mình một cách thực tiễn”(2). Do vậy, nhìn nhận vấn đề đoàn kết trong đảng cộng sản và thái độ kết đoàn của đảng viên đối với nhau trong tổ chức đảng, đoàn kết với nhân dân, dân tộc trong một quốc gia và quan hệ quốc tế chính là nhìn nhận việc đảng cộng sảnra trong cuộc sống hằng ngày, trong các hoạt động thực tiễn. Đảng là ai? Đảng là sự hợp thành của những đảng viên, của những tổ chức đảng. Thông qua những đảng viên cụ thể, những chi bộ, đảng bộ cụ thể, người ta thấy được bức tranh chung về diện mạo của sự biểu hiện bản thân Đảng trong quan hệ với cộng đồng.
Người đảng viên cộng sản nói riêng và người dân nói chung, tất cả mọi người đều hành động vì hai lẽ:, xét về mặt cá nhân, hành động là để mưu sinh, để tồn tại và nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của chính bản thân mình., xét về mặt xã hội, hành động là sự “phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính”(3) để kiến tạo một xã hội dân chủ, tự do, con người biết yêu thương nhau, tôn trọng nhau. Cả hai lẽ đó đều mang tính người, tính cộng đồng, đều tất yếu phải có sự chung sức, chung lòng. Ngay cả cuộc sống mưu sinh của mỗi người cũng không thể tách khỏi đồng loại, tức là không thể tách khỏi nhu cầu và ước vọng chung của cộng đồng. Như vậy, con người luôn luôn thể hiện những giá trị đích thực của mình trước hoàn cảnh trong đời sống thực tiễn. Chính sự gắn bó với cộng đồng và sự thể hiện được những giá trị chung của cộng đồng sẽ tạo cho con người sức mạnh và nhân giá trị của mình lên nhiều lần.
Đảng cộng sản với tư cách là đội ngũ của những người tiên tiến nhất và ưu tú nhất của nhân dân lao động, của dân tộc thì càng phải thể hiện rõ tính “vượt trội”, tính tiên phong, điển hình của sự đoàn kết. Chỉ có như vậy, tổ chức đảng mới trở thành một khối thống nhất, mới dành được sự tin yêu và tín nhiệm của tất cả mọi người. Muốn vậy, tổ chức đảng phải là hiện hữu của một tổ chức gắn bó với nhau một cách trung thực, chung thủy, có tình nghĩa.là những giá trị nhân văn, đạo đức, được tạo ra trong quan hệ kinh tế - xã hội, trong hoạt động thực tiễn.là lý tưởng phấn đấu cho một mục đích trong sáng vì lợi ích chung của cộng đồng.
Có tình, có nghĩa, con người mới biết yêu thương nhau và tín nhiệm nhau. C. Mác đã chỉ rõ:“Nếu anh giả địnhvà quan hệ của con người với thế giới với tính cách là quan hệ có tính người, thì anh chỉ có thể đổi tình yêu lấy tình yêu, tín nhiệm lấy tín nhiệm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, những ai tự giác đứng vào hàng ngũ cách mạng, mang danh là chiến sĩ tiên phong vì lý tưởng cao đẹp là phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc thì trước hết và trên hết phải luôn biết sống với đồng chí và đồng bào, đồng loại sao cho có, có. Nếu thuộc bao nhiêu sách, nói bao nhiêu điều tốt đẹp mà sống với đồng chí, đồng bào không có tình, có nghĩa thì cũng chỉ là kẻ ba hoa, sáo mép và giả dối.
Đảng viên, cán bộ, cấp trên và cấp dưới chỉ có thể đoàn kết thống nhất khi thực lòng tin yêu vào lý tưởng, (điều đó gọi là), và chỉ có thể đoàn kết với nhân dân và chiếm được sự tin yêu của nhân dân khi toàn tâm, toàn ý phụng sự, trung thành với lợi ích của nhân dân, đất nước mình. Đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở lợi ích chung và cần được đắp bồi từ người có chức quyền cao nhất đến mọi đảng viên và người dân. Mọi người đều phải sống sao cho có tình, có nghĩa, cùng nhau phấn đấu cho mục tiêunhư Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn.
Tình yêu và lòng tin không thể đến từ một phía. Đảng viên và tổ chức đảng phải thông qua những hoạt động thực tiễn, động cơ, mục đích và thái độ sống của chính mình mà chiếm được trái tim và khối óc của quần chúng, nghĩa là mỗi một người cộng sản phải tạo ra được một ảnh hưởng tốt đối với những người xung quanh. Chính C. Mác đã chỉ rõ: “Nếu anh muốn ảnh hưởng tới những người khác thì anh phải là một người có một tác dụng thực sự thúc đẩy và kích thích những người khác. Mỗi quan hệ của anh đối với con người và đối với giới tự nhiên phải làcủa đời sốngcủa anh”(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra rất sớm rằng, quyền uy của Đảng không thể chỉ dựa vào chức quyền làm cứu cánh để áp đặt. Đảng không thể đòi, không thể cưỡng bức nhân dân và tổ chức của nhân dân “thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất”(6).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào nửa đầu thế kỷ XX, đứng ở trung tâm của vũ đài chính trị, dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trải qua những biến thiên của lịch sử, vượt biết bao thác ghềnh, gian nguy, hiểm trở, có lúc vấp váp và sai lầm nhưng qua những cuộc đấu tranh giải phóng, giành và giữ chính quyền, Đảng đã “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”(7).
Hiện nay, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, bên cạnh những mặt tích cực, đã nảy sinh không ít mặt tiêu cực. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định quyết tâm khắc phục tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, ngăn chặn tình trạng coi đồng tiền là sức mạnh vạn năng, thành “viên đạn bọc đường” “bắn đổ” không ít chiến sĩ đã từng dũng cảm đi tiên phong trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Chủ nghĩa cá nhân đặt lợi ích của cá nhân cao hơn tất cả, đã làm cho bản chất con người bị tha hóa và tất nhiên nó sẽ làm cho tổ chức chính trị, xã hội bị chia rẽ, quan hệ cộng đồng mangsuy giảm hoặc mất đi và hệ quả là dẫn tới sự suy vong của chế độ. Do đó, đồng tiền ở khía cạnh này, theo C. Mác chính là năng lực đã bị tha hóa của nhân loại, bởi vì “tiền biến trung thành phản, yêu thành ghét, ghét thành yêu, đức hạnh thành thói xấu, thói xấu thành đức hạnh, tớ thành chủ, chủ thành tớ, ngu thành khôn, khôn thành ngu...”(8). Sự sùng bái đồng tiền tạo ra phe phái, cánh hẩu, lợi ích nhóm…, nó phá vỡ sự đoàn kết, thống nhất của tổ chức chính trị, của Nhà nước và xã hội. Sùng bái tiền bạc ắt sẽ dẫn đến sự si mê quyền lực. Nếu mắc vào, điều đó sẽ làm tha hóa quyền lực chính trị của Đảng vốn lấy thanh liêm, đạo đức và trí tuệ làm sức mạnh, lấy phục vụ hạnh phúc, tự do của nhân dân làm mục đích lý tưởng; sẽ biến chủ nghĩa tập thể thành chủ nghĩa cá nhân, biến chủ nghĩa nhân đạo đích thực thành chủ nghĩa vị kỷ, vô nhân tính. Nó phá vỡ cơ sở của sự đoàn kết nhất trí, do đó, tổ chức không còn sức mạnh, sẽ như “đũa mỗi chiếc một nơi”. Trong xã hội loài người, bất cứ ở đâu, ở thời điểm nào, nếu còn có sự sùng bái đồng tiền thì ắt dẫn tới sự lạm dụng, lợi dụng quyền lực, tạo ra một sức ép nặng nề đối với mọi mặt của đời sống xã hội, gây ra sự bất mãn phổ biến trong xã hội, làm cho con người trở nên thấp hèn, nhỏ nhen, ti tiện. Sự khác biệt của chế độ xã hội mới, của Nhà nước do đảng cộng sản cầm quyền so với các kiểu nhà nước cũ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát ở một điểm cốt lõi nhất: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(9). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh. Chính sự khác biệt ấy đã cho thấy tầm cỡ nhân loại của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh trong quan hệ máu thịt với nhân dân Việt Nam để làm nên chiến thắng ở thế kỷ XX.
Đoàn kết là bản chất mang tính Người, là biểu hiện bản chất của một đảng cách mạng chân chính. Nếu ở C. Mác là:, thì ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là.
Rõ ràng từ C. Mác đến Hồ Chí Minh, đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là sợi chỉ đỏ xuyên suốt một dòng chảy văn hóa của nhân loại.
Để kỷ niệm và nhớ ơn các vĩ nhân một cách thiết thực nhất trong tình hình hiện nay, toàn Đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến từng đảng viên cần ghi nhớ và thật tâm làm theothiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước hết nói về Đảng- Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kếtlà một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnhlà cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Trước hết, cần khắc phục cho có hiệu quả rõ rệt những biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống, cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình trong nội bộ Đảng và trong hệ thống các cơ quan quyền lực của Nhà nước./.
---------------------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh:, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 272
(2), (3), (4), (5), (8), (9) Mac - Ăng-ghen:, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, t. 1, tr. 130, tr. 44, tr. 136, tr. 136, tr. 135, tr. 249
(6) Hồ Chí Minh:, t. 3, tr. 139
(7) Hồ Chí Minh:, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 7, tr. 517


PGS, TS. Trần Đình Huỳnh

Nguồn: Tạp chí Cộng sản

Video liên quan

Chủ đề