Đời tượng nghiên cứu di truyền của Morgan

  • Cung điện Pha lê huyền ảo của người dân Anh

  • Cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen với phong trào cộng sản quốc tế

Nếu Gregor Mendel được coi là cha đẻ của di truyền học cổ điển thì nhà sinh lý học và di truyền học nổi tiếng của Mỹ, tiến sĩ Thomas Hunt Morgan, được coi là cha đẻ của di truyền học hiện đại.

Với những đóng góp to lớn trong việc tìm ra yếu tố di truyền, ông đã tạo ra một kỷ nguyên mới trong di truyền học, xây dựng thuyết di truyền nhiễm sắc thể và đề ra khái niệm về gen.

Đời tượng nghiên cứu di truyền của Morgan

Tiến sĩ Thomas Hunt Morgan.


Cách đây gần 70 năm, ngày 4/12/1945, cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại, tiến sĩ Thomas Hunt Morgan đã qua đời, hưởng thọ 79 tuổi.

Thomas Hunt Morgan sinh ngày 25/9/1866 ở Lexington, bang Kentucky nước Mỹ trong một gia đình danh gia vọng tộc. Ngay từ khi còn bé, Thomas Morgan đã thích thiên nhiên, sưu tầm trứng chim và xương hóa thạch.

Năm 1887, Morgan tốt nghiệp cử nhân khoa học ở Đại học Kentucky và vào làm ở Phòng thí nghiệm vùng biển ở Annisquam. Ba năm sau, Morgan bảo vệ Luận án tiến sĩ về bào thai học của con nhện biển ở Đại học Johns Hopkins.

Năm 1891, khi mới 25 tuổi, Morgan đã trở thành Giáo sư ở Trường Đại học Tổng hợp bang Columbia ở Mỹ.

* Cha đẻ của di truyền học hiện đại

Trong thời gian đầu nghiên cứu di truyền ở Khoa Sinh vật Đại học Columbia, Morgan chuyên nghiên cứu về phôi sinh học thực nghiệm. Sau đó, ông chuyển dần sang nghiên cứu về các vấn đề di truyền.

Năm 1909, Morgan quyết định chọn ruồi giấm làm đối tượng nghiên cứu, vì ruồi giấm là loài dễ nuôi, sinh sản nhanh, dễ phân biệt đực cái. Và ông là người đầu tiên sử dụng ruồi giấm vào việc nghiên cứu di truyền.

Morgan đã chọn hai dòng ruồi giấm thuần chủng thân đen cánh cụt và thân xám cánh dài, tiếp đó là ruồi giấm mắt đỏ và ruồi dấm mắt trắng để cho lai nhau.

Đời tượng nghiên cứu di truyền của Morgan

Thomas Morgan trong phòng nghiên cứu ruồi giấm.


Cùng với các học trò là C. B. Briges, A. H. Sturtevant, H. J. Mũller, Morgan đã làm cho di truyền học đạt được những bước tiến lớn. Bằng các thực nghiệm trên hàng chục vạn con ruồi giấm, Morgan phát hiện ra chúng có tới bốn trăm đột biến và chia ra bốn nhóm di truyền riêng biệt, tương ứng với các gen nằm trên cùng nhiễm sắc thể.

Kết quả này đã làm sáng tỏ cơ chế tế bào của các định luật Mendel và cơ sở di truyền của sự đào thải tự nhiên. Nhờ vậy, Morgan lập được bản đồ phân bố gen trên các thể nhiễm sắc.

Năm 1910, Morgan công bố công trình "Nhân tố di truyền", xác nhận các ''nhân tố di truyền'' đó là có thật, nhìn được dưới kính hiển vi, dưới dạng những cấu trúc cụ thể gọi là gen, xếp hàng trên các đơn vị vật chất có số lượng xác định đối với mỗi sinh vật và gọi là nhiễm sắc thể.

Năm 1915, Morgan xuất bản cuốn "Cơ chế của di truyền học Mendenl" để chứng minh sự đúng đắn về căn bản của quy luật mà Mendel đã phát hiện vào nửa thế kỷ về trước trong tu viện ở Bruno. Morgan còn làm sáng tỏ cơ chế và quy luật các đột biến ngẫu nhiên và nhân tạo ở ruồi dấm, dưới tác động của các tác nhân ''tạo đột biến'', như nhiệt độ, phóng xạ và các hóa chất.

Năm 1926, Morgan lại cho xuất bản tác phẩm “Học thuyết về gen” để trình bày rõ và sâu hơn nữa về cơ sở vật chất (nhiễm sắc thể và gen) của tính di truyền.

Những phát minh của Morgan cho thấy, tạo hóa sử dụng cùng một cơ chế cho con người cũng như cho sinh vật cấp thấp.

* Thomas Hunt Morgan và những công trình khoa học kinh điển về di truyền

Trong suốt sự nghiệp xuất sắc của mình Thomas Morgan đã viết 22 cuốn sách và 370 bài báo khoa học. Ông đã để lại cho nhân loại những công trình khoa học là những sách kinh điển về di truyền như: Cơ sở vật chất của tính di truyền (The Physical Basis of Heredity, 1919); Di truyền của ruồi giấm (The Genetics of Drosophila, 1925); Lý thuyết về gen (The Theory of the Genes , 1926); Phôi học thực nghiệm (Experimental embryology, 1927); Cơ sở khoa học của tiến hóa (The Scienntific Basis of Evolution, 1932); Phôi học và di truyền học (Embryology and Genetics, 1933).

Viện Hoàng gia Karolinska đã đánh giá rất cao đóng góp của Morgan: “Những nghiên cứu về di truyền ở người đã sử dụng nhiều đến các khảo sát của Morgan. Không có chúng thì gen học cũng như học thuyết ưu sinh ở người hiện nay không thực hiện được”.

Các công trình nghiên cứu của Morgan đã đem lại cho ông nhiều vinh quang ngay lúc sinh thời như được bầu làm Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Nga năm 1924 (lúc 58 tuổi), được bầu làm Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Mỹ (từ năm 1927 đến năm 1931), được mời làm Viện sĩ danh dự Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô từ năm 1932. Đặc biệt, Morgan đã được trao tặng Giải thưởng Nobel về sinh lý học năm 1933, lúc ông 67 tuổi.

Vào ngày 4/12/1945, cha đẻ của ngành di truyền học hiện đại, tiến sĩ Thomas Hunt Morgan đã qua đời, hưởng thọ 79 tuổi.
Từ năm 1981, Hội Di truyền học Mỹ đã lập giải thưởng mang tên Thomas Hunt Morgan để trao tặng cho những người có đóng góp suốt đời vào lĩnh vực di truyền học.


TTTL/TTXVN

Đời tượng nghiên cứu di truyền của Morgan

Người phát minh ra những lưỡi dao cạo nhỏ

Dao cạo ngày nay đã trở nên quá quen thuộc, đặc biệt đối với các quý ông, đến mức dao cạo chỉ là một sản phẩm bình thường trong số những sản phẩm bình thường khác.

Chia sẻ:

Từ khóa:

  • Thomas Hunt Morgan,
  • di truyền,
  • nhiễm sắc thể,
  • gen,

Thomas Hunt Morgan (1866-1945) là nhà di truyền học người Mỹ, thường được nhắc đến do các khám phá về vai trò của nhiễm sắc thể trong quá trình di truyền của sinh vật, về sự phân bố các gen (thời đó gọi là "nhân tố Menđen") thành dãy lô-cut trên nhiễm sắc thể và đóng vai trò hoàn thiện học thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Ông được trao Giải Nobel Sinh lý và Y học vào năm 1933.[1][2]

Đời tượng nghiên cứu di truyền của Morgan

Thomas Hunt Morgan

Sinh25 tháng 9 năm 1866
Lexington, Kentucky, MỹMất4 tháng 12, 1945(1945-12-04) (79 tuổi)
Pasadena, California, MỹQuốc tịch
Đời tượng nghiên cứu di truyền của Morgan
 
MỹTrường lớp
  • Đại học Kentucky
  • Đại học Johns Hopkins
Nổi tiếng vìHọc thuyết di truyền nhiễm sắc thể, Di truyền liên kếtGiải thưởng
  • Giải Nobel Sinh học và Y học năm 1933
  • Huy chương Copley năm 1939
Sự nghiệp khoa họcNgànhDi truyền họcNơi công tác
  • Bryn Mawr College
  • Đại học Columbia
  • Viện Công nghệ California
Các nghiên cứu sinh nổi tiếng
  • Nettie Stevens
  • John Howard Northrop
  • Hermann Joseph Muller
  • Calvin Bridges
  • Alfred Sturtevant

Thomas Hunt Morgan tốt nghiệp đại học University of Kentucky vào loại xuất sắc khi mới có 20 tuổi (năm 1886).[3] Năm 24 tuổi (1890), Morgan được nhận bằng tiến sĩ tại Johns Hopkins University,[3] và năm sau đã được phong phó giáo sư (Associate Professor).[3] Ông là một nhà phôi học, giảng dạy tại trường Đại học Columbia. Ông quyết định nghiên cứu di truyền học, khi đó ngành khoa học này còn non trẻ.

Lúc đầu, Morgan không tán thành các quy luật di truyền mà Gregor Mendel đã xây dựng và thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Ông dự trù kinh phí xin tiến hành thí nghiệm lai ở thỏ, nhưng không được chấp nhận vì kinh phí quá lớn. Sau đó, ông đã chọn được một đối tượng độc đáo và thuận lợi cho nghiên cứu là ruồi giấm. Phòng thí nghiệm của Morgan về sau được gọi là "phòng thí nghiệm ruồi". Tham gia nghiên cứu cùng ông có ba học trò Alfred Sturtevant, Hermann Muller và Calvin Bridges. Nhóm nghiên cứu này đã chứng minh các nhân tố di truyền của Mendel nằm trên nhiễm sắc thể và hoàn chỉnh thuyết di truyền nhiễm sắc thể. Thuyết di truyền nhiễm sắc thể xác nhận tính đúng đắn của thuyết di truyền về gene (nhân tố di truyền), cho thấy các gene phân bố theo chiều dọc nhiễm sắc thể tạo thành nhóm liên kết.

Khi cho lai ruồi cái có tính trạng trội (thân xám, cánh dài) với ruồi đực có tính trạng lặn (thân đen, cánh cụt), Thomas Hunt Morgan đã thu được toàn bộ ở đời con thứ nhất thân xám cánh dài. Lai tiếp ở đời này thụ tinh với nhau (lần này con đực là thân xám cánh dài), Morgan thu được kết quả là 2 kiểu hình thân xám, cánh dài và thân đen, cánh cụt với tỉ lệ 1:1. Ông đã giải thích rằng các gene cùng trên một nhiễm sắc thể đã di truyền cùng nhau. Hiện tượng đó được gọi là liên kết gene.

Hoán vị gene

Tiếp tục thí nghiệm trên ruồi giấm với giống cái có tính trạng trội và giống đực có tính trạng lặn, Morgan thu được ở đời con thứ nhất kết quả như trên. Tiếp theo, ông cho đảo ngược vị trí của các đời con thứ nhất và lai, tức là ông cho con cái tiếp tục là thân xám cánh dài và con đực là thân đen, cánh cụt (khác với thí nghiệm trên), ông thu được tỉ lệ kiểu hình là 41% thân xám; 41% thân đen, cánh cụt; 9% thân xám, cánh cụt; 9% thân đen, cánh dài. Để giải thích vấn đề, Morgan đã cho rằng các gene quy định màu thân và hình dạng cánh đều nằm trên một nhiễm sắc thể. Do vậy, trong quá trình giảm phân, chúng thường đi cùng nhau (giống như liên kết gene). Vì vậy, đời con có kiểu hình phần lớn giống bố hoặc giống mẹ. Tuy nhiên, trong quá trình giảm phân hình thành giao tử cái, ở một số tế bào, khi các nhiễm sắc thể tương đồng tiếp hợp với nhau, chúng có sự trao đổi đoạn nhiễm sắc thể (được gọi là trao đổi chéo). Kết quả là các gene có thể đổi vị trí cho nhau, từ đó các tổ hợp gene mới xuất hiện. Đó chính là hiện tượng hoán vị gene.

Di truyền với gene nằm trên nhiễm sắc thể X không alen trên Y

Trong khi làm thí nghiệm ở ruồi giấm, Morgan tình cờ phát hiện thấy một số ruồi đực mắt trắng.[4] Ông đã làm 1 thí nghiệm sau:

Phép lai thuận Phép lai nghịch
Pt/c: Ruồi cái mắt đỏ × Ruồi đực mắt trắng Pt/c: Ruồi cái mắt trắng × Ruồi đực mắt đỏ
F1: 100% ruồi mắt đỏ F1: 100% ruồi cái mắt đỏ, 100% ruồi đực mắt trắng
F2: 100% ruồi cái mắt đỏ, 50% ruồi đực mắt đỏ, 50% ruồi đực mắt trắng F2: 50% ruồi cái mắt đỏ, 50% ruồi cái mắt trắng, 50% ruồi đực mắt trắng, 50% ruồi đực mắt đỏ

Morgan giải thích rằng: gene quy định màu mắt chỉ có trên nhiễm sắc thể X mà không có trên nhiễm sắc thể Y. Vì vậy, cá thể có kiểu gene XY (con đực), chỉ cần 1 alen lặn trên X đã biểu hiện ra kiểu hình.

Do những cống hiến cho khoa học, Morgan được nhận Giải Nobel vào năm 1933. Tên tuổi của ông đi liền với tên tuổi của Mendel, những người mở đầu cho di truyền học.

Tên của Morgan được đặt cho đơn vị đo khoảng cách tương đối giữa các gene dựa trên tần số hoán vị gene. 1% hoán vị gene tương ứng với 1 cM (đọc là centimorgan).

  1. ^ “Giải Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 1933”. The Nobel Foundation. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2008.
  2. ^ “Thomas H. Morgan”.
  3. ^ a b c Tiểu sử tại trang giải Nobel, truy cập ngày 12/10/2014 Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “nobel” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  4. ^ SGK Sinh học 12, trang 51

  • Allen, Garland E. (1978). Thomas Hunt Morgan: The Man and His Science. Princeton University Press. ISBN 0-691-08200-6.
  • Allen, Garland E. (2000). “Morgan, Thomas Hunt”. American National Biography. Oxford University Press.
  • Kohler, Robert E. (1994). Lords of the Fly: Drosophila Genetics and the Experimental Life. University of Chicago Press. ISBN 0-226-45063-5.
  • Shine, Ian B; Sylvia Wrobel (1976). Thomas Hunt Morgan: Pioneer of Genetics. University Press of Kentucky. ISBN 0-8131-0095-X.
  • Stephenson, Wendell H. (tháng 4 năm 1946). “Thomas Hunt Morgan: Kentucky's Gift to Biological Science”. Filson Club Historical Quarterly. 20 (2). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2012.
  • Sturtevant, Alfred H. (1959). “Thomas Hunt Morgan”. Biographical Memoirs of the National Academy of Sciences. 33: 283–325.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thomas_Hunt_Morgan&oldid=68692904”