Đời la vô thường có nghĩa là gì

Nghe bản audio trên youtube

Trong bài viết “ Nhìn các cảm xúc với con mắt vô thường”, Thiền sư Thích Nhất Hạnh có viết: “Lý do khiến cho ta điên rồ đủ để làm khổ chính mình và người bạn ta, chỉ vì ta quên rằng cả hai người đều vô thường hết. Ngày nào chết đi, ta sẽ mất tất cả: của cải, quyền lực, gia đình và tất cả mọi thứ khác. Tự do và an lạc trong lúc này là điều quan trọng nhất mà ta có được. Nhưng khi không có chánh niệm về vô thường, chúng ta không thể có hạnh phúc…”. Vậy vô thường mà thầy muốn nhắc tới ở đây là gì?

**Trong bài viết có quảng cáo tự động từ Google, nếu quan tâm xin bạn hãy click để ủng hộ website. Nếu không quan tâm, bạn hãy bỏ qua nó, rất xin lỗi vì sự bất tiện này!

Quan điểm vô thường trong Phật giáo

Vô thường là một trong những học thuyết nền tảng của Đạo Phật, được đề cập trong Tam pháp Ấn: Vô thường – Khổ – Vô ngã.

“Vô” trong “vô thường” tức là “không” hoặc “không thật”. Còn từ “thường” trong vô thường tức là “bền vững” hoặc “thường còn”. Hiểu về mặt từ ngữ thì vô thường là không bền vững.

Kinh điển Phật giáo nhắc tới thuyết vô thường rất nhiều, điển hình như câu nói “đời là vô thường”. Phật giáo khẳng định rằng toàn bộ sự sống đều không bền vững, không có gì tồn tại mãi mãi, không có ngoại lệ, mọi thứ từ vật chất đến tinh thần đều chịu sự chi phối và ảnh hưởng bởi thời gian.

Một ví dụ: Giáo lý Phật giáo đã đề cập rằng con người ai cũng sẽ phải trải qua 4 tiến trình Thành – Trụ – Hoại – Không, hay Sinh – Lão – Bệnh – Tử. Không một người nào, không một thứ thuốc trường sinh nào có thể giúp con người thoát khỏi quy luật trên. 

Giải thích về vô thường, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đưa ra một ví dụ rất gần gũi. Theo thầy, vô thường có nghĩa là mọi sự đều sẽ thay đổi, sẽ không thể có sự vật nào bất biến tại hai thời điểm nối tiếp nhau được. Mọi sự đều thay đổi mỗi phút giây nên không thể có mô tả chính xác lúc này nó giống hay khác so với lúc trước như thế nào. Ví như dòng sông mà ta tắm hôm nay liệu có còn là dòng sông cũ hay không?

Cũng giống như câu nói nổi tiếng “ Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” của triết gia Heraclitus. Dù vẫn là một con sông đó nhưng bản chất là nước sông của ngày hôm nay đã khác với nước sông của ngày hôm qua. Đức Khổng Tử đứng nhìn con sông cũng đã phải thốt lên rằng “Thệ giả tư phù, bất xả trú dạ!” – tức “ Ôi, nước sông trôi chảy ngày đêm, không bao giờ ngưng nghỉ sao!”

Ý nghĩa khi giác ngộ được vô thường

Theo thầy Thích Nhất Hạnh, khi có sự giác ngộ về vô thường sẽ giúp bản thân ta thoát ra khỏi các ý niệm về sự giống – khác nhau, sự đi – đến. Giác ngộ được vô thường, khi nhìn dòng sông ta sẽ hiểu dòng sông hôm nay tại sao không giống cũng chẳng khác hôm qua; Ngọn nến ta thắp tối hôm nay cũng sẽ chẳng là ngọn nến đang cháy vào buổi sớm ngày mai. Sự sống là thay đổi liên tục trong từng giây, từng phút và bất cứ ai cũng đều nằm trong tiến trình vô thường.

Nhiều người thấy đời vô thường, sự sống vô thường thì lại sinh ra tâm lý đau khổ, buồn rầu, buông xuôi… bởi, có gì là tồn tại mãi mãi đâu? sẽ luôn có mất mát, lụi tàn… vậy thì cố gắng để làm cái gì?

Thế nhưng, đạo Phật đã chỉ ra vô thường luôn có ý nghĩa tích cực của nó. “Nhờ vô thường mà mọi sự vật mới có cơ hội, đời sống nhờ vô thường mới hiện hữu. Nếu hạt bắp không vô thường thì hạt bắp không bao giờ có thể biến thành một cây bắp. Nếu không vô thường thì cây bắp không thể cho ta trái bắp để ăn được. Nếu con gái quý vị không thay đổi thì nó không thể lớn lên để trở thành một phụ nữ. Và cháu bạn sẽ không bao giờ ra đời…” – Trích từ “Không diệt không sinh đừng sợ hãi” của thiền sư Nhất Hạnh.

Nhờ sự sống là vô thường, nếu chúng ta nhận ra nó, chúng ta sẽ biết thương quý giây phút hiện tại. Nhờ có vô thường, nỗi đau ngày hôm nay tưởng như có thể bóp nghẹt con tim, trí óc và hơi thở của bạn rồi tới một ngày cũng sẽ qua đi. Và khi nhìn lại ta thấy mình đã mạnh mẽ biết bao để vượt qua nó, có một tâm thế bình an, vững vàng như ngày hôm nay. Nhờ có vô thường, sự sống mới hiện diện. Cây cối đâm chồi nảy lộc ra hoa rồi kết trái. Con cái chúng ta được sinh ra rồi chúng lớn lên tiếp tục hành trình cuộc đời chúng…

Khi đã thấy rõ vô thường, quán chiếu vô thường hàng ngày, hàng phút giây, ta sẽ ý thức được sự quý giá của thời điểm hiện tại, những thứ mà ta đang có, những người ở bên cạnh ta. 

Thực tập vô thường cũng sẽ giúp ta bớt tuyệt vọng, chán nản trước những điều bất như ý. Khi biết mọi thứ là vô thường, ta sẽ càng cần sống hết mình với hiện tại, cố gắng từng chút một để được chuyển hóa, tạo ra thành tựu tốt hơn trong tương lai.

Thực tập quán chiếu vô thường hàng ngày cũng sẽ giúp ta diệt trừ sân, si. Bởi khi biết mọi điều là vô thường, ta sẽ cảm nhận mọi thứ bằng tuệ giác, không bị phụ thuộc, không bị si mê, giảm ham muốn chiếm hữu của cá nhân.

Làm sao để thực tập vô thường?

Nhận ra và hiểu vô thường bằng trí óc thì ai cũng làm được. Nhưng để hiểu sâu tới tận cùng ngữ nghĩa về vô thường thì trí óc thôi lại không thể làm được. Bởi, theo giáo lý Nhà Phật, trí não không đưa con người tới giải thoát.

Vậy làm sao để thực tập vô thường?

Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh, để có thể thực tập vô thường, trước hết ta cần có một tâm thế vững chãi, có sự kiên định, rồi sau đó ta cần thực tập nhìn sâu.

Nhìn sâu để thấu hiểu về bản chất của vô thường. Khi đã thấu hiểu ta mới có thể quán chiếu hiểu biết sâu sắc về vô thường và biến cái hiểu này thành một phần của chúng ta và hàng ngày ta đều phải thực tập quán chiếu hiểu biết này.

Thầy Nhất Hạnh nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc duy trì sự giác ngộ về vô thường để có thể sống với vô thường trong mọi khoảnh khắc của đời sống. Hãy xem vô thường như một đối tượng để thực tập thiền về nó, nuôi dưỡng tri giác về nó. Chỉ khi được duy trì sự thấu hiểu, tu tập hàng ngày thì tri thức về vô thường sẽ trở thành một “chiếc chìa khóa” mở ra cánh cửa của chân lý thực tại.

Ngược lại, nếu chỉ giác ngộ về vô thường trong chốc lát rồi để đấy, không tiếp tục nhìn sâu, hiểu sâu hơn nữa thì trong cuộc sống ta sẽ dễ dàng quên mất vô thường, rồi lại tiếp tục nhìn mọi sự vật, sự việc thường hằng bất biến như ta chưa từng có nhận thức về vô thường. Đó là lý do vì sao nhiều cha mẹ, con cái đối xử với nhau như thể họ sẽ sống cùng nhau mãi mãi. Có nhiều khi trong cuộc sống ta quên mất hoặc không nghĩ tới việc chỉ vài năm nữa thôi, con cái sẽ lấy vợ lấy chồng và có gia đình riêng của chúng. Hoặc vài năm nữa thôi, ba mẹ già yếu bệnh tật cũng không thể mãi ở bên chúng ta. Nhưng trong hiện tại ta vẫn chưa biết trân quý thời gian được ở bên nhau, được nhìn thấy nhau và còn được yêu thương nhau. Và còn trong rất nhiều mối quan hệ khác nữa: vợ chồng, bạn bè, anh em họ hàng… Liệu rằng trong vài năm, vài chục năm nữa hay vài ngày, vài tuần nữa họ sẽ có còn ở bên cạnh ta?

Thực tập về vô thường vừa khó vừa dễ. Điều quan trọng là ta cần duy trì sự thực tập về nó hàng ngày, hàng giờ. Hãy bắt đầu ngay từ hôm nay!

Tài liệu tham khảo:

———————

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

Xem ngay trên Youtube

Bài này nói về một thuật ngữ trong Phật học. Xin xem thêm trang vô thường (định hướng)

Vô thường (zh. 無常; sa. anitya; pi. anicca) nghĩa là "không chắc chắn", "thay đổi", "không trường tồn". Vô thường là một trong ba tính chất (Tam pháp ấn, sa. trilakṣaṇa, bao gồm Ấn Vô thường, Ấn Khổ và Ấn Vô ngã) của tất cả các sự vật. Vô thường là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là Thành, Trụ, Hoại, Không (sinh, trụ, dị, diệt). Có thể nói, Vô thường là phép quán chiếu, hay nói một cách khác, vô thường là một đối tượng trong tu tập quán chiếu. Từ đó, Vô Thường là một phép thực tập Định trên Vô Thường. Rất sâu sắc và lớn rộng về nghĩa và về tính diệu dụng của định vô thường.

Giáo lý vô thường rất quan trọng cho toàn bộ cơ sở triết lý và thực hành trong Phật giáo. Nó mang đến một sự xác nhận như một sự phát hiện chân chính, đó là tất cả những hiện tượng – dù thuộc tâm lý, hay thuộc ngoại cảnh tự nhiên, không có ngoại hạng – đều là vô thường. Mặc dù chân lý này hoàn toàn hiển nhiên, có thể chứng nghiệm được mọi nơi, mọi lúc, nhưng chúng ta vẫn bị màn vô minh (sa. avidyā) vây phủ, không nhận thức được chân lý này một cách chân chính. Sự chuyển tiếp từ trạng thái không hiểu biết đến trạng thái ý thức (và thừa nhận) tính chất vô thường của vạn vật, cùng với sự thừa nhận hai tính chất kia, lập nên con đường tu học, và con đường này được Phật vạch ra trong giáo lý của mình.

Có nhiều dạng trình bày tính chân xác có giá trị chung của nguyên lý vô thường. Bằng một cách minh họa, ảnh hưởng của thời gian được so sánh với bánh xe của một chiếc xe đang chạy (chỉ chạm đất ở một khoảnh khắc nhất định nào đó), với một khe suối luôn luôn tuôn chảy, với một bọt nước, một dương diệm, âm thanh của một chuông đồng. Trong lúc thiền quán, chúng ta có thể xác nhận chân lý vô thường khi chứng kiến tư duy và cảm nhận không bao giờ giống nhau, mà thay vào đó, luôn nằm trong một dòng chảy (ví dụ như khoảnh khắc thật ngắn của một mối tư duy duy nhất không bao giờ đứng yên, mà luôn chuyển tiếp đến một mối tư duy kế tục).

Nếu quan sát một cách phân tích thì vô thường được xem như một sự thật, là vạn vật tồn tại trên cơ sở lệ thuộc vào cái khác nào đó, phát sinh từ cái khác nào đó và chuyển biến thành cái khác nào đó. Không một vật nào tồn tại độc lập, không vật nào thường còn. Chính ngay ở điểm này thì Niết-bàn được hiểu như thuyết tương phản trực tiếp của vô thường, có nghĩa là Niết-bàn mang những tính chất thường, lạc, tịnh và như vậy – khác với trường hợp các pháp thế tục – đáng được thành đạt hơn. Ý nghĩa tối trọng của vô thường được làm sáng tỏ nếu chúng ta nhớ đến những lời cuối của Phật: "Hoại diệt là bản chất của chữ hành, hãy cố gắng hết lòng." (pi. vayadhammā saṃkhārā, appamādena sampādethāti).

Như một kết quả của tất cả những điểm nêu trên, Phật giáo dạy chúng ta phương pháp Quán vô thường (pi. aniccānupassanā) để chứng nghiệm nguyên lý vô thường này. Truyền thống Phật giáo cho rằng, nếu việc thực hành quán vô thường này chỉ kéo dài như thời gian của một cái khảy tay thì nó hoàn toàn vô bổ, và qua đó cho thấy chúng ta ít quan tâm đến khái niệm vô thường như thế nào. Việc nhận thức nguyên lý vô thường không phải để thoả mãn tri thức. Nó rất quan trọng và thực tiễn, vì có thể giải thoát con người ra khỏi sự bám chặt vào các đối tượng (thuộc tâm thức cũng như ngoại cảnh). Nếu vạn vật vô thường thì chúng cũng không thật có giá trị, và đây cũng là lý do vì sao chúng không đáng được lưu ý. Đặc biệt là người ta nhấn mạnh đến tính vô thường của thân thể, cảm nhận và các tầng lớp tâm thức (khổ, lạc và trung tính), vì chúng không những là đối tượng của kinh nghiệm chúng ta thường có, mà cũng là những kênh mạch mà qua đó, các đối tượng trong thế gian được chúng ta nhận thức.

Quá trình quán chiếu vô thường bao gồm "sự chú ý" đến sự xuất hiện của một đối tượng đã được đề ra (để quán chiếu), và sự "xác định" tính "tùy thuộc" cũng như "nguyên nhân" của nó; sau đó ta "chú ý" đến sự tiêu giảm cũng như diệt vong, và nhận thức được tính chất "tạm thời" của nó. Nơi đây, một đối tượng được đề ra trước đây không đơn thuần được "thấy" là vô thường, mà còn được "diễn sinh" từ một cơ sở sự thật, là nó tồn tại trên cơ sở tùy thuộc vào một đối tượng khác và chính đối tượng khác này cũng vô thường. Ví dụ như "cảm nhận" là vô thường vì tùy thuộc vào "thân" cũng là vô thường, và v.v... Quán vô thường là một quá trình mà qua đó, hành giả đi từ cái biệt thể đến cái tổng thể, và ngược lại, từ tổng đến biệt thể, cho đến khi đạt được nhận thức sâu sắc, tức là trí huệ (sa. prajñā), là "tất cả đều vô thường" (sa. sarvam anityam). Trong thiền định vô thường phải được tu tập đến mức cao nhất gọi là thể nhập. Thể nhập là trạng thái người hành thiền luôn biết rõ như thật thế giới bên ngoài và tự thân là vô thường để không còn bám víu vào những gì đang hiện hữu kể cả tưởng (tưởng là những suy nghĩ ở trong đầu). Nông hay sâu trong phép quán có thể ví dụ như sau: chúng ta biết Chùa Một Cột nằm ở đâu, đẹp xấu làm sao, tại vị trí nào của Hà Nội. Một người không biết, nếu ta có chỉ cho rằng, nó ở chố này, chỗ này, như thế này, hôm sau có ai hỏi người ấy đã quên mất, hoặc nói lại một cách không rành mạch, và không thể chỉ vì người ấy đâu có biết rõ. Còn một người đã biết rõ thì dù ai có nói khác đi, hay đẹp hoành tráng đến mấy, thì người ấy có tin không? Không thể tin phải không, vì người ấy đã quá thạo, quá rõ, quá chắc chắn về nó. Như vậy là sự tu tập đã được thể nhập, sẽ nhận ra giải thoát là gì. Điều này không gì có thể thay đổi được!

Phật giáo và Ấn Độ giáo chia sẻ học thuyết Vô thường, nghĩa là "không có gì tồn tại mãi mãi, mọi thứ đều ở trong trạng thái thay đổi liên tục"; tuy nhiên, họ không đồng ý với giáo lý về Vô ngã, đó là liệu linh hồn có tồn tại hay không.[1] Theo Frank Hoffman và Deegalle Mahinda, ngay cả trong các chi tiết về lý thuyết vô thường của họ, cũng khác nhau.[2] Phật giáo khẳng định sự thay đổi liên quan đến Vô thường và các chấp trước liên quan tạo ra nỗi buồn hoặc khổ đế (Dukkha) và do đó cần phải bị loại bỏ để giải phóng (nibbana: niết bàn), trong khi Hindu giáo khẳng định rằng không phải tất cả sự thay đổi và chấp trước dẫn đến Dukkha và một số thay đổi - tinh thần hoặc thể chất hoặc tự-tri kiến dẫn đến hạnh phúc và do đó cần phải được tìm kiếm để giải phóng (moksha).[2] Nicca (vĩnh cửu) trong Phật giáo là anatta (không phải linh hồn), Nitya trong Ấn Độ giáo là atman (linh hồn).[3]

Tri kiến vô thường chính là sự đập tan tất cả những tà kiến vì mỗi cấu trúc của một hệ thống siêu nhiên tất nhiên phải lập cơ sở trên một khái niệm, một kiến giải "trường tồn" nào đó, hoặc một nhân tố "trường tồn" nào đó chính bên trong nó. Thế nên, việc thừa nhận nguyên lý vô thường chống lại khuynh hướng kiến lập các kết cấu gán vào hiện thật.

  1. ^ Ray Billington (2002). Understanding Eastern Philosophy. Routledge. tr. 56–59. ISBN 978-1-134-79348-8.
  2. ^ a b Frank Hoffman; Deegalle Mahinda (2013). Pali Buddhism. Routledge. tr. 162–165. ISBN 978-1-136-78553-5.
  3. ^ Richard Francis Gombrich; Cristina Anna Scherrer-Schaub (2008). Buddhist Studies. Motilal Banarsidass. tr. 209–210. ISBN 978-81-208-3248-0.

  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
  • Vô ngã
  • Tính không
  • Vô thường tại Từ điển bách khoa Việt Nam
  • Vô thường - Tuệ Minh Đạo Lưu trữ 2005-04-24 tại Wayback Machine
  • Vô Thường
  • Kinh Trung A Hàm - Dịch & Hiệu Chú: Tuệ Sỹ
  • Vô thường - Thích Thông Huệ Lưu trữ 2005-09-05 tại Wayback Machine
  • Vô thường[liên kết hỏng]
  • Anicca (Buddhism) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Vô_thường&oldid=67587136”

Video liên quan

Chủ đề