Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

Answers ( )

  1. Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

    Nam nhi vị liễu công danh trái,

    Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

    (Công danh nam tử còn vương nợ,

    Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

    – Chí “nam nhi”: “Công danh trái” Món nợ công danh. Công danh và sự nghiệp được coi là món nợ đời phải trả
    của kẻ làm trai; nghĩa là phải lập công, lập danh, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời, cho dân cho nước.
    Trong hoàn cảnh XH phong kiến, chí làm trai trở thành lí tưởng tích cực có tác dụng to lớn đối với con người
    và xã hội.

    – “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”: Tác giả tự thấy hổ thẹn trước tấm gương tài – đức lớn lao của Khổng
    Minh vì chưa trả được nợ công danh cho nước, cho đời. =>Đó là cái tâm chân thành và trong sáng của người
    anh hùng. Đó là nỗi hổ thẹn đầy khiêm tốn và cao cả, giống như nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến sau này trong
    Thu Vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

  2. Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

    Hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng cho ta thêm hiểu về chí làm trai của bậc nam nhi trong thiên hạ. Phạm Ngũ Lão với hoài bão lớn lao, với tư tưởng lớn khẳng định trách nhiệm của bậc nam nhi với quê hương, với dân tộc. Và đặc biệt, phải có thái độ xấu hổ khi chưa có những đóng góp, những cống hiến cho đất nước. Chỉ có giữ sự xấu hổ ấy thì con người mới có thể hành động và hướng theo điều tốt đẹp để từ đó dựng xây quê hương. Mượn thuyết Vũ Hầu, điều tac giả muốn nói tới bạn đọc là sự ngợi ca, là lòng khiêm tốn học hỏi và phải luôn không ngừng cố gắng.

Phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng hay nhất

  • Dàn ý phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng
  • Phân tích 2 câu thơ cuối bài Tỏ lòng - Mẫu 1
  • Phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng - Mẫu 2
  • Phân tích 2 câu cuối bài thơ Tỏ lòng - Mẫu 3
  • Phân tích 2 câu cuối Tỏ lòng - Mẫu 4

Dàn ý phân tích 2 câu cuối bài Tỏ lòng

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320), người làng Phù ủng, huyện Đường Hào (Nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), làcon rể (lấy con gái nuôi) của Trần Hưng Đạo.

- Dẫn dắt 2 câu thơ cuối cần phân tích

II. Thân bài: Phân tích nội dung 2 câu thơ đầu bài Tỏ lòng

Hai câu cuối:

Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

- Chí "nam nhi": "Công danh trái" Món nợ công danh. Công danh và sự nghiệp được coi là món nợ đời phải trả của kẻ làm trai; nghĩa là phải lập công, lập danh, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời, cho dân cho nước.

Trong hoàn cảnh XH phong kiến, chí làm trai trở thành lí tưởng tích cực có tác dụng to lớn đối với con người
và xã hội.

- "Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu": Tác giả tự thấy hổ thẹn trước tấm gương tài – đức lớn lao của Khổng Minh vì chưa trả được nợ công danh cho nước, cho đời. =>Đó là cái tâm chân thành và trong sáng của người anh hùng. Đó là nỗi hổ thẹn đầy khiêm tốn và cao cả, giống như nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến sau này trong Thu Vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

III. Kết bài:

Phân tích 2 câu thơ cuối để thấy được nỗi thẹn của người anh hùng không hề bình thường chút nào mà đó là nỗi thẹn của một nhân cách lớn.

Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng

THPT Sóc Trăng Send an email

0 7 phút

Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lãođể thấy đượcnỗi thẹn của người anh hùng không hề bình thường chút nào mà đó là nỗi thẹn của một nhân cách lớn. Băn khoăn ấy không dành riêng cho bản thân mà toàn tâm toàn ý hướng về sự nghiệp lớn muôn trời, vì sự bình yên của sơn hà, xã tắc.

>>> Hướng dẫn Soạn bài Tỏ lòng ngắn gọn nhất

Bài viết gần đây

  • Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

    Thuyết minh về Nguyễn Trãi: Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi

  • Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

    Cảm nhận về đoạn trích Chí khí anh hùng

  • Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

    Phân tích bài Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) – Trương Hán Siêu

  • Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

    Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du

Nội dung

  • 1 Nội dung khái quát 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng
  • 2 Bài văn phân tích hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng của học sinh giỏi văn
  • 3 Văn mẫu 10 – Phân tích 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Nội dung khái quát 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Bạn đang xem: Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

– Chí “nam nhi”: “Công danh trái” Món nợ công danh. Công danh và sự nghiệp được coi là món nợ đời phải trả
của kẻ làm trai; nghĩa là phải lập công, lập danh, để lại sự nghiệp và tiếng thơm cho đời, cho dân cho nước.
Trong hoàn cảnh XH phong kiến, chí làm trai trở thành lí tưởng tích cực có tác dụng to lớn đối với con người
và xã hội.

– “Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”: Tác giả tự thấy hổ thẹn trước tấm gương tài – đức lớn lao của Khổng
Minh vì chưa trả được nợ công danh cho nước, cho đời. =>Đó là cái tâm chân thành và trong sáng của người
anh hùng. Đó là nỗi hổ thẹn đầy khiêm tốn và cao cả, giống như nỗi thẹn của Nguyễn Khuyến sau này trong
Thu Vịnh: Nhân hứng cũng vừa toan cất bút Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

——

Bài văn phân tích hai câu cuối bài thơ Tỏ lòng của học sinh giỏi văn

Phạm Ngũ Lão được biết đến là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Bên cạnh đó ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là “Tỏ lòng” (Thuật hoài) và “Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”. Đặc biệt, “Tỏ lòng” đã thể hiện vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng hiên ngang với lí tưởng và nhân cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.

Bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả trú trọng ca ngợi vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người anh hùng hiên ngang lẫm liệt thì ở hai câu thơ cuối như một lời bộc bạch của kẻ làm trai, công danh, sự nghiệp như một món nợ đời

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu)

Là một thành viên ưu tú của quân đội hào hùng ấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ về trách nhiệm của bản thân.

Xưa nay viết về chí làm trai, người đọc đã bắt gặp những vần thơ rất đỗi quen thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Cũng đồng điệu tâm hồn với bao kẻ sĩ đương thời, Phạm Ngũ Lão vô cùng đề cao lí tưởng trung quân, ái quốc. Bởi vậy, ông cho rằng đã là nam nhi thì phải trả nợ công danh, mà nợ công danh ở đây chính là làm điều có công với đất nước: “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Lí tưởng công danh ấy thể hiện cái nhìn tiến bộ và nhân cách cao đẹp của một vị tướng hết lòng muốn giúp nước, giúp đời. Nghĩ thấy bản thân chưa trả trọn nợ công danh, tác giả trăn trở, băn khoăn: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.

Vũ Hầu chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người tài đức vẹn toàn đời Hán, có công lớn giúp Lưu Bị khôi phục vương triều.Ông cảm thấy “thẹn” khi đối sánh mình với cha ông, tự thấy bản thân chưa thể sánh được với họ. Khát vọng mong muốn lập nhiều công danh hơn nữa được diễn tả hết sức khiêm nhường khi đặt bản thân mình bên cạnh mưu thần Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng thể hiện khát vọng lập công và chí làm
trai hết sức tiến bộ của Phạm Ngũ Lão.

Với hệ thống ngôn từ hàm súc, cô đọng cùng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, “Tỏ lòng” đã khắc họa vẻ đẹp của con người thời nhà Trần có sức mạnh, lí tưởng, nhân cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại. Âm hưởng mạnh mẽ ấy để lại dư ba trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống không bao giờ quên đề ra lí tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.

Tham khảo thêm: Bài văn mẫuphân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Văn mẫu 10 – Phân tích 2 câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.

Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A.

Chúng ta có thể thấy được hình ảnh trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Không có một từ ngữ nào có thể tả hết được chí khí hùng mạnh của quân đội nhà Trần. Tuy nhiên mạnh mẽ là vậy nhưng trong lòng quân tướng vẫn luôn canh cánh một nỗi niềm:

Nam nhi vị liễu công danh trải,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hâu)

Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.

“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:

“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”

(Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai).

Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:

“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

hay:

“Ơn vua chưa chút đáp đền

Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vô cùng nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến muôn đời sau.

Có thể bạn quan tâm: Cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

——–

Trên đây là bài văn mẫu phân tích hai câu thơ cuối trong bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão mà THPT Sóc Trăng đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình học bài và làm bài. Chúc các em học tốt môn văn mẫu 10

[Văn mẫu 10] Phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão để thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi thẹn của người quân tử

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục

Tags

Ngữ Văn lớp 10 Văn mẫu lớp 10

THPT Sóc Trăng Send an email

0 7 phút

I. Dàn ýPhân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng (Chuẩn)

1. Mở bài

Giới thiệu về bài thơ Tỏ lòng và hai câu thơ cuối của bài

2. Thân bài

- 2 câu thơ cuối cùng, nhà thơ tập trung thể hiện khát vọng lập công cao đẹp và nỗi thẹn của "kẻ làm trai":

"Nam nhi vị liễu công danh trái"

+ Trong xã hội xưa, những trang nam nhi thường coi việc trả nợ công danh là mục tiêu, khát vọng lớn nhất của cuộc đời.
+ Phạm Ngũ Lão cũng đề cao lí tưởng trung quân ái quốc, khát vọng lập công của kẻ làm trai.
+ Khát vọng công danh của Phạm Ngũ Lão không chỉ thể hiện tinh thần trách nhiệm cao mà còn bộc lộ nhân cách cao đẹp của một con người, một vị tướng mang khát khao cứu nước, giúp đời cao đẹp.

"Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

+ Tự nhận thấy cái nợ công danh chưa trả xong "Nam nhi vị liễu công danh trái" nên nhà thơ luôn canh cánh một nỗi thẹn.
+ "Vũ Hầu" được nhắc đến trong câu thơ là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người tài trí hơn người, giỏi tài mưu lược, ông cũng được coi là biểu tượng đẹp về chí làm trai.
+ Phạm Ngũ Lão thấy hổ thẹn vì ông cho rằng bản thân còn chưa trả xong nợ công danh, chưa hoàn thành trách nhiệm của kẻ làm trai với đất nước, nhân dân.
+ Nỗi thẹn ấy cũng thật đáng trân trọng, đó là cái thẹn của một người có tài năng, nhân cách, trách nhiệm với cuộc đời.

3. Kết bài

Nêu cảm nghĩ chung

Nội dung chính bài Tỏ lòng

Dàn ý nghiên cứu và phân tích bài thơ Tỏ lòng

Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

Điều tác giả muốn to lòng qua hai câu thơ cuối là gì

I. Mở bài:

Bạn đang đọc: Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

– Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão : Phạm Ngũ Lão là người văn võ song toàn, ông có nhiều sáng tác nói về chí làm trai và lòng yêu nước, tuy nhiên hiện chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán là Tỏ lòng ( Thuật hoài ) và Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương ( Văn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương )– Giới thiệu khái quát nội dung và thẩm mỹ và nghệ thuật bài thơ Tỏ lòng : Tỏ lòng là bài thơ Đường luật ngắn gọn, súc tích, khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, nhân cách cao quý cùng khí thế hào hùng của thời đại .

II. Thân bài:

1. Hình tượng con người và sức mạnh quân đội nhà Trần

a. Hình tượng con người thời Trần

– Hành động : hoành sóc – cầm ngang ngọn giáo → Tư thế hùng dũng, oai nghiêm, hiên ngang sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc– Không gian kì vĩ : giang sơn – giang sơn → Không gian to lớn, bát ngát, nó không đơn thuần là sông, là núi mà là giang sơn, quốc gia, Tổ quốc– Thời gian kì vĩ : kháp kỉ thu – đã mấy thu → Thời gian dài đằng đẵng, không biết đã bao nhiêu mùa thu, bao nhiêu năm đi qua, biểu lộ quy trình đấu tranh bền chắc, lâu dài hơn .⇒ Như vậy :+ Hình ảnh người tráng sĩ cho thấy một tư thế hiên ngang, can đảm và mạnh mẽ, hào hùng, chuẩn bị sẵn sàng lập nên những chiến công vang dội+ Hình ảnh, tầm vó những người tráng sĩ ấy sánh với núi sông, quốc gia, với tầm vóc hùng vĩ của thiên hà .+ Người tráng sĩ ấy ra đi bảo vệ Tổ quốc ròng rã mấy năm trời mà chưa từng một khoảng thời gian ngắn nào cảm thấy stress mà trái lại vẫn tưng bừng khí thế hiên ngang, quật cường, hùng dũng

b. Hình tượng quân đội thời Trần

– “ Tam quân ” ( ba quân ) : tiền quân, trung quân, hậu quân – quân đội của cả quốc gia, cả dân tộc bản địa cùng nhau đứng lên để chiến đấu– Sức mạnh của quân đội nhà Trần :+ Hình ảnh quân đội nhà Trần được so sánh với “ tì hổ ” ( hổ báo ) qua đó biểu lộ sức mạnh hùng dũng, dũng mãnh của đội quân+ “ Khí thôn ngưu ” : khí thế hào hùng, can đảm và mạnh mẽ ép chế cả trời cao, cả khoảng trống ngoài hành tinh bát ngát, to lớn → Với những hình ảnh so sánh, phóng đại độc lạ, sự phối hợp giữa hiện thực và lãng mạn, giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan đã cho thấy sức mạnh và tầm vóc của quân đội nhà Trần⇒ Như vậy, hai câu thơ đầu đã cho thấy hình ảnh người tráng sĩ hùng dũng, oai phong cùng tầm vóc can đảm và mạnh mẽ và sức mạnh của quân đội nhà Trần. Nghệ thuật so sánh phong đại cùng giọng điệu hào hùng mang lại hiệu suất cao cao .

2. Nỗi lòng muốn bày tỏ của tác giả

– Giọng điệu : ngưng trệ, suy tư, qua đó thể hiện tâm trạng do dự, trăn trở– Nợ sự nghiệp : Theo ý niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang đàn ông khi sinh ra đã phải mang trong mình. Nó gồm 2 phương diện : Lập công ( để lại chiến công, sự nghiệp ), lập danh ( để lại danh thơm cho hậu thế ). Kẻ làm trai phải làm xong hai trách nhiệm này mới được coi là hoàn trả món nợ .– Theo ý niệm của Phạm Ngũ Lão, làm trai mà chưa trả được nợ công danh sự nghiệp “ thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu ” :+ Thẹn : cảm thấy xấu hổ, thua kém với người khác+ Chuyện Vũ Hầu : tác giả sử dụng tích về Khổng Minh – tấm gương về niềm tin tận tâm tận lực báo đáp chủ tướng. Hết lòng trả món nợ công danh sự nghiệp đến hơi thở sau cuối, để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế → Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão rất là cao quý của một nhân cách lớn. Thể hiện khát khao, tham vọng hướng về phía trước để thực thi lí tưởng, nó thức tỉnh ý chí làm trai, chí hướng lập công cho những trang nam tử⇒ Với âm hưởng ngưng trệ, suy tư và việc sử dụng điển cố điển tích, hai câu thơ cuối đã biểu lộ tâm tư nguyện vọng và khát vọng lập công của Phạm Ngũ Lão cùng quan điểm về chí làm trai rất tân tiến của ông

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và thẩm mỹ và nghệ thuật– Bài học so với thế hệ người trẻ tuổi thời nay : Sống phải có tham vọng, hoài bão, biết vượt qua khó khăn vất vả, thử thách để biến tham vọng thành hiện thực, có ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm với cá thể và hội đồng .