Điểm mới về văn học thời Minh, Thanh ở Trung Quốc số với thời kì trước là gì

Điểm mới về văn học thời Minh, Thanh là gì

A."Tiểu thuyết chương hối".
B."Tiểu thuyết lịch sử"
C."Tiểu thuyết dân gian".
D."Tiểu thuyết kể chuyện".

Câu hỏi thuộc đề thi sau. Bạn có muốn thi thử?

Bài tập trắc nghiệm 45 phút Bài 5: Trung Quốc thời Phong Kiến - Lịch sử 10 - Đề số 3

Làm bài

Chia sẻ

Một số câu hỏi khác cùng bài thi.

Một số câu hỏi khác có thể bạn quan tâm.

Một số thể loại văn học phổ biến thời Minh – Thanh

Từ đời Minh văn học Trung Quốc phát triển rất rực rỡ với nhiều thể loại tiểu thuyết:

– Tiểu thuyết chương hồi gồm nhiều đề tài phong phú.

– Tiểu thuyết lịch sử (giảng sử) hoặc tiểu thuyết anh hùng

– Tiểu thuyết hiệp nghĩa (hiệp khách, kiếm khách, võ hiệp) còn gọi truyện anh hùng giai nhân

– Tiểu thuyết thế tình (xã hội) còn gọi truyện tài tử giai nhân

– Tiểu thuyết tiên quái thần quỷ….

Tiểu thuyết chương hồi ở nhà Minh chưa có nhiều sự đột phát thì đến đời Thanh được coi là bước phát triển đã tới thời điểm hoàng kim.

Các tác phẩm nổi tiếng của tiểu thuyết văn học thời Minh Thanh: Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du ký của Ngô Thừa Ân, Kim Bình Mai của Tiếu Tiếu Sinh, Chuyện làng Nho (Nho lâm ngoại sử) của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần,Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Tử bất Ngữ của Viên Mai,…

So sánh về tiểu thuyết Minh Thanh

Điểm chung:

Kết cấu: Theo trình tự thời gian, cái gì xảy ra trước kể trước, xảy ra sau kể sau. Không theo dạng xuyên không, Không đảo ngược thứ tự theo diễn biễn tâm lý nhân vật.

Tính cách nhân vật: Thông qua ngôn ngữ và hành động của nhân vật độc giả có thể tự đúc kết tính cách, phong thái nhân vật, không cần sự thuyết minh phân tích của nhà văn.

Thủ pháp ước lệ và công thức:được dùng trong miêu tả, lý giải, là thủ pháp miêu tả điển hình của văn cổ – trung đại.

Điểm khác biệt

Tiểu thuyết thời Minh Tiểu thuyết thời Thanh
Sáng tác dân gian được nhà văn bác học viết lại có căn cứ theo sử sách. Sáng tác cá nhân, không chịu ràng buộc bởi sử sách, gần với tiểu thuyết hiện đại hơn, có bước tiến rõ rệt về nghệ thuật.
Có thể gọi tiểu thuyết Minh là tiểu thuyết anh hùng Tiểu thuyết Thanh là tiểu thuyết sinh hoạt (tâm lý xã hội).

Mục lục

  • 1 Lịch sử
    • 1.1 Thành lập
      • 1.1.1 Nổi dậy và cạnh tranh với các tập đoàn phiến quân
      • 1.1.2 Triều đại của Minh Thái Tổ
      • 1.1.3 Lãnh thổ Tây Nam
      • 1.1.4 Chiến dịch miền Đông Bắc
      • 1.1.5 Quan hệ với Tây Tạng
    • 1.2 Triều đại của Minh Thành Tổ
      • 1.2.1 Thâu tóm quyền lực
      • 1.2.2 Kinh đô mới và quan hệ quốc tế
    • 1.3 Sự biến Thổ Mộc bảo và binh lính gốc Mông Cổ
    • 1.4 Sự suy tàn và sụp đổ của nhà Minh
      • 1.4.1 Cuối thời Minh Thần Tông
      • 1.4.2 Vai trò của hoạn quan
      • 1.4.3 Suy thoái kinh tế, thiên tai
      • 1.4.4 Sự trỗi dậy của người Mãn Châu
      • 1.4.5 Nội loạn, ngoại xâm, diệt vong
  • 2 Chính quyền
    • 2.1 Tỉnh, phủ, châu và huyện
    • 2.2 Thể chế và bộ máy quan chức
      • 2.2.1 Xu hướng thể chế
      • 2.2.2 Nội các và Lục bộ
      • 2.2.3 Ty và cục phục vụ hoàng gia
    • 2.3 Nhân sự nhà nước
      • 2.3.1 Sĩ đại phu
      • 2.3.2 Tư lại
      • 2.3.3 Hoạn quan, vương gia và tướng lĩnh
  • 3 Quân đội
    • 3.1 Tổ chức
    • 3.2 Vũ khí thuốc súng
  • 4 Văn hóa, xã hội
    • 4.1 Văn học và nghệ thuật
    • 4.2 Kiến trúc
    • 4.3 Tôn giáo
    • 4.4 Triết học
      • 4.4.1 Tư tưởng Nho giáo của Vương Dương Minh
      • 4.4.2 Phản ứng bảo thủ
    • 4.5 Đời sống thành thị và nông thôn
  • 5 Kinh tế
    • 5.1 Tiền tệ
    • 5.2 Nông nghiệp
    • 5.3 Thủ công nghiệp và thương mại
  • 6 Khoa học và kỹ thuật
  • 7 Dân số
  • 8 Xem thêm
  • 9 Ghi chú
  • 10 Tham khảo
    • 10.1 Chú thích
    • 10.2 Thư mục
  • 11 Đọc thêm
  • 12 Liên kết ngoài

Lịch sử

Thành lập

Nổi dậy và cạnh tranh với các tập đoàn phiến quân

Trước khi nhà Minh thành lập, Trung Quốc được cai trị bởi nhà Nguyên (1271–1368) của người Mông Cổ. Thể chế kỳ thị sắc tộc Hán sâu sắc, chế độ thuế khóa nặng nề ở những khu vực bị ảnh hưởng trầm trọng bởi lạm phát và các trận lụt ven sông Hoàng Hà do công tác trị thủy bị bỏ ngõ là ba trong số nhiều nguyên nhân khiến nhà Nguyên diệt vong.[11] Cuối triều đại, tình hình nông nghiệp, kinh tế rơi vào hỗn loạn, các cuộc nổi dậy bùng phát giữa hàng trăm nghìn nông dân được ra lệnh phải tu sửa các con đê dọc sông Hoàng Hà.[11] Năm 1351, vài nhóm phiến quân người Hán bắt đầu tổ chức khởi nghĩa, trong đó có Hồng Cân quân. Hồng Cân quân có liên hệ mật thiết với Bạch Liên giáo, một giáo phái Phật giáo. Chu Nguyên Chương, một nông dân bần cùng kiêm nhà sư, gia nhập Hồng Cân quân vào năm 1352. Ông sớm nổi danh sau khi kết hôn với con gái nuôi của một vị chỉ huy phiến quân.[12] Năm 1356, Chu Nguyên Chương và lực lượng của mình chiếm được thành Nam Kinh,[13] nơi sau này được ông chọn làm kinh đô của nhà Minh.

Trước sự sụp đổ của nhà Nguyên, các nhóm phiến quân bắt đầu cạnh tranh, giành quyền kiểm soát đất nước để kiến lập nên một triều đại mới. Năm 1363, Chu Nguyên Chương loại bỏ Trần Hữu Lượng, kẻ thù lớn nhất của ông và cũng đang là thủ lĩnh của nhóm phiến quân Đại Hán, trong trận hồ Bà Dương được xem là một trong những trận thủy chiến lớn nhất lịch sử. Nhờ sử dụng hỏa thuyền, 20 vạn thủy quân Minh của Chu Nguyên Chương đã đánh bại quân Đại Hán có quy mô lớn gấp 3 lần với quân số khoảng 65 vạn. Chiến thắng này đặt dấu chấm hết cho tập đoàn phiến quân đối lập cuối cùng, giúp Chu Nguyên Chương giành quyền kiểm soát lưu vực sông Dương Tử trù phú và củng cố quyền lực ở phía nam. Không còn ai có khả năng tranh đoạt ngai vàng với Chu Nguyên Chương sau khi thủ lĩnh Hồng Cân quân chết một cách đáng ngờ trong lúc đang làm khách của họ Chu vào năm 1367. Năm 1368, Chu Nguyên Chương cử một đạo quân tới kinh đô Đại Đô của nhà Nguyên (Bắc Kinh ngày nay) để hiện thực hóa tham vọng đế vương.[14] Hoàng đế Nguyên Mông cuối cùng buộc phải tháo chạy đến Thượng Đô. Chu Nguyên Chương cho san bằng cung điện ở Đại Đô, tuyên bố khai sinh nhà Minh;[14] cùng năm đó, Đại Đô được đổi tên thành Bắc Bình.[15] Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương lên ngôi, lấy niên hiệu là Hồng Vũ.

Triều đại của Minh Thái Tổ

Chân dung Minh Thái Tổ (trị.1368–1398).

Minh Thái Tổ lập tức nỗ lực tái thiết cơ sở hạ tầng quốc gia. Ông cho xây dựng một bức tường thành dài 48km bao quanh Nam Kinh, cùng với các cung điện và hội trường chính phủ mới.[14] Minh sử ghi nhận rằng ngay từ năm 1364, Chu Nguyên Chương đã bắt đầu cho biên soạn một bộ luật Nho mới có tên Đại Minh luật, hoàn thành vào năm 1397 và kế thừa một vài điều luật còn sót lại trong bộ luật cũ ra đời năm 653 của nhà Đường.[16] Minh Thái Tổ tổ chức hệ thống quân đội theo chế độ vệ sở, tương tự như phủ binh chế thời nhà Đường (618–907).

Năm 1380, Minh Thái Tổ xử tử Tể tướng Hồ Duy Dung vì nghi ngờ ông này có âm mưu đảo chính. Sau sự kiện trên, Minh Thái Tổ bãi bỏ chức vụ tể tướng, tự mình vừa làm hoàng đế vừa trực tiếp tổng điều hành chính sự, một tiền lệ được đa phần các hoàng đế nhà Minh kế tiếp noi theo.[17][18] Ngày càng ngờ vực thần dân và giới quan lại đại thần, Minh Thái Tổ quyết định thành lập Cẩm Y vệ, một mạng lưới cảnh sát mật được tuyển chọn từ chính đội cận vệ của ông. Trong những năm Hồng Vũ, khoảng 10 vạn người đã bị hành quyết trong một loạt vụ thanh trừng của hoàng đế khai quốc nhà Minh.[17][19]

Minh Thái Tổ ban hành nhiều sắc lệnh cấm truyền bá phong tục của người Mông Cổ, tuyên bố ý định thanh lọc hết mọi yếu tố du mục khỏi văn hóa Trung Hoa. Dù vậy, ông vẫn khéo léo sử dụng các di sản của nhà Nguyên để hợp pháp hóa quyền lực trên toàn Trung Quốc và cả nhiều khu vực khác từng được nhà Nguyên cai trị. Minh Thái Tổ duy trì một vài chính sách của nhà Nguyên, chẳng hạn như yêu cầu Triều Tiên cống nạp phi tần, hoạn quan, giữ lại thể chế quân sự cha truyền con nối kiểu Mông Cổ, bảo tồn phong cách quần áo, mũ nón của người Mông Cổ, cổ vũ hoạt động cưỡi ngựa, bắn cung và để một số lượng lớn người Mông Cổ phục vụ quân đội nhà Minh. Cho đến cuối thể kỷ 16, người Mông Cổ vẫn chiếm 1/3 số nhân lực phục vụ trong các đơn vị đóng tại kinh đô như Cẩm Y vệ, cùng với nhiều chủng dân khác, nhất là người Nữ Chân.[20] Minh Thái Tổ thường xuyên gửi thư tới các nhà cai trị của các quốc gia láng giềng ở Mông Cổ, Nhật Bản, Triều Tiên, Mãn Châu, Tây Tạng và phía tây nam Trung Quốc, để cho lời khuyên về đường lối chính sách mà chính phủ và cả triều đại của họ nên áp dụng, cũng như nhấn mạnh việc các nhà lãnh đạo này phải đến tiếp kiến hoàng đế ở Nam Kinh. Ông tổ chức tái định cư cho khoảng 10 vạn người Mông Cổ trên lãnh thổ nhà Minh, rất nhiều trong số đó tập hợp thành các vệ sở ở kinh đô. Hoàng đế cũng thường xuyên quảng bá về sự khoan đãi và vị trí mà ông ban cho giới quý tộc Chinggisid[f] trong triều đình.[21]

Lãnh thổ Tây Nam

Tại Thanh Hải, người Hồi giáo Tát Lạp tự nguyện thần phục nhà Minh khi các tộc trưởng của họ đầu hàng vào khoảng năm 1370. Quân đội Duy Ngô Nhĩ dưới quyền tướng Ha Lặc Ba Sĩ, đàn áp các cuộc nổi dậy của người Miêu trong những năm 1370 và định cư ở Thường Đức, Hồ Nam.[22] Người Hồi cũng định cư ở Thường Đức sau khi phục vụ nhà Minh trong các chiến dịch dẹp loạn thổ dân.[23] Năm 1381, nhà Minh sáp nhập các khu vực phía tây nam từng là một phần của Vương quốc Đại Lý khi quân Hồi đánh bại lực lượng người Hồi và Mông Cổ trung thành với nhà Nguyên, phản kháng ở Vân Nam. Tướng Mộc Anh được bổ nhiệm làm tổng đốc Vân Nam, cho binh lính người Hồi của mình tái định cư ngay tại đây như một biện pháp thuộc địa hóa.[24] Cuối thế kỷ 14, khoảng 20 vạn "thực dân" đã sinh sống trên khoảng 2 triệu mẫu[g] đất ở hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu ngày nay. Trong những giai đoạn tiếp theo, lại có thêm nửa triệu người Trung Quốc di cư đến các vùng đất kể trên. Chính những cuộc di cư này đã gây ra sự thay đổi lớn về thành phần sắc tộc khi mà trước đây hơn một nửa số dân trong khu vực đều không phải là người Hán. Giữa hai năm 1464 và 1466, phẫn nộ trước những biến chuyển sắc tộc quá lớn cũng như bất bình với sự hiện diện và chính sách của chính quyền, người Miêu cùng người Dao đứng lên nổi loạn, nhưng bị 3 vạn quân triều đình (bao gồm 1 nghìn lính Mông Cổ) phối hợp với 16 vạn quân địa phương ở Quảng Tây đè bẹp. Sau khi bình định một cuộc nổi loạn khác trong khu vực, học giả kiêm triết gia Vương Dương Minh (1472–1529) chủ trương quản lý đơn lẻ, thống nhất người Hán với các nhóm dân tộc bản địa, để tiện bề Hán hóa dân địa phương.[25]

Chiến dịch miền Đông Bắc

Vạn lý Trường thành; mặc dù công trình này được khởi công từ tận thời nhà Tần, nhưng những đoạn tường thành còn sót lại mà chúng ta thấy ngày nay, chủ yếu được xây dựng vào thời nhà Minh.

Ngay cả khi Đế quốc Nguyên Mông đã bị nhà Minh lật đổ vào năm 1368, vùng Mãn Châu vẫn nằm dưới sự kiểm soát của nhà Bắc Nguyên định đô ở bình nguyên Mông Cổ. Nạp Cáp Xuất (), cựu quan chức nhà Nguyên và là tướng lĩnh vùng Ngột Lương Cáp của Bắc Nguyên, giành được quyền bá chủ các bộ tộc Mông Cổ trên khắp Mãn Châu (trước đây là tỉnh Liêu Dương của nhà Nguyên). Ông khuếch trương quân đội ở miền đông bắc, sở hữu một lực lượng có quân số lên đến hàng chục vạn, đủ để đe dọa xâm lược nhà Minh mới thành lập, khôi phục lại quyền lực cho người Mông Cổ. Nhà Minh quyết định ra tay trước thay vì chờ người Mông Cổ uy hiếp. Năm 1387, họ tổ chức một chiến dịch quân sự tấn công Nạp Cáp Xuất, kết thúc thắng lợi khi bắt Nạp Cáp Xuất đầu hàng và chinh phục được Mãn Châu.[26]

Ban đầu, triều đình nhà Minh không và cũng không thể áp đặt quyền kiểm soát tộc Nữ Chân như người Mông Cổ từng làm ở Mãn Châu, nhưng họ đã tạo ra một bộ quy tắc tổ chức mà sau này trở thành phương tiện chính cho mối quan hệ với các dân tộc dọc biên giới đông bắc. Cuối thời Minh Thái Tổ, những đường lối cốt yếu trong chính sách với người Nữ Chân đã được hình thành.[27] Nhà Minh cho đặt nhiều vệ sở ở Mãn Châu, nhưng đây không hẳn là một động thái mang tính ngầm kiểm soát chính trị khu vực.[28] Năm 1409, triều đình nhà Minh dưới thời Minh Thành Tổ thành lập Nô Nhi Can đô ty đặt bên bờ sông Hắc Long Giang. Diệc Thất Ha, một hoạn quan gốc Hải Tây Nữ Chân, được cử tới cửa sông Hắc Long Giang để bình định Dã Nhân Nữ Chân.[29] Năm 1435, sau khi Minh Thành Tổ băng hà, Nô Nhi Can đô ty bị giải thể. Triều đình nhà Minh không còn duy trì hoạt động đáng kể ở Mãn Châu, mặc dù vẫn để lại nhiều vệ sở tại đây. Cuối thời nhà Minh, mức độ hiện diện chính trị của người Hán tại Mãn Châu đã suy giảm đáng kể.

Quan hệ với Tây Tạng

Một đường tạp[h] Tây Tạng thế kỷ 17, khắc họa Mật Tập Kim Cương. Triều đình nhà Minh thu nhận nhiều cống phẩm bản địa Tây Tạng,[30] và tặng lại quà cho những người mang cống phẩm.[31]

Theo Minh sử – bộ chính sử được triều Thanh biên soạn vào năm 1739, nhà Minh đã cho thành lập nhiều hành đô sứ ty[i] giám sát chính quyền Tây Tạng, đồng thời gia hạn tước vị cho các cựu quan chức nhà Nguyên và phong tước vị mới cho các nhà lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng.[32] Tuy nhiên, theo Turrell V. Wylie, hoạt động kiểm duyệt Minh sử đã góp phần củng cố uy tín và danh tiếng cho hoàng đế nhà Minh khi bằng mọi giá che mờ đi lịch sử sắc thái quan hệ Hán–Tạng trong suốt triều đại.[33]

Các học giả hiện đại vẫn còn đang tranh luận về việc liệu nhà Minh có chủ quyền thực sự đối với Tây Tạng hay không. Một số người tin rằng đó chỉ là mối quan hệ chư hầu lỏng lẻo và đã gần như chấm dứt hẳn sau khi Minh Thế Tông (trị.1521–1567) đàn áp Phật giáo, tôn sùng Đạo giáo trong triều đình. Số khác thì lại cho rằng bản chất tôn giáo quan trọng trong mối quan hệ với các Lạt-ma Tây Tạng, đã không được đề cập đầy đủ trong các phân tích học thuật hiện đại.[33][34] Cũng có một vài ý kiến tập trung vào việc nhà Minh rất cần chiến mã Trung Á, cũng như luôn muốn duy trì hoạt động đổi trà lấy ngựa với Tây Tạng.[35][36][37][38]

Trong thế kỷ 14, người Tây Tạng chặn đứng thành công nhiều cuộc xâm lược vũ trang của nhà Minh.[39][40] Vài học giả chỉ ra rằng không giống như người Mông Cổ trước kia, nhà Minh không đóng quân thường trực ở Tây Tạng.[41][42] Minh Thần Tông (trị.1572–1620) nỗ lực hàn gắn quan hệ ngoại giao Hán–Tạng sau khi liên minh Mông Cổ–Tây Tạng được thành lập vào năm 1578, một liên minh ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của cả triều đình nhà Thanh (1644–1912) sau này trong việc phải ủng hộ các Đạt-lai Lạt-ma phái Mũ vàng.[33][43][44][45] Đến cuối thế kỷ 16, người Mông Cổ chứng minh là họ hoàn toàn có khả năng làm lá chắn vũ trang cho các Đạt-lai Lạt-ma khi ngày càng hiện diện nhiều hơn ở vùng An Đa, đỉnh điểm là vào năm 1642, khi Cố Thủy Hãn (1582–1655) chinh phục Tây Tạng,[33][46][47] thành lập Hãn quốc Hòa Thạc Đặc.

Triều đại của Minh Thành Tổ

Thâu tóm quyền lực

Chân dung Minh Thành Tổ (trị.1402–1424).

Minh Thái Tổ chỉ định cháu nội Chu Doãn Văn làm người kế vị. Khi Minh Thái Tổ băng hà vào năm 1398, Minh Huệ Tông Chu Doãn Văn (1398–1402) nối ngôi, lấy niên hiệu là Kiến Văn. Chu Đệ, đứa con quyền lực đồng thời đang nắm giữ binh lực hùng hậu nhất của Minh Thái Tổ, không công nhận tân hoàng đế. Ngay sau đó, Chu Đệ và Minh Huệ Tông bước vào một cuộc đấu chính trị.[48] Trước việc nhiều đồng minh bị Minh Huệ Tông bắt giam, Chu Đệ bắt đầu âm mưu cướp ngôi, dấy lên một cuộc nội chiến kéo dài ba năm. Viện cớ muốn cứu Minh Huệ Tông trẻ tuổi khỏi bè lũ gian thần, Chu Đệ đích thân lãnh đạo phiến quân tiến hành nổi dậy. Ông cho thiêu rụi thành Nam Kinh. Minh Huệ Tông, vợ, mẹ cùng các cận thần của ông đều chết trong trận hỏa hoạn. Minh Thành Tổ Chu Đệ lên ngôi, lấy niên hiệu Vĩnh Lạc. Triều đại của Minh Thành Tổ được các học giả xem như "lần khai sinh thứ hai" của nhà Minh vì ông đã đảo ngược nhiều chính sách của cha mình.[49]

Kinh đô mới và quan hệ quốc tế

Nam Kinh trở thành thứ kinh khi Minh Thành Tổ chọn Bắc Kinh là kinh đô mới vào năm 1403. Kinh đô mới được thi công từ năm 1407 đến năm 1420, huy động hàng nghìn nhân công mỗi ngày.[50] Trung tâm của Bắc Kinh là Hoàng thành, nằm giữa Hoàng thành là Tử Cấm thành, một tổ hợp cung điện nguy nga của hoàng đế và gia đình. Năm 1553, Ngoại thành được xây dựng thêm ở phía nam, mở rộng chu vi Bắc Kinh từ 4 lên thành 4,5 dặm.[51]

Thập Tam lăng cách Bắc Kinh 50 km (31 dặm) về phía bắc; Minh Thành Tổ là người chọn địa điểm đặt khu mộ.

Bắt đầu từ năm 1405, Minh Thành Tổ giao cho Trịnh Hòa (1371–1433), viên hoạn quan mà ông rất sủng ái, làm đô đốc một hạm đội mới phục vụ cho sứ mệnh triều cống quốc tế. Người Trung Quốc từng cử các phái đoàn ngoại giao đường bộ tới các quốc gia khác từ tận thời nhà Hán (202 TCN–220 CN) và cũng đã giao thương đường thủy từ lâu, nhưng những phái bộ của Trịnh Hòa là lớn chưa từng có. Để phục vụ bảy chuyến hải trình khác nhau, từ năm 1403 đến năm 1419, các xưởng đóng tàu ở Nam Kinh đã đóng hai nghìn con tàu, bao gồm cả các bảo thuyền[j] có chiều dài từ 112 m đến 134 m, chiều rộng từ 45 m đến 54 m.[52]

Minh Thành Tổ khuyến khích kỹ thuật in khắc gỗ để truyền bá văn hóa Trung Hoa. Ông cũng sử dụng sức mạnh quân đội để mở rộng cương vực lãnh thổ. Xâm lược thành công Đại Ngu vào năm 1406, nhà Minh tiếp tục chiếm đóng quốc gia này trong một khoảng thời gian ngắn, trước khi phải rút quân vì thất bại trước cuộc chiến tranh du kích do Lê Lợi, người sáng lập nhà Hậu Lê, lãnh đạo.[53]

Sự biến Thổ Mộc bảo và binh lính gốc Mông Cổ

Một con hươu cao cổ châu Phi được quốc vương Bengal tặng cho Minh Thành Tổ. Theo một số thuyết thì kỳ lân được cách điệu theo con hươu cao cổ này.

Tháng 7 năm 1449, thủ lĩnh tộc Ngõa Lạt là Dã Tiên, phát động chiến dịch xâm lược nhà Minh. Sau vài chiến bại của quân Minh, thái giám Vương Chấn khích lệ Minh Anh Tông (trị.1435–1449)[k] đích thân cầm quân đánh giặc. Minh Anh Tông rời kinh đô, để người em cùng cha khác mẹ Chu Kỳ Ngọc nhiếp chính tạm thời. Ngày 8 tháng 9 năm 1449, Dã Tiên đại phá quân Minh, bắt sống Minh Anh Tông trong sự biến Thổ Mộc bảo.[54] Người Ngõa Lạt định giữ lại Minh Anh Tông để đòi tiền chuộc. Tuy nhiên, kế hoạch của họ phá sản khi em trai hoàng đế lên ngôi với niên hiệu Cảnh Thái (trị.1449–1457), tức Minh Đại Tông. Quân Ngõa Lạt bị đẩy lùi khi tâm phúc của Minh Đại Tông, Thượng thư Binh bộ Vu Khiêm (1398–1457), giành được quyền kiểm soát các lực lượng vũ trang của nhà Minh. Chừng nào vẫn còn người khác ngồi trên ngai vàng thì việc lấy Minh Anh Tông để mặc cả là vô ích, vì vậy người Ngõa Lạt đành phải phóng thích Minh Anh Tông.[54] Cựu hoàng bị quản thúc nghiêm ngặt trong hoàng cung cho đến khi lật đổ Minh Đại Tông vào năm 1457, bằng một cuộc đảo chính gọi là "Đoạt Môn chi biến".[55] Minh Anh Tông lên ngôi với niên hiệu mới là Thiên Thuận (trị.1457–1464).

Triều đình nhà Minh gặp nhiều khó khăn trong những năm Thiên Thuận. Lực lượng Mông Cổ trong cơ cấu quân đội tiếp tục có vấn đề. Ngày 7 tháng 8 năm 1461, Tào Khâm và binh lính gốc Mông Cổ của ông tổ chức một cuộc đảo chính chống lại Minh Anh Tông vì sợ rằng mình sẽ là người tiếp theo trong danh sách thanh trừng sau Đoạt Môn chi biến.[56] Tào Khâm cùng người của mình cố gắng phóng hỏa cổng phía đông và phía tây Hoàng thành (vốn đã dầm mưa trong suốt trận chiến), giết được một vài đại thần trước khi bị dồn vào chân tường rồi buộc phải tự sát.[57]

Trong khi Minh Thành Tổ từng năm lần thảo phạt người Ngõa Lạt và Mông Cổ ở phía bắc Vạn lý Trường thành, triều đình nhà Minh từ cuối thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 16 lại phải gia cố Vạn lý Trường thành để đối phó với mối đe dọa xâm lược liên tục từ người Ngõa Lạt. John K. Fairbank lưu ý rằng "điều đó đã được chứng minh là một động thái quân sự vô ích, nhưng thể hiện một cách sinh động tâm thế vây hãm của người Trung Quốc."[l][58] Vạn lý Trường thành không phải là một công sự phòng thủ thuần túy, hệ thống tháp canh của nó hoạt động như một dạng đèn hiệu và trạm truyền tin, có chức năng cảnh báo nhanh cho những đơn vị lân cận biết về các đợt tiến công của quân địch.[59]

Sự suy tàn và sụp đổ của nhà Minh

Cuối thời Minh Thần Tông

Minh Thần Tông (trị.1572–1620) trong bộ triều phục.

Tình trạng ngân khố kiệt quệ do chiến tranh Nhâm Thìn gây ra là một trong nhiều vấn đề – liên quan tới tài chính và các lĩnh vực khác – mà nhà Minh phải đối mặt trong giai đoạn trị vì của Minh Thần Tông (1572–1620). Đầu triều đại, Minh Thần Tông được bao quanh bởi những cố vấn có năng lực và đã rất tận tâm giải quyết công việc nhà nước. Phụ chính đại thần Trương Cư Chính (1572–82) xây dựng một mạng lưới liên minh hiệu quả giữa các quan chức cấp cao. Tuy nhiên, không còn ai kế tục Trương Cư Chính duy trì sự ổn định của các liên minh này,[60] các quan chứcsớm tập hợp thành những bè phái chính trị đối lập nhau. Theo thời gian, Minh Thần Tông bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với công việc triều chính và những màn đấu khẩu chính trị giữa các đại thần. Ông chọn nép mình phía sau những bức tường ở Tử Cấm thành, khuất mắt bề tôi của mình.[61]

Giới sĩ đại phu mất dần chỗ đứng trong hoạt động quản lý chính vụ khi các hoạn quan trở thành trung gian giữa họ với vị hoàng đế xa cách. Bất kỳ đại thần nào muốn thảo luận vấn đề quốc gia đều phải hối lộ đám hoạn quan lộng quyền, chỉ để yêu cầu hoặc thông điệp của họ được chuyển đến hoàng đế.[62] Cùng lúc với chiến tranh Nhâm Thìn, loạn Bá Châu cũng đang bùng nổ.[63][64][65][66]

Vai trò của hoạn quan

Tách trà thời Minh Hy Tông, từ Bộ sưu tập Nantoyōsō ở Nhật Bản; Minh Hy Tông chịu ảnh hưởng nặng nề và bị kiểm soát bởi hoạn quan Ngụy Trung Hiền (1568–1627).

Minh Thái Tổ từng cấm hoạn quan được học chữ và tham gia chính trường. Dù những giới luật này có được thực hiện thành công tuyệt đối trong thời Minh Thái Tổ hay không thì các hoạn quan kể từ thời Minh Thành Tổ vẫn quản lý nhiều công xưởng hoàng gia, chỉ huy quân đội và can thiệp công tác bổ nhiệm, thăng chức quan lại. Minh Thành Tổ giao cho 75 hoạn quan phụ trách đối ngoại, họ thường xuyên viếng thăm các quốc gia chư hầu như An Nam, Mông Cổ, Lưu Cầu và Tây Tạng, ít thường xuyên với những nơi xa hơn như Nhật Bản và Nepal. Tuy nhiên, tới cuối thể kỷ 15, các sứ thần hoạn quan chỉ còn thường ghé thăm Triều Tiên.[67]

Giới hoạn quan đã phát triển bộ máy quan liêu của riêng họ, được tổ chức song song nhưng không bị bộ máy công vụ quản lý.[68] Mặc dù có một số hoạn quan tiếm quyền trong suốt triều đại, chẳng hạn như Vương Chấn, Vương Trực, Lưu Cẩn, nhưng quyền lực chuyên chế quá mức của hoạn quan chỉ thực sự rõ ràng khi Minh Thần Tông gia tăng quyền hạn của bộ máy dân sự và trao cho họ quyền thu thuế ở các tỉnh thành trong những năm 1590.[62][69]

Thái giám Ngụy Trung Hiền (1568–1627) khuynh đảo triều chính dưới thời Minh Hy Tông (trị.1620–1627), ông tra tấn đến chết các đối thủ chính trị của mình, phần đa là người của phái Đông Lâm. Ngụy Trung Hiền dựng nhiều đền đài tôn vinh bản thân trên khắp đất nước, dùng tiền từ quỹ lăng tẩm hoàng gia để xây cất tư dinh. Bạn bè và người thân của ông được nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng mà không cần bằng cấp. Ngụy Trung Hiền cũng cho xuất bản nhiều tác phẩm lịch sử chê bai, coi thường các chính trị gia đối lập.[70] Khi thiên tai, ôn dịch, nội loạn và ngoại xâm chạm tới mức đỉnh điểm, cũng là lúc triều đình nhà Minh trở nên bất ổn. Ngụy Trung Hiền tự sát ngay sau khi bị Minh Tư Tông (trị.1627–1644) bãi nhiệm.

Hoạn quan tổ chức cấu trúc xã hội riêng, cấp dưỡng và hỗ trợ cho những thị tộc sinh ra họ. Hình ảnh người cha nâng đỡ con trai mình được thay thế bằng người chú hoạn quan. Hắc Sơn hội ở Bắc Kinh đã tài trợ cho một ngôi đền tiến hành các nghi lễ thờ cúng, tưởng nhớ tới Cương Thiết, một hoạn quan quyền lực thời nhà Nguyên. Ngôi đền trở thành một địa điểm có ảnh hưởng đối với tầng lớp hoạn quan có địa vị và vẫn tiếp tục giữ vai trò (dần suy giảm) này trong cả thời nhà Thanh.[71][72][73]

Suy thoái kinh tế, thiên tai

Bức Hán cung xuân hiểu của Cừu Anh (1494–1552). Giai đoạn Minh mạt đánh dấu sự xa hoa, suy đồi quá mức của hoàng gia, được thúc đẩy nhờ lượng bạc khổng lồ mới cập bến và các giao dịch tư nhân liên quan tới bạc.

Cuối thời Minh Thần Tông, xuyên suốt qua triều đại của hai vị hoàng đế tiếp theo, một cuộc khủng hoảng kinh tế đã bùng phát với trung tâm là sự thiếu hụt đột ngột nguồn cung bạc – phương tiện trao đổi chính của đế quốc. Năm 1516, người Bồ Đào Nha lần đầu tiên giao thương với Trung Quốc,[74] đổi bạc Nhật Bản lấy tơ lụa Trung Quốc.[75] Năm 1557, sau một số động thái thù địch ban đầu, họ được nhà Minh cho phép biến Ma Cao thành cơ sở thương mại lâu dài ở Trung Quốc.[76] Vai trò cung cấp bạc của người Bồ Đào Nha dần bị người Tây Ban Nha thay thế,[77][78][79] cả người Hà Lan cũng thách thức người Bồ Đào Nha trong việc kiểm soát hoạt động buôn bán.[80][81] Vua Felipe IV của Tây Ban Nha (trị.1621–1665) bắt đầu trấn áp các đường dây buôn lậu bạc từ Tân Tây Ban Nha và Peru qua Thái Bình Dương, Philippines vào Trung Quốc, ủng hộ việc vận chuyển bạc khai thác từ châu Mỹ qua các cảng của Tây Ban Nha. Năm 1639, Mạc phủ Tokugawa đóng cửa hầu hết hoạt động ngoại thương với các cường quốc châu Âu, cắt đứt một nguồn bạc khác vào Trung Quốc. Những sự kiện trên diễn ra gần như cùng lúc khiến bạc nhanh chóng trở nên đắt đỏ và hầu hết các tỉnh thành đều không thể nộp thuế.[82] Người dân bắt đầu tích trữ bạc quý vốn đang ngày càng khan hiếm, làm cho tỷ giá của tiền đồng so với bạc giảm mạnh. Những năm 1630, một quan tiền đồng tương đương với một lượng bạc, vào năm 1640, là một nửa lượng và đến năm 1643 thì chỉ còn là một phần ba lượng.[77] Đây là thảm họa kinh tế đối với nông dân, vì họ phải nộp thuế bằng bạc trong khi giao thương địa phương và buôn bán cây trồng bằng tiền đồng.[83] Các nhà sử học gần đây đã tranh luận về việc liệu tình trạng thiếu bạc có phải là nguyên nhân trực tiếp khiến nhà Minh diệt vong.[84][85]

Đầu thế kỷ 17, dưới tác động của Tiểu băng hà, thời tiết khô hanh và lạnh giá bất thường rút ngắn mùa trồng trọt khiến nạn đói lan rộng khắp miền bắc Trung Quốc.[86] Đói kém, thuế tăng, lính tráng đào ngũ, hệ thống cứu trợ trì trệ, thảm họa thiên nhiên và một chính phủ không có khả năng quản lý thủy lợi, kiểm soát lũ lụt, là những nhân tố lấy đi mạng sống của người dân và cả trật tự xã hội vốn có.[86] Vì thiếu nguồn lực, chính quyền trung ương làm được rất ít việc để giảm thiểu tác động của thiên tai. Mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn khi một đại dịch lan rộng từ Chiết Giang đến Hà Nam, cướp đi vô vàn sinh mạng.[87] Trận động đất Thiểm Tây năm 1556, dưới thời Minh Thế Tông, giết chết khoảng 83 vạn người, là trận động đất có thương vong khủng khiếp nhất mọi thời đại.[88]

Sự trỗi dậy của người Mãn Châu

Sơn Hải quan dọc theo Vạn lý Trường thành, cánh cổng nơi người Mãn Châu nhiều lần bị đẩy lui trước khi Ngô Tam Quế mở cửa cho họ vào năm 1644.

Dù chỉ khởi đầu với một bộ lạc nhỏ, Nỗ Nhĩ Cáp Xích, một thủ lĩnh người Nữ Chân, đã nhanh chóng giành được quyền kiểm soát tất cả các bộ lạc ở Mãn Châu. Trong cuộc chiến tranh Nhâm Thìn diễn ra vào những năm 1590, Nỗ Nhĩ Cáp Xích từng đề nghị lãnh đạo các bộ lạc, hỗ trợ liên quân Minh–Triều. Dù khước từ lời đề nghị, nhà Minh vẫn phong tặng cho Nỗ Nhĩ Cáp Xích một tước vị danh dự vì tấm lòng thành của ông. Nhận thấy sự yếu kém của chính quyền nhà Minh, Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất các bộ lạc lân cận phía bắc và củng cố quyền lực tại các khu vực xung quanh quê hương, như nhà Kim đã từng làm trước đây.[89] Năm 1610, Nỗ Nhĩ Cáp Xích cắt đứt quan hệ với triều đình nhà Minh. Năm 1618, ông yêu cầu nhà Minh phải triều cống, bồi thường cho "Thất đại hận".

Năm 1636, con trai Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Hoàng Thái Cực, đổi quốc hiệu "Hậu Kim" thành "Đại Thanh" tại Thẩm Dương, nơi bị quân Thanh chiếm vào năm 1621 và được chọn làm kinh đô của hoàng triều vào năm 1625.[90][91] Hoàng Thái Cực tự xưng là hoàng đế, lấy niên hiệu Sùng Đức, đổi tên dân tộc của mình từ "Nữ Chân" thành "Mãn Châu".[91] Năm 1638, người Mãn Châu đánh bại và chinh phục thành công Triều Tiên, đồng minh lâu đời của nhà Minh, trong cuộc xâm lược Triều Tiên lần thứ hai. Ít lâu sau, Triều Tiên từ bỏ thần phục nhà Minh sau vài thế kỷ.[92]

Nội loạn, ngoại xâm, diệt vong

Đầu những năm 1630, một người lính nông dân tên là Lý Tự Thành, đã cùng đồng nghiệp của mình tổ chức binh biến ở Thiểm Tây khi triều đình nhà Minh không gửi tiếp tế thiết yếu tới nơi này.[86] Năm 1634, Lý Tự Thành bị một viên tướng nhà Minh bắt sống và được trả tự do với điều kiện là ông phải quay trở lại phục vụ quân ngũ.[93] Thỏa thuận trên nhanh chóng bị phá bỏ khi một tri huyện địa phương quyết định xử tử 36 đồng phạm của Lý Tự Thành. Người của Lý Tự Thành giết nhiều quan lại để trả thù và tiếp tục lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa ở Dinh Dương, trung tâm Hà Nam, vào năm 1635.[94] Đến những năm 1640, Trương Hiến Trung (1606–1647), một cựu binh và cũng đang là đối thủ của Lý Tự Thành, đã tạo dựng được một căn cứ khởi nghĩa vững chắc ở Thành Đô, Tứ Xuyên. Trong khi đó, Lý Tự Thành cũng có riêng căn cứ địa ở Hồ Bắc, ảnh hưởng rộng khắp Thiểm Tây và Hà Nam.[94]

Năm 1640, đông đảo nông dân đói khát, không thể nộp thuế và không còn e sợ trước quân triều đình vốn thường xuyên bại trận, bắt đầu tự hình thành nên các nhóm phiến quân quy mô lớn. Trong bối cảnh bị kẹt giữa những nỗ lực không kết quả nhằm đánh bại quân Mãn Thanh ở phía bắc và dẹp yên các cuộc khởi nghĩa nông dân trong nước, quân đội nhà Minh về cơ bản đã tan rã. Phải chiến đấu không lương, quân Minh bị Lý Tự Thành (lúc này đã tự xưng là Đại Thuận vương) đánh bại và rời bỏ kinh đô với rất ít sự phản kháng. Ngày 25 tháng 4 năm 1644, Bắc Kinh thất thủ trước một cánh quân do Lý Tự Thành chỉ huy khi các nội gián mở toang cổng thành. Giữa loạn lạc, Minh Tư Tông – hoàng đế cuối cùng của nhà Minh – đã treo cổ tự sát trong vườn ngự uyển, bên ngoài Tử Cấm Thành.[95]

Chân dung Minh Tư Tông (trị.1627–1644).

Không bỏ lỡ thời cơ, Bát kỳ tràn qua Vạn lý Trường thành khi tướng biên phòng nhà Minh là Ngô Tam Quế (1612–1678) chủ động mở cửa Sơn Hải quan. Ngô Tam Quế làm điều này khi biết tin kinh đô đã thất thủ còn quân Đại Thuận thì đang tiến về phía ông. Sau khi cân nhắc các lựa chọn liên minh, Ngô Tam Quế quyết định đứng về phía người Mãn Châu.[96] Tiêu diệt xong cánh quân được điều tới Sơn Hải quan của Lý Tự Thành, Đa Nhĩ Cổn và Ngô Tam Quế dẫn quân Bát kỳ áp sát Bắc Kinh. Ngày 4 tháng 6 năm 1644, nghĩa quân Đại Thuận tháo chạy khỏi kinh đô. Ngày 6 tháng 6 năm 1644, Ngô Tam Quế và người Mãn Châu tiến vào Bắc Kinh, tuyên bố Hoàng đế Thuận Trị trẻ tuổi là người cai trị Trung Quốc. Sau khi buộc Lý Tự Thành chạy khỏi Tây An, quân Thanh tiếp tục truy sát ông men theo sông Hán tới Vũ Xương. Mùa hè năm 1645, Lý Tự Thành qua đời ở vùng biên giới phía bắc Giang Tây, đặt dấu chấm hết cho nhà Đại Thuận. Một tài liệu nói rằng Lý Tự Thành đã tự sát, cũng có người cho là ông bị nông dân đánh chết vì ăn trộm thức ăn.[97]

Bất chấp việc hoàng đế băng hà và Bắc Kinh đã rơi vào tay người Mãn Châu, nhà Minh vẫn chưa bị tiêu diệt hoàn toàn. Nam Kinh, Phúc Kiến, Quảng Đông, Sơn Tây, Vân Nam đều là những thành trì kháng chiến của nhà Minh. Tuy nhiên, nhà Minh sớm bị chia rẽ khi có nhiều người đều tự nhận mình là hoàng đế. Sau năm 1644, nhiều quốc gia tàn dư của nhà Minh vẫn tồn tại rải rác ở miền nam Trung Quốc, được các sử gia thế kỷ 19 gọi chung là Nam Minh.[98] Từng thành lũy kháng chiến lần lượt bị quân Thanh tiêu diệt cho tới năm 1662 khi hoàng đế Nam Minh cuối cùng là Minh Chiêu Tông Chu Do Lang qua đời. Những vương gia còn phản kháng là Chu Thuật Quế, con trai ông Chu Dĩ Hải và Chu Hoằng Hoàn, người vẫn ở lại với các trung thần của Trịnh Thành Công tại Vương quốc Đông Ninh (Đài Loan) cho đến năm 1683. Chu Thuật Quế tuyên bố rằng ông hành động nhân danh Minh Chiêu Tông đã khuất.[99] Nhà Thanh rốt cuộc vẫn đưa 17 vương gia nhà Minh còn sống ở Đài Loan trở về Trung Quốc đại lục để họ được sống nốt phần đời còn lại tại đây.[100]

Năm 1725, một hậu duệ hoàng tộc nhà Minh là Chu Chi Liễn, được Thanh Thế Tông sắc phong hầu tước. Chu Chi Liễn nhận bổng lộc từ triều đình nhà Thanh và có nhiệm vụ thực hiện các nghi lễ tại Thập Tam lăng. Năm 1750, Thanh Cao Tông phong cho Chu Chi Liễn làm Diên Ân hầu, một tước vị truyền qua 12 thế hệ con cháu hoàng tộc nhà Minh cho đến tận năm 1912, kết thúc thời nhà Thanh. Chu Dục Huân là Diên Ân hầu cuối cùng. Năm 1912, sau khi nhà Thanh sụp đổ trong cuộc cách mạng Tân Hợi, từng có chủ trương nên chọn một người Hán lên làm hoàng đế, người này hoặc là một Diện Thánh công – hậu duệ Khổng Tử,[101][102][103][104][105] hoặc là một Diên Ân hầu – hậu duệ hoàng tộc nhà Minh.[106][107]

Mục lục

  • 1 Điều kiện hình thành
    • 1.1 Điều kiện tự nhiên
    • 1.2 Dân tộc
    • 1.3 Lịch sử
      • 1.3.1 Thời kỳ sơ khởi
      • 1.3.2 Thời kỳ văn minh sông Hoàng Hà
      • 1.3.3 Thời kỳ dựng nước
  • 2 Thành tựu chủ yếu
    • 2.1 Chữ viết
    • 2.2 Văn học
    • 2.3 Sử học
    • 2.4 Khoa học tự nhiên và kĩ thuật
      • 2.4.1 Toán học
      • 2.4.2 Thiên văn học
      • 2.4.3 Y, dược học
      • 2.4.4 Kỹ thuật
    • 2.5 Hội họa, điêu khắc, kiến trúc
      • 2.5.1 Hội họa
      • 2.5.2 Điêu khắc
      • 2.5.3 Kiến trúc
    • 2.6 Triết học, tư tưởng
      • 2.6.1 Nho giáo
      • 2.6.2 Đạo giáo
      • 2.6.3 Pháp gia
      • 2.6.4 Mặc gia
    • 2.7 Trang phục
  • 3 Ẩm thực
  • 4 Thư mục
  • 5 Xem thêm
  • 6 Tham khảo
  • 7 Liên kết ngoài

Tiểu thuyết cổ trung đại Trung Quốc (thời Minh -Thanh)

Bài soạn thuyết trình cho môn Lịch sử văn minh thế giới.

Nói về những thành tựu nổi bật của văn học cổ điển Trung Quốc người ta thường kể : Tản văn trước Tần, Thơ Ðường, Từ Tống, Kịch Nguyên, và tiểu thuyết Minh Thanh.

Minh – Thanh là thời kỳ hoàng kim của tiểu thuyết Trung Quốc. Với các bộ sách Tam quốc, Thuỷ hử, Đông Chu liệt quốc, Tây du ký, Phong thần diễn nghĩa, Liêu trai chí dị, Chuyện làng nho, Hồng lâu mộng …, tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa đã đạt đến trình độ hoàn chỉnh. Bởi vậy, tiểu thuyết thời Minh – Thanh được gọi là tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa.