Hành chính Việt Nam thời Ngô phản ánh bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương của Việt Nam dưới thời nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Show Mục lục
Chính quyền trung ươngSửa đổiThời Ngô, các vua xưng vương nhưng chưa có quốc hiệu, vẫn gọi theo tên thời thuộc Đường là Tĩnh Hải quân. Sử sách ghi chép rất ít về bộ máy chính quyền do Ngô Quyền thiết lập trong lãnh thổ mà ông cai trị, được các sử gia nhìn nhận là bộ máy còn giản đơn, hoạt động chưa được thể chế hóa, việc lựa chọn quan lại chưa có chế độ rõ rằng, pháp luật chưa thành văn[1]. Lê Văn Siêu cho rằng chính quyền nhà Ngô cơ bản như một họ tù trưởng lớn nắm giữ[2]. Nguyễn Khắc Thuần cũng cho rằng do khả năng quản lý của chính quyền trung ương chưa cao nên sau khi Ngô Quyền mất, loạn lạc nổ ra[3]. Sử gia Ngô Sĩ Liên ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư về việc tổ chức chính quyền của ông như sau[4]: Tiền Ngô [Vương] nổi lên không chỉ có công chiến thắng mà thôi, việc đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của bậc đế vương.Kinh đô nhà Ngô đóng tại Cổ Loa – kinh thành của nước Âu Lạc thời An Dương Vương. Lý giải cho việc Ngô Quyền không chọn Đại La sầm uất và có truyền thống nhiều thế kỷ là trung tâm chính trị trước đó, các sử gia cho rằng có 2 nguyên nhân: tâm lý tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ kinh nghiệm cũ để lại[5]:
Chính quyền địa phươngSửa đổiTuy đại thắng quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng nhưng lãnh thổ mà nhà Ngô quản lý chỉ còn 8 châu (so với 12 châu đầuthời Tự chủ) là[6][7]:
Bốn châu: Thang, Chi, Vũ Nga và Vũ An thuộc về nước Nam Hán. Việc thu hẹp lãnh thổ phía bắc này không được sử sách ghi chép rõ. Theo Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời: 4 châu này bị Nam Hán chiếm, nhưng không rõ vào thời điểm nào[8]. Theo Nguyễn Khắc Thuần trong Thế thứ các triều vua Việt Nam, không rõ căn cứ theo tài liệu nào: sau trận Bạch Đằng, Ngô Quyền bàn giao 4 châu này cho Nam Hán "để tiện việc phòng thủ"[6]. Nhà Ngô vẫn phỏng theo bộ máy của chính quyền Trung Hoa trước đây. Những người đứng đầu các châu là thứ sử. Các đơn vị bên dưới kế thừa từ thời Tự chủ: gồm có giáp, xã. Đứng đầu giáp là Quản giáp và Phó tư giáp, đứng đầu xã là 2 người lệnh trưởng, chính và tá[9]. Đối với các châu ki mi ở phía tây bắc, Đào Duy Anh cho rằng thời nhà Ngô cai trị vẫn chưa đủ thực lực để có thể kiểm soát được khu vực này[8]. Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Chú thíchSửa đổi
Hay nhất
Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Ngô: Sơ đồ bộ máy nhà nước thời Lý: Qua đó, ta thấy được bộ máy nhà nước quân chủ thờiNgô còn đơn giản. Trong khi đó bộ máynhà nước quân chủthời Lý được cũng cố chặt chẽ hơn. Phương pháp giải: So sánh, phân tích. Lời giải chi tiết: Dựa trên sự so sánh tổ chức bộ máy nhà nước thời Ngô và Tiền Lê: - Nhà Ngô: + Vua đứng đầu triều đình, quyết định mọi công việc (chính trị, ngoại giao, quân sự). + Dưới vua có các quan văn, quan võ. + Ở địa phương, các tướng lĩnh có công được vua cử đi cai quản các châu quan trọng gọi là thứ sử. - Nhà Tiền Lê: + Triều đình trung ương do vua đứng đầu, nắm mọi quyền hành về quân sự và dân sự. + Giúp Lê Hoàn bàn việc nước có thái sư (quan đầu triều) và đại sư (nhà sư có danh tiếng). + Dưới vua là các chức quan văn, quan võ; các con vua được phong vương và trân giữ các vùng hiểm yếu. + Về đơn vị hành chính, cả nước được chia làm 10 lộ. Dưới lộ có phủ và châu. Hầu hết quan lại đều là võ tướng. Các quan lại địa phương chưa được sắp xếp đầy đủ. => So sánh: Tổ chức bộ máy nhà nước thời Tiền Lê được tổ chức đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, có quy củ hơn. Chọn đáp án: D |