Anh/chị có đồng tình với thái độ của tác giả về sự khác biệt tại sao

Ta ba lô trên đất Á Đọc hiểu

Đọc đoạn trích dưới đây:

Có người tìm thấy chính mình trên hành trình vạn dặm, nhưng cũng có người ngộ ra đạo lý khi ngồi dưới mái nhà của mình, trên chiếc giường quen thuộc của mình.Ai cũng có quyền lựa chọn cách sống riêng, miễn là không phương hại đến người khác. Đừng vì người ta khác mình mà dè bỉu gièm pha, đừng vì họ khác mình mà ghét họ. Đừng cho những người ở nhà là buồn chán cổ hủ, cũng đừng lên án kẻ lang thang là sống vô ích vô tâm. Có lẽ cách sống phù hợp nhất là làm tốt việc của bản thân, và ngừng xen vào chuyện người khác.

Nhưng lẽ đời, nói thường dễ hơn làm.Khác biệt thường gây ra xung đột. Tác giả “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” có viết: “Thật dễ dàng và chấp nhận yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn”. Tôi thực chỉ ước có một nơi nào đó trên thế giới, nơi những suy nghĩ tự do, độc đáo được khuyến khích, nơi những khác biệt chung sống cùng nhau, hòa thuận, an nhiên.

(Rosie Nguyễn –Ta ba lô trên đất Á, NXB Hội nhà văn, 2018, tr. 21-22)

Thực hiện các yêu cầu sau đây:

Câu 1:Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích trên

Trả lời:phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích là phương thức nghị luận

Câu 2:Theo tác giả trong những hoàn cảnh nào con người có thể tìm thấy chình mình?

Trả lời: Hoàn cảnh: trên hành trình vạn dặm, khi ngồi dưới mái nhà của mình trên chiếc giường quen thuộc của mình.

Câu 3: Anh/chị hiểu thế nào về ý kiến: Đừng vì người ta khác mình mà dè bỉu gièm pha, đừng vì họ khác mình mà mình ghét họ?

Trả lời: Thí sinh trình bày theo ý hiểu của mình, có thể theo hướng: Cuộc sống vốn phong phú, phức tạp. Mỗi người có tính cách, hoàn cảnh, lối sống khác nhau. Vì vậy con người không nên có thái độ tiêu cực đối với những người khác biệt mình. Cần học cách chung sống hòa thuận, vui vẻ tôn trọng người khác mình.

Câu 4. Nếu viết một đoạn tiếp theo đoạn trích trên, anh/chị sẽ viết về vấn đề gì? Tại sao?

Trả lời:

Tùy vào nội dung trả lời của TS mà cho điểm. Khuyến khích TS trình bày ý kiến cá nhân theo hướng tích cực và có tính sáng tạo.

Sau đây là một vài gợi ý:

– Một nơi nào đó dành cho những suy nghĩ tự do, độc đáo và những khác biệt có thể tìm thấy tiếng nói chung.

– Một nơi nào đó mà anh/chị đã từng sống trong sự hòa thuận, an nhiên.

– Một nơi nào đó mà anh/chị từng hoặc sẽ cho là thiên đường có thật.(1,0 điểm)

– Lý do:Câu hỏi được thiết kế để kiểm tra năng lực liên tưởng, tưởng tượng và khả năng liên kết chủ đề ở người học. Vì thế, chấp nhận những hướng trả lời khác nhau của thí sinh nếu có lí lẽ và căn cứ xác đáng; có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.

Đề số 2 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

Đề bài

I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:

Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm. Vì thế, hãy chấp nhận điều đó như một lẽ tự nhiên. Khi trẻ học nói, học đi hay bất cứ điều gì, chúng đều phải nếm trải những va vấp. Chúng ta cũng vậy, có thể đằng sau những tư tưởng vừa lĩnh hội, hoặc sau sự chín chắn rèn giũa được là một thất bại, hay một bước lùi nào đó. Tuy nhiên, đừng đánh đồng những sai lầm ấy với việc ta không thể trưởng thành. Hãy hiểu rằng, như một lẽ tự nhiên, sau một bước tiến xa luôn tồn tại một bước lùi gần và hãy tin tưởng rằng mọi trải nghiệm đều đem lại cho ta những bài học quý giá nếu ta biết trân trọng nó.

Chính vì vậy, đừng giữ thái độ cầu toàn trong mọi sự. Dĩ nhiên, để đạt được điều mình mong muốn, ta phải không ngừng nỗ lực. Nhưng đừng yêu cầu cuộc đời phải viên mãn thì ta mới hài lòng và cũng đừng đòi hỏi mọi mối quan hệ phải hoàn hảo thì ta mới nâng niu trân trọng. Hoàn hảo là một điều không tưởng. Trên đời, chẳng có gì là hoàn thiện, hoàn mỹ cả. […]

Khi kiếm tìm sự hoàn hảo, người ta dễ trở nên hà khắc, hay phán xét bản thân và mọi người. Bởi vậy, trên con đường trưởng thành của mình, mỗi người cần phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có.

(Theo Quên hôm qua sống cho ngày mai - Tian Dayton, Ph. D, biên dịch: Thu Trang – Minh Tươi, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2014, tr.68 - 69)

Câu 1:Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản.

Câu 2:Theo tác giả, vì sao "đừng giữ thái độ cầu toàn trong mọi sự"?

Câu 3:Anh/Chị hiểu như thế nào về ý kiến: "như một lẽ tự nhiên, sau một bước tiến xa luôn tồn tại một bước lùi gần"?

Câu 4:Anh/Chị có đồng tình với quan niệm: "trên con đường trưởng thành của mình, mỗi người cần phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có"? Vì sao?

II. LÀM VĂN (7.0 điểm)

Câu 1: (2.0 điểm)

Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/chi ̣hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự trải nghiệm trong cuộc sống.

Câu 2: (5,0 điểm)

Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác (Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016). Từ đó liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong cảnh cho chữ (Chữ người tử tù – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 11, Tập1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016) để nhận xét quan niệm của nhà văn về vẻ đẹp con người.

Lời giải chi tiết

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1:

- Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận

Câu 2:

Theo tác giả, "đừng giữ thái độ cầu toàn trong mọi sự" vì:

- Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm.

- Hoàn hảo là một điều không tưởng. Trên đời chẳng có gì là hoàn thiện, hoàn mỹ cả.

- Khi kiếm tìm sự hoàn hảo, người ta dễ trở nên hà khắc, hay phán xét bản thân và mọi người.

Câu 3:

"Như một lẽ tự nhiên, sau một bước tiến xa luôn tồn tại một bước lùi gần" có thể được hiểu như sau: sau mỗi thành công đạt được, con người luôn phải có những phút chiêm nghiệm, tự rút kinh nghiệm cho bản thân. Sau mỗi “bước tiến xa” để đi về phía trước, luôn tồn tại và cần thiết phải có những bước lùi lại, nhìn nhận những gì mình đã làm để rút ra bài học, trên cơ sở đó mới mong đạt được những bước tiến xa hơn nữa, thành công hơn nữa.

Câu 4:

- Đồng ý với quan điểm trên con đường trưởng thành của mình, mỗi người cần phải học cách chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân như vốn có.

- Vì:

+ Con người là tổng thể của các mối quan hệ xã hội, phải biết chấp nhận mình cùng người khác thì mới cùng chung sống được.

+ Chấp nhận mình và người khác như bản thân vốn có để có những đánh giá đúng về bản thân mình và những người xung quanh.

+ Biết được khả năng của bản thân mình và người khác sẽ có phương hướng phát huy những ưu điểm, hạn chế những khuyết điểm của mình. Đồng thời, biết học tập những điểm mạnh của người khác cũng như không trở nên quá hà khắc, hay phán xét bản thân và mọi người.

+ Chấp nhận mình và chấp nhận người khác như bản thân vốn có không phải là thỏa mãn với những gì mình có mà là một cách để trân trọng hiện tại, hướng tới ngày mai tốt đẹp hơn.

+ Chấp nhận người khác và chấp nhận bản thân vì không ai hoàn hảo hết. Chấp nhận nhau có nghĩa là bỏ qua sai lầm của nhau, học tập những điều tốt đẹp của nhau và cũng có nghĩa là cho cả mình và người khác cơ hội để trở nên tốt đẹp hơn.

II. LÀM VĂN

Câu 1:Nghị luận xã hội

Giới thiệu vấn đề nghị luận: Ý nghĩa của sự trải nghiệm trong cuộc sống

1. Giải thích

- Sự trải nghiệm: quá trình tham gia, tìm hiểu, dấn thân thực hành các công việc khác nhau trong những vấn đề thuộc bất kì lĩnh vực nào của cuộc sống.

- Ý nghĩa của sự trải nghiệm là mang đến cho chúng ta những bài học kinh nghiệm cần thiết cho những hoạt động, việc làm, những bước tiến tiếp theo.

2. Bàn luận, chứng minh

a. Vì sao cần phải có sự trải nghiệm

- Sự trưởng thành của con người luôn song hành cùng những vấp ngã và sai lầm, không ai có thể thành công ngay từ lần đầu tiên, chính trải nghiệm giúp ta tự nhận ra ưu và khuyết điểm của mình.

- Trên đời, không có gì là hoàn hảo, hoàn mỹ nên sau mỗi lần trải nghiệm, chúng ta sẽ tự hoàn thiện bản thân để vươn tới những điều tốt đẹp hơn.

- Ai cũng cần những trải nghiệm thì mới nên người, khi nhận thức được điều đó, việc đánh giá mình và người khác cũng trở nên bớt hà khắc, tránh gây những tổn thương không đáng có cho mọi người xung quanh.

b. Ý nghĩa của trải nghiệm

- Mang đến cho chúng ta những bài học mới, nhận ra những nhược điểm, ưu điểm của bản thân cũng như những người bên cạnh, từ đó có hướng khắc phục đúng đắn để sẵn sàng đón nhận những cơ hội mới. Sự trải nghiệm giúp con người trưởng thành theo thời gian.

Dẫn chứng:

+ Những kì giao lưu, cọ sát, thi thử giúp học sinh củng cố tinh thần, biết bổ sung những kiến thức còn thiếu hụt

+ Qua bao nhiêu trải nghiệm, thất bại rồi thành công, đội tuyển U23 Việt Nam mới vững vàng như ngày hôm nay để ghi tên mình trên bản đồ bóng đá châu lục.

- Trải nghiệm giúp chúng ta có cái nhìn khoan dung hơn với bản thân mình và những người xung quanh, từ đó không khiến cho chính mình và mọi người áp lực. Khi học tập và làm việc với tinh thần thoải mái, tỉ lệ thành công càng cao hơn.

Dẫn chứng:

+ Những danh nhân nổi tiếng, những doanh nhân, những người truyền cảm hứng không ít lần thất bại và sau trải nghiệm đó họ lại có thêm động lực để nghiên cứu, tìm tòi và dẫn tới thành công: Bill Gates, Steve Jobs,….

c. Phản đề

- Sự trải nghiệm luôn luôn là điều cần thiết để con người tự tích lũy, tự học tập nhưng có những thứ không cần trải nghiệm, ví dụ như sử dụng những chất cấm, làm những điều trái pháp luật…

- Phải cần có trải nghiệm mới nên người, do đó nên có cái nhìn bao dung với những lỗi lầm nhưng cũng cần ghi nhớ, có những lỗi lầm không thể tha thứ được, có những may mắn chẳng bao giờ đến lần thứ hai, nên cũng phải biết nắm bắt cơ hội để bứt phá.

3. Liên hệ bản thân

- Là một học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, em đã có những trải nghiệm có ích nào?

- Qua những trải nghiệm đó em rút ra được bài học gì cho bản thân và sẽ làm những điều gì tiếp theo.

Câu 2:Nghị luận văn học

1. Mở bài

Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

- Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có thể coi ông là một định nghĩa về người nghệ sĩ.

- Nét nổi bật trong phong cách của ông là ở chỗ luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa và thẩm mỹ, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Ông thường có cảm hứng mãnh liệt với cái cá biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mỹ.

-Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Người lái đò sông Đà cho ta diện mạo của một Nguyễn Tuân khao khát được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời này.

- Hình tượng người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác là hình tượng trung tâm của tác phẩm…

2. Thân bài

a. Phân tích nhân vật người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác

2.1. Giới thiệu chân dung, lai lịch

- Tên gọi, lai lịch: được gọi là người lái đò Lai Châu.

- Chân dung: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.

2.2. Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác

a) Vẻ đẹp trí dũng:

* Khắc họa trong tương quan với hình ảnh sông Đà hung bạo, hùng vĩ:

Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức:

+ Một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm.

+ Một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo.

* Cuộc giao tranh với ba trùng vi thạch trận

- Cuộc vượt thác lần một

+ Sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt

+ Trước sự hung hãn của bầy thạch tinh và sóng nước, ông lái đò kiên cường bám trụ “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình”.

+ Trước đoàn quân liều mạng sóng nước xông vào (…), ông đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi” nhưng vẫn kiên cường vượt qua cuộc hỗn chiến, vẫn cầm lái chỉ huy "ngắn gọn mà tỉnh táo"để phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất.

- Cuộc vượt thác lần hai:

+ Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn.

+ Ông lái đò “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”.

> Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá, ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên dòng thác như cưỡi trên lưng hổ.

> Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước xô ra, ông đò không hề nao núng mà tỉnh táo, linh hoạt thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến” để rồi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.

- Cuộc vượt thác lần ba:

+ Bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội.

+ Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác của ông lái thật tuyệt vời. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng.

* Nguyên nhân chiến thắng:

- Thứ nhất, đó là chiến thắng của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống.

- Thứ hai, đây là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.

b) Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ:

- Tài hoa: Với nhà văn, tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn tới tự do và hơn thế nữa ở bất kì lĩnh vực nào chỉ cần đạt tới trình độ trác tuyệt trong nghề nghiệp của mình ấy là con người tài hoa. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng.

- Nghệ sĩ:

+ Tay lái ra hoa thể hiện tập trung trong cảnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ ba “Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, chiếc thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Đã đạt đến độ nhuần nhuyễn, điêu luyện, mỗi động tác của người lái đò giống như một đường cọ trên bức tranh sông nước mênh mông…

+ Phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, “về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra tràn đầy ruộng”.

+ Qua thác ghềnh, ông lái lạnh lùng gan góc là thế, nhưng lúc bình thường thì lại nhớ tiếng gà gáy nên buộc một cái bu gà vào đuôi thuyền, bởi “có tiếng gà gáy đem theo, nó đỡ nhớ ruộng nương bản mường mình”. Chi tiết ấy đã làm rõ hơn chất nghệ sĩ ở người lái đò sông Đà.

c.Đánh giá về nhân vật:

* Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật:

- Nguyễn Tuân chú ý tô đậm nét tài hoa, nghệ sĩ ở ông lái đò.

- Nguyễn Tuân có ý thức tạo nên tình huống đầy thử thách để nhân vật bộc lộ rõ phẩm chất của mình.

- Nguyễn Tuân đã sử dụng một ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, hoàn toàn phù hợp với đối tượng.

* Nội dung tư tưởng mà nhân vật truyền tải:

Người lái đò trí dũng và tài hoa thật nổi bật trên dòng sông hung bạo, có khả năng chinh phục thiên nhiên, bắt nó phải phục vụ con người, xây dựng đất nước. Đó chính là chất vàng mười của con người Tây Bắc nói riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kì mới - thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu quan niệm: người anh hùng không phải chỉ có trong chiến đấu mà còn có cả trong cuộc sống lao động thường ngày.

b.Liên hệ với nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tùđể thấy sự thống nhất và khác biệt trong quan niệm về vẻ đẹp con người của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945

* Giới thiệu về Huấn Cao

- Huấn Cao là một người tài hoa, nghệ sĩ.

- Huấn Cao là con người có vẻ đẹp thiên lương trong sáng.

- Huấn Cao là con người khí phách.

Trong cảnh cho chữ chưa từng có nhân vật Huấn Cao bộc lộ hết những vẻ đẹp của mình - vẻ đẹp về thiên lương trong sáng, vẻ đẹp của con người khí phách, vẻ đẹp của một người tài hoa, nghệ sĩ.

* Nhận xét quan niệm nhà văn về vẻ đẹp con người:

Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Trước và sau cách mạng tháng 8 Nguyễn Tuân có những thống nhất và thay đổi trong quan niệm về vẻ đẹp của con người.

- Thống nhất:

+ Nguyễn Tuân luôn luôn tiếp cận và khám phá con người ở phương diện tài hoa – nghệ sĩ. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những “đấng tài hoa”, và say mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc một món nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật.

+ Vẫn là ngòi bút tài hoa, uyên bác, lịch lãm, vận dụng tri thức tổng hợp của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau trong miêu tả và biểu hiện.

+ Ông tiếp tục sử dụng vốn ngôn từ hết sức tinh lọc, phong phú, độc đáo. Khả năng tổ chức câu văn đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, biết co duỗi nhịp nhàng. Các phép tu từ được nhà văn phối hợp vô cùng điêu luyện.

- Khác biệt:

+ Trước Cách mạng tháng Tám, con người Nguyễn Tuân hướng tới và ca ngợi là những “con người đặc tuyển, những tính cách phi thường”. Sau Cách mạng tháng Tám, những nhân vật tài hoa nghệ sĩ được Nguyễn Tuân miêu tả có thể tìm thấy ngay trong chiến đấu, lao động hằng ngày của nhân dân.

=> Sở dĩ có những chuyển biến này do trước Cách mạng, Nguyễn Tuân chơi ngông một cách cực đoan. Mọi sở thích, quan niệm riêng đều được đẩy lên thành các thứ chủ nghĩa: chủ nghĩa duy mỹ, chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực,… Chủ nghĩa độc đáo trong những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng không chỉ đơn thuần là phản ứng tâm lý của một cá nhân trước tấn bi kịch xã hội mà nó còn bao hàm khí khái, cốt cách của người trí thức yêu nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ thỏa hiệp với xã hội đương thời.

=> Sau Cách mạng, cũng giống như một loạt tác giả đương thời, Nguyễn Tuân đã tìm được hướng đi, lý tưởng cho mình nên cái ngông tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ lại cái cốt cách tạo nên vẻ độc đáo cho trang viết.

=> Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân là một người tài tử, thích chơi ngông, thích chiêm ngưỡng, chắt chiu cái đẹp thì sau Cách mạng, nhà văn nhạy cảm với con người mới, cuộc sống mới từ góc độ thẩm mỹ của nó. Nhưng không còn là Nguyễn Tuân “nghệ thuật vị nghệ thuật” nữa. Ông đã nhìn cái đẹp của con người là cái đẹp gắn với nhân dân lao động, với cuộc sống đang nảy nở, sinh sôi đồng thời lên án, tố cáo chế độ cũ, khẳng định bản chất nhân văn của chế độ mới.

3. Tổng kết

- Khái quát lại vấn đề

Xem thêm: Đề và Lời giải chi tiết Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn mới nhất tạiTuyensinh247.com

Loigiaihay.com

  • Anh/chị có đồng tình với thái độ của tác giả về sự khác biệt tại sao

    Đề số 3 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

    Đáp án và lời giải chi tiết - Đề số 3 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

  • Anh/chị có đồng tình với thái độ của tác giả về sự khác biệt tại sao

    Đề số 4 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

    Đáp án và lời giải chi tiết - Đề số 4 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

  • Anh/chị có đồng tình với thái độ của tác giả về sự khác biệt tại sao

    Đề số 5 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

    Đáp án và lời giải chi tiết - Đề số 5 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

  • Anh/chị có đồng tình với thái độ của tác giả về sự khác biệt tại sao

    Đề số 6 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

    Đáp án và lời giải chi tiết - Đề số 6 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

  • Anh/chị có đồng tình với thái độ của tác giả về sự khác biệt tại sao

    Đề số 7 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

    Đáp án và lời giải chi tiết - Đề số 7 - Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn

Đọc hiểu Thái độ quyết định thành công

THPT Sóc Trăng Send an email
0 12 phút

Tổng hợp 3 đề đọc hiểu Thái độ quyết định thành cônglà một trong đề đọc hiểu xoay quanh những câu chuyện về cuộc sống, về những quan niệm sống đầy ý nghĩa. Có thể nói, đề tài này được thầy cô yêu thích và đưa vào phần Đọc hiểu của các đề thi, đề kiểm tra.

Để giúp bạnhiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về các dạng đề đọc hiểu liên quan, cùng THPT Sóc Trăng tham khảo một số câu hỏi sau:

Nội dung

  • 1 Tổng hợp các đề đọc hiểu Thái độ quyết định thành công
    • 1.1 Đề đọc hiểu Thái độ quyết định thành công số 1
    • 1.2 Đề đọc hiểu Thái độ quyết định thành công số 2
    • 1.3 Đề đọc hiểu Thái độ quyết định thành công số 3

Đề thi thử THPT Quốc gia 2020 môn Văn Biên Hòa

Tham khảo mẫu đề thi thử THPT Quốc gia 2020 môn Văn có đáp án của Biên Hòa - Đồng Nai với yêu cầu Đọc hiểu Thay thái độ, đổi cuộc đời
Mục lục nội dung
  • 1. Đề thi thử
  • 2. Đáp án tham khảo

Cùng làm đề thi thử môn Văn năm 2020 của Biên Hòa - Đồng Nai để rèn luyện thêm các dạng câu hỏi và kiến thức đã được học để rèn luyện cho kĩ năng làm bài, phân bố hợp lí khoảng thời gian là đáng tiếc trong quá trình làm bài thi.

Cùng tham khảo đề thi thử THPT Quốc gia 2020có đáp án tham khảo dưới đây:

Đề thi thử môn Vănnăm 2020 của Biên Hòa

PHẦN I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)

Đọc đoạn trích sau và thực hiện yêu cầu

Chúng ta thường có khuynh hướng ngả theo những lựa chọn dễ dàng, những con đường bằng phẳng và chỉ làm những gì cần thiết để hoàn thành công việc. Song, nếu chúng ta chỉ chấp nhận những mức độ sẵn có, chẳng muốn gắng sức vươn lên một tầm cao mới, thì mãi mãi bản thân ta cũng chỉ là một con người bình thường như bao người khác và lúc nào cũng dậm chân tại chỗ.

Luôn cố gắng phát huy khả năng của bạn đến mức xuất sắc là điều rất quan trọng trong cuộc sống. Bạn hãy xem xét những công việc nhỏ mà bạn thường làm, rồi tự hỏi xem: Mình có thể thực hiện chúng cách nào tốt hơn?

Ví dụ như: bạn hãy quét dọn, lau chùi nhà cửa, rửa xe tỉ mỉ hơn, sạch sẽ hơn hay sẵn sàng làm thêm một số công việc nơi công sở để công việc tiến triển ngày càng tốt. Nếu bạn biết đặt ra cho mình một tiêu chuẩn cao trong bất kỳ công việc nào thì chắc chắn bạn sẽ thấy hài lòng hơn về chính mình.

Khi bạn quyết tâm làm mọi việc với một kết quả tốt nhất, nội tâm và cảm xúc trong bạn sẽ sâu sắc hơn, bạn sẽ thấy cuộc đời mình đổi thay đáng kể và con đường tiến tới thành công sẽ rộng mở trước mắt bạn, dù có thể trước đó bạn thấy nó dường như đã đóng kín.

(Thay thái độ, đổi cuộc đời – Keith D. Harrell)

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2. Theo tác giả, chúng ta thường có xu hướng ngả theo lựa chọn nào?

Câu 3. Những ví dụ được nêu trong đoạn trích trên có tác dụng gì?

Câu 4. Anh/chị có đồng tình với ý kiến: “Nếu bạn biết đặt ra cho mình một tiêu chuẩn cao trong bất kỳ công việc nào thì chắc chắn bạn sẽ thấy hài lòng hơn về chính mình.”? Vì sao?

PHẦN II. LÀM VĂN (7.0 điểm)

Câu 1. (2.0 điểm)

Dựa trên nội dung phần Đọc hiểu, Anh/chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về ý nghĩa của sự “Quyết Tâm”

Câu 2. (5.0 điểm)

Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đang yêu qua đoạn thơ sau:

Con sóng dưới lòng sâu,
Con sóng trên mặt nước,
Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được,
Lòng em nhớ đến anh,
Cả trong mơ còn thức.


Dẫu xuôi về phương bắc,
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ,
Hướng về anh – một phương.

(Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ Văn 12, tập 1, NXBGD 2018)
Nhận xét về phong cách thơ Xuân Quỳnh qua đoạn thơ trên.

—-HẾT—-

Đáp án tham khảo

PHẦN I. ĐỌC HIỂU

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là: Nghị luận

Câu 2. Theo tác giả, chúng ta thường có xu hướng ngả ngả theo những lựa chọn dễ dàng, những con đường bằng phẳng và chỉ làm những gì cần thiết để hoàn thành công việc.

Câu 3. Những ví dụ được nêu trong đoạn trích trên:

Ví dụ: bạn hãy quét dọn, lau chùi nhà cửa, rửa xe tỉ mỉ hơn, sạch sẽ hơn hay sẵn sàng làm thêm một số công việc nơi công sở để công việc tiến triển ngày càng tốt.

- Tác dụng:

+ Làm cho văn bản trở nên sinh động, hấp dẫn, lập luận thuyết phục, rõ ràng. Qua đó nhấn mạnh: "Mỗi con người cần phải có thái độ nghiêm túc, phải biết cố gắng, nỗ lực trong công việc, Biết cách phát huy hết khả năng vốn có của mình.

Câu 4. Ý kiến: “Nếu bạn biết đặt ra cho mình một tiêu chuẩn cao trong bất kỳ công việc nào thì chắc chắn bạn sẽ thấy hài lòng hơn về chính mình.”

- Nêu quan điểm: Em đồng tình với ý kiến trên.

- Bởi vì:

+ Nó là một quan điểm đúng đắn, giúp con người hướng tới những điều tích cực trong cuộc sống đời thường.

+ Trước khi làm bất cứ công việc gì, nếu ta "biết đặt ra cho mình một tiêu chuẩn cao" thì sẽ giúp ta làm việc có trình tự, cẩn thận trong từng khâu, và luôn biết hướng tới mục tiêu ở phía trước.

+ "Mục tiêu chuẩn cao" sẽ giúp ta có động lực, tập trung vào phát huy tốt nhất công việc và đạt kết quả tốt nhất mà bản thân mong muốn.

PHẦN II. LÀM VĂN

Câu 1

- Xác định yêu cầu: đoạn văn (khoảng 200 chữ) bàn về ý nghĩa của sự “Quyết Tâm”

- Vấn đề nghị luận: ý nghĩa của sự Quyết Tâm

- Dàn ý tham khảo chi tiết:Dàn ý nghị luận xã hội về ý chí nghị lực

Giới thiệu vấn đề: Sự quyết tâm là yếu tố quan trọng trong con đường đi đến thành công.

Bàn luận vấn đề:

- Giải thích: Quyết tâm là sự nỗ lực, cố gắng phấn đấu không ngừng để đạt được kết quả mà mình mong muốn.

- Ý nghĩa của sự quyết tâm:

+ Là ý chí, là nghị lực giúp ta vượt qua được mọi khó khăn, thử thách.

+ Có quyết tâm chúng ta sẽ không dễ nản lòng, chùn bước.

+ Là nguồn năng lượng, là động lực, là cơ sở thôi thúc ta phải hành động, phải thực hiện các mục tiêu đã đặt ra.

+ Giúp ra khắc phục được những hạn chế của bản thân tìm ra con đường đi đúng đắn.

- Dẫn chứng thực tế.

=> Có quyết tâm thì con người ta mới có sức mạnh chiến thắng mọi thử thách và vươn tới thành công. Ngược lại nếu thiếu đi quyết tâm bạn sẽ chỉ có được sự chán nản, thất vọng mà thôi.

Kết thúc vấn đề. Khẳng định ý nghĩa và tầm quan trọng của sự Quyết Tâm.

Tham khảo thêm:Nghị luận xã hội về ý chí nghị lực

Câu 2

Các em phải xác định yêu cầu của đề:

Làm sáng tỏ 2 luận điểm sau:

Luận điểm 1: Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đang yêu được bộc lộ bởi sự đắm say, nồng nàn, mãnh liệt, qua nỗi nhớ cồn cào da diết chiếm lĩnh cả không gian và thời gian xung quanh cô gái.

Luận điểm 2: Sau tình yêu sôi nổi trong trái tim người con gái thì ta lại thấy được tình yêu chân thành, trong sáng, thủy chung.

Nhận xét về nghệ thuật:

- Giọng thơ khi dạt dào sôi nổi, khi lại dịu dàng, trẻ trung.

- Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị và tinh tế

- Thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, rất phù hợp để diễn tả nhịp sóng và nhịp lòng của người con gái khi yêu.

- Sự dụng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc.

Nhận xét về phong cách thơ Xuân Quỳnh qua 2 đoạn thơ trên:

- Hồn nhiên tươi tắn, nữ tính, da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.

- Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ khi yêu: chân thành, say đắm, nồng nàn, mãnh liệt, thủy chung, trong sáng, cao thượng. Tình yêu ấy vừa mang nét đẹp tình yêu truyền thống, vừa có nét táo bạo, chủ động của tình yêu hiện đại.

Xem thêm : Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài Sóng

Văn mẫu tham khảo

Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn luôn luôn khao khát tình yêu, gắn bó hết mình với cuộc sống hằng ngày, trân trọng, nâng niu cho hạnh phúc bình dị của đời thường. Bà được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thợ Việt Nam từ sau năm 1975. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vừa nồng nhiệt, táo bạo vừa thiết tha, say đắm, dịu dàng; vừa hồn nhiên, giàu trực cảm vừa lắng sâu những trải nghiệm suy tư. Bà có rất nhiều bài thơ hay, tiêu biểu là bài thơ “Sóng”. Hai khổ thơ sau của bài thơ thể hiện nỗi nhớ và lòng chung thuỷ của người phụ nữ trong tình yêu :

Con sóng dưới lòng sâu,
.......................................

Hướng về anh - một phương.

Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ ở vùng biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Bài thơ in trong tập “Hoa dọc chiến hào”( 1968). Bài thơ gồm chín khổ với nội dung miêu tả về sóng biển và diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình “em”, người phụ nữ đang yêu. Đoạn thơ thuộc khổ thơ thứ năm và sáu của bài thơ.

Hình tượng sóng và em Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình yêu, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng muôn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.

Trong bài thơ còn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hòa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau. Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lòng mình.

Sau khi nêu lên đặc điểm của những con “sóng” cũng là đặc điểm của tình yêu, sang khổ năm, cũng từ hình tượng sóng, Xuân Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng nữa của tình yêu là nỗi nhớ. Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ.

“Con sóng dưới lòng sâu
…………………………….
Cả trong mơ còn thức”.

Đây là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong bài, 6 câu thơ đứng giữa bài thơ, như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của bài thơ. Bốn câu đầu cái tôi trữ tình nhập vào sóng để giãi bày tâm sự. Hai câu sau cái tôi trữ tình tách ra để bày tỏ lòng mình, nhập vào rồi tách ra như vậy tuy hai mà vẫn là một trong một dòng cảm xúc tuôn chảy.

Ở hai dòng thơ đầu, tác giả chợt khám phá ra một điều giản dị nhưng lại vô cùng sâu sắc: đại dương không bao giờ được yên bình, êm ả bởi nó luôn mang trong mình hai con sóng :

Con sóng dưới lòng sâu,
Con sóng trên mặt nước,

Đặt hai câu này trong mối quan hệ với những câu thơ trước đó của tác phẩm sẽ thấy những con sóng mà tác giả nói đến ở đoạn thơ này là con sóng ở bể lớn tình yêu, là con sóng tình yêu đã vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp để đến với một không gian rộng lớn hơn, và thực sự là chính mình. Con sóng tình yêu càng có thêm những trăn trở để lý giải, cắt nghĩa về tình yêu của em. Biển có những Con sóng dưới lòng sâu và trên mặt nước, có khi con sóng trên mặt nước lặng lẽ nhưng con sóng dưới lòng sâu lại rất ồn ào. Những gì lạ lùng và khó hiểu ấy của sóng cũng chính là những gì khó hiểu của em. Khi nhắc đến hai con sóng để biểu thị cho tình yêu thì lời thơ lại mở ra liên tưởng khác: em khi yêu đã sánh tình yêu của mình với biển, bởi người phụ nữ khi yêu có cả một đại dương tình cảm, biển cũng như em đã không thể nào yên vì có anh. Chính những con sóng này là nhịp đập, là trái tim, là yếu tố làm nên sức sống của biển cả, bởi sóng chẳng bao giờ yên nghĩ, chẳng bao giờ ngừng vỗ. Về điều này, Xuân Quỳnh đã có cách lý giải thật bất ngờ, thú vị:

Ôi con sóng nhớ bờ,
Ngày đêm không ngủ được,

Như thế, con sóng ngày đêm không ngủ được cứ dào dạt triền miên, cứ cồn cào da diết bao trùm lên không gian, thời gian là tại bởi nỗi nhớ, tại bởi sóng nhớ bờ . Thực ra, mọi con sóng đều có bến bờ của nó và dù còn xa bờ bao nhiêu nữa thì sóng vẫn hướng tới bờ với một niềm khao khát thương nhớ không nguôi. Sóng nhớ bờ là một quy luật vĩnh cửu- quy luật của muôn đời, của tự nhiên và ở đây nỗi nhớ ấy của sóng đã được xem là một trong những cung bậc, một trong những giai điệu của tình yêu. Nhưng nói như thế dường như vẫn chưa đủ, chưa thoả, chưa diễn tả hết sự mãnh liệt, trào dâng của nỗi nhớ, nên người con gái đang yêu có lẽ cũng không cần phải giấu giếm những tình cảm chân thành của lòng mình cho nên một lần nữa nỗi nhớ lại được thể hiện ra một cách trực tiếp ở hai câu thơ :

Lòng em nhớ đến anh,
Cả trong mơ còn thức.

Xuân Quỳnh đã thể hiện nỗi nhớ như đã thường trực trong mọi không gian và thời gian, đã lan tỏa đầy cõi lòng, không chỉ ngự trị trong ý thức mà còn ăn sâu vào cả tiềm thức, đi cả vào giấc mơ- cái thức trong mơ mới là sự thật của nỗi lòng. Em thức để chăm chút, nâng niu từng khoảnh khắc hạnh phúc, dường như em chỉ sợ một giây phút chợp mắt là tất cả sẽ tan biến vào hư vô. Rõ ràng Xuân Quỳnh đã nối dài tình yêu bằng giấc mơ, bằng cách xoá nhoà khoảng cách giữa mộng và thực. Cách nói như vậy rất đúng với bản chất của tình yêu. Không phải sự táo bạo nào cũng chứng tỏ một tình yêu chân chính, nhưng tình yêu chân chính không thể thiếu mê say, cuồng nhiệt.

Ở bốn câu thơ sau, tình yêu sôi nổi nồng nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chân thành, trong sáng, một tình yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy chung:

“Dẫu xuôi về phương bắc
...........................................
Hướng về anh - một phương”

Hình như thể hiện tình yêu bằng nỗi nhớ vẫn chưa yên tâm, mà phải diễn đạt sao đây cho đủ, cho đến tận cùng, vì thế khổ thơ này xuất hiện. Những cặp từ trái nghĩa “Dẫu xuôi”, “dẫu ngược”, “phương Bắc”, “phương Nam” là những từ cụ thể nói lên độ dài và những cách trở trong tình yêu. Dân gian hay nói: “ xuôi nam ngược bắc”, Xuân Quỳnh đã diễn đạt ngược lại để khẳng định: dù cuộc đời, trời đất có thay đổi, có quay cuồng, đảo lộn, thay phương đổi hướng thì tình yêu của em cũng chỉ dành cho một người là anh mà thôi. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Đến đây trong lời thơ không còn em và sóng, chỉ còn em và anh – với tình yêu:

“Chỉ còn em và anh
Cùng tình yêu ở lại”
(Thơ tình cuối mùa thu)

Câu thơ giống như một lời thề. Thề rằng dù em phải ngược xuôi vất vả gian truân, lên thác xuống ghềnh cũng chỉ có anh là người duy nhất. Câu thơ giản dị mà sâu sắc hơn tất cả mọi lời vàng đá. Không gian thì có bốn phương tám hướng, nhưng tình yêu chỉ chấp nhận một phương. Có lẽ đây cũng là quan niệm về tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh: tình yêu phải gắn với lòng chung thủy. Tình yêu không đơn thuần là tình yêu mà tình yêu đi liền với cái tốt, cái đẹp, cái cao cả là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng thủy chung tuyệt đối. Khổ thơ toát lên vẻ đẹp của tình yêu đầy nữ tính kín đáo, dịu dàng, táo bạo, mãnh liệt bởi nhiều khát khao và đam mê nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của người phụ nữ phương Đông và người phụ nữ Việt Nam yêu tha thiết, chân thành và luôn hướng tới hôn nhân. Những câu thơ như được vắt ra từ chính cuộc đời Xuân Quỳnh đầy đau thương, mất mát, hụt hẫng về tình cảm. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ sĩ.

Ở cả hai đoạn thơ, hình tượng sóng và em sóng đôi, hòa làm một, soi chiếu vào nhau cộng hưởng. Sóng chính là nỗi lòng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng hiện tạo nên chiều sâu nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu: “Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được”. Ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Tóm lại, ở hai khổ thơ này, tác giả thể hiện trái tim người phụ nữ đang yêu đã cồn cào, da diết một nỗi nhớ miên man, thường trực, cả khi thức, khi ngủ, bao trùm cả không gian, thời gian. Nỗi nhớ cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn mà cũng sâu lắng biết bao. Ta bắt gặp ở đây một cô gái dạn dĩ mà rất chân thành bày tỏ nỗi nhớ mãnh liệt của mình khi yêu.

Xem thêm:Sơ đồ tư duy bài Sóng của Xuân Quỳnh

-/-

Trên đây làmẫu đề thi thử THPT Quốc Gia 2020 môn Văn của Biên Hòa - Đồng Naivới những dạng bài thường gặp trong đề thi được ra. Với việc ôn luyện đề thi thử, các em học sinh sẽ có thêm kiến thức, kỹ năng và hành trang vững vàng để bước vào kì thi quan trọng sắptới. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm nhiều đề thi thử THPT quốc gia môn Vănkhác được chúng tôi cập nhật liên tục.

Chúc các em học và thi thật tốt!

Cập nhật ngày 13/04/2020 - Tác giả: Huyền Chu
Bạn còn vấn đề gì băn khoăn?
Vui lòng cung cấp thêm thông tin để chúng tôi giúp bạn
Hủy
Gửi

14 đề tham khảo môn Văn chốt thi THPT Quốc gia

  • Đề tham khảo môn Văn THPT Quốc gia - Đề 1
  • Đề tham khảo môn Văn THPT Quốc gia - Đề 2
  • Đề tham khảo môn Văn THPT Quốc gia - Đề 3
  • Đề tham khảo môn Văn THPT Quốc gia - Đề 4
  • Đề tham khảo môn Văn THPT Quốc gia - Đề 5

Đề tham khảo môn Văn THPT Quốc gia - Đề 1

PHẦN 1 – ĐỌC HIỂU

"Bản lĩnh là khi bạn dám nghĩ, dám làm và có thái độ sống tốt. Muốn có bản lĩnh bạn cũng phải kiên trì luyện tập. Chúng ta thường yêu thích những người có bản lĩnh sống. Bản lĩnh đúng nghĩa chỉ có được khi bạn biết đặt ra mục tiêu và phương pháp để đạt được mục tiêu đó. Nếu không có phương pháp thì cũng giống như bạn đang nhắm mắt chạy trên con đường có nhiều ổ gà.
Cách thức ở đây cũng rất đơn giản. Đầu tiên, bạn phải xác định được hoàn cảnh và môi trường để bản lĩnh được thể hiện đúng lúc, đúng nơi, không tùy tiện. Thứ hai bạn phải chuẩn bị cho mình những tài sản bổ trợ như sự tự tin, ý chí, nghị lực, quyết tâm... Điều thứ ba vô cùng quan trọng chính là khả năng của bạn. Đó là những kỹ năng đã được trau dồi cùng với vốn tri thức, trải nghiệm. Một người mạnh hay yếu quan trọng là tùy thuộc vào yếu tố này.

Bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh. Khi xây dựng được bản lĩnh, bạn không chỉ thể hiện được bản thân mình mà còn được nhiều người thừa nhận và yêu mến hơn."

(Tuoitre.vn - Xây dựng bản lĩnh cá nhân)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?

Câu 2. Theo tác giả, thế nào là người bản lĩnh?

Câu 3. Tại sao tác giả cho rằng "Bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh".

Câu 4. Theo anh/chị, một người có bản lĩnh sống phải là người như thế nào?

PHẦN II – LÀM VĂN

Câu 1. (Nghị luận xã hội)

Hãy viết một đoạn văn ngắn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý kiến: Tuổi trẻ cần sống có bản lĩnh để dám đương đầu với mọi khó khăn thử thách.

Câu 2. (Nghị luận văn học)

Về hình tượng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, có ý kiến cho rằng:

"Sông Hương mang vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình."

Bằng hiểu biết về tác phẩm, anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

GỢI Ý LÀM BÀI

PHẦN 1 – ĐỌC HIỂU

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích?

- Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là phương thức nghị luận

Câu 2. Theo tác giả, thế nào là người bản lĩnh?

- Theo tác giả, người có bản lĩnh là người dám nghĩ, dám làm và có thái độ sống tốt.

Câu 3. Tại sao tác giả cho rằng "Bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh".

- Sở dĩ tác giả cho rằng bản lĩnh tốt là vừa phục vụ được mục đích cá nhân vừa có được sự hài lòng từ những người xung quanh bởi vì khi một cá nhân có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm nhưng chỉ nhằm mục đích phục vụ cá nhân mình, không quan tâm đến những người xung quanh, thậm chí làm phương hại đến xã hội thì không ai thừa nhận anh ta là người có bản lĩnh...

Câu 4. Theo anh/chị, cần làm thế nào để rèn luyện bản lĩnh sống?

- Phải trau dồi tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng

- Phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm

- Phải có ý chí, quyết tâm, nghị lực

- Phải có chính kiến riêng trong mọi vấn đề. Người bản lĩnh dám đương đầu với mọi thử thách để đạt điều mong muốn.

PHẦN II – LÀM VĂN

Câu 1. (Nghị luận xã hội)

* Giải thích:

- Bản lĩnh là sự tự khẳng định mình, bày tỏ những quan điểm cá nhân và có chính kiến riêng trong mọi vấn đề. Người bản lĩnh dám đương đầu với mọi thử thách để đạt điều mong muốn.

* Phân tích, chứng minh

- Ý nghĩa của việc sống bản lĩnh

+ Sống bản lĩnh giúp cho bản thân có được sự tự tin trong cuộc sống, từ đó đề ra những mục tiêu và dám thực hiện chúng.

+ Bên cạnh đó, người bản lĩnh cũng dễ dàng thừa nhận những sai sót, khuyết điểm của mình và tiếp thu những cái hay, cái mới, cái hay.

+ Trước những cám dỗ của cuộc sống, người bản lĩnh hoàn toàn có thể tự vệ và tự ý thức được điều cần phải làm.

* Bình luận, mở rộng

+ Là học sinh, bản lĩnh được biểu hiện qua nhiều hành vi khác nhau. Đó là khi bạn cương quyết không để cho bản thân mình quay cóp, chép bài trong giờ kiểm tra. Đó là khi bạn sẵn sàng đứng lên nói những sai sót của bạn bè và khuyên nhủ họ. Khi mắc sai lầm, bạn tự giác thừa nhận và sửa sai.

* Bài học nhận thức và hành động

- Không phải ai sinh ra cũng có được bản lĩnh. Bản lĩnh của mỗi người được tôi luyện qua nhiều gian lao, thử thách. Bằng sự can đảm, học từ những thất bại, đứng dậy từ những vấp ngã, ... mỗi chúng ta đang dần tạo nên một bản lĩnh kiên cường.

Câu 2. (Nghị luận văn học)

* Vài nét về tác giả, tác phẩm

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, cũng là một trí thức giàu lòng yêu nước. Ông có phong cách độc đáo và đặc biệt sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí...

- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đến với tác phẩm người đọc sẽ gặp ở đó dòng sông Hương với vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình

* Giải thích ý kiến:

- Vẻ đẹp nữ tính: Có những vẻ đẹp, phẩm chất của giới nữ (như: xinh đẹp, dàng, mềm mại, kín đáo...)

- Rất mực đa tình: Rất giàu tình cảm.

=> Ý kiến đề cập đến những vẻ đẹp khác nhau của hình tượng sông Hương trong sự miêu tả của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

* Phân tích vẻ đẹp sông Hương:

- Vẻ đẹp nữ tính:

+ Khi là một cô gái Digan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng. Khi là người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ.

+ Khi là một người con gái đẹp ngủ mơ màng. Khi là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Khi được ví như là Kiều, rất Kiều. Khi là người con gái Huế với sắc màu áo cưới vẫn mặc sau tiết sương giáng.

=> Dù ở bất kỳ trạng thái tồn tại nào, sông Hương trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn đầy nữ tính, xinh đẹp, hiền hòa, dịu dàng, kín đáo nhưng không kém phần mãnh liệt...

- Rất mực đa tình:

+ Cuộc hành trình của sông Hương là cuộc hành trình tìm kiếm người tình mong đợi. Trong cuộc hành trình ấy, sông Hương có lúc trầm mặc, có lúc dịu dàng, cũng có lúc mãnh liệt mạnh mẽ... Song nó chỉ thực vui tươi khi đến ngoại ô thành phố, chỉ yên tâm khi nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời.

Gặp được thành phố, người tình mong đợi, con sông trở nên duyên dáng ý nhị uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến, cái đường cong ấy như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu.

+ Sông Hương qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, như những vấn vương của một nỗi lòng.

+ Sông Hương đã rời khỏi kinh thành lại đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông - Tây để gặp lại thành phố 1 lần cuối. Nó là nỗi vương vấn, chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Như nàng Kiều trong đêm tình tự, sông Hương chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó...

* Vài nét về nghệ thuật:

- Phối hợp kể và tả; biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh; ngôn ngữ giàu chất trữ tình, chất triết luận.

* Đánh giá:

- Miêu tả sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường bộc lộ một vốn hiểu biết phong phú, một trí tưởng tưởng bay bổng.

- Đằng sau những dòng văn tài hoa, đậm chất trữ tình là một tấm lòng tha thiết với quê hương, đất nước.