Từ VLOS Show
Phương pháp này khởi thủy từ cách dạy học của Xôcrat. Đây là một PPDH thường xuyên được vận dụng trong dạy học các môn ở trường THPT. Trong các pp dùng lời thì pp vấn đáp, hs làm việc với sách (chủ yếu làm việc với SGK), báo cáo nhỏ của học sinh có nhiều thuận lợi phát huy TTC của học sinh.
1. Bản chất[sửa]PPDH gợi mở - vấn đáp là quá trình tương tác giữa GV và HS, được thực hiện thông qua hệ thống câu hỏi và câu trả lời tương ứng về một chủ đề nhất định được GV đặt ra. Qua việc trả lời hệ thống câu hỏi dẫn dắt của GV, HS thể hiện được suy nghĩ, ý tưởng của mình, từ đó khám phá và lĩnh hội được đối tượng học tập. Đây là PPDH mà GV không trực tiếp đưa ra những kiến thức hoàn chỉnh mà hướng dẫn HS tư duy từng bước để các em tự tìm ra kiến thức mới phải học. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức của HS, người ta phân biệt các loại: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích minh họa và vấn đáp tìm tòi. 2. Các loại vấn đáp[sửa]a) Vấn đáp tái hiện[sửa]Được thực hiện khi những câu hỏi do GV đặt ra chỉ yêu cầu HS nhớ lại, nhắc lại kiến thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận. Loại vấn đáp này chỉ nên sử dụng hạn chế khi cần đặt mối liên hệ giữa kiến thức đã học với kiến thức sắp học, hoặc khi củng cố kiến thức vừa mới học. Loại câu hỏi vấn đáp tái hiện thường được sử dụng khi:
b) Vấn đáp giải thích minh họa[sửa]Được thực hiện khi câu hỏi của GV đưa ra có kèm theo các ví dụ minh họa (bằng lời hoặc bằng hình ảnh trực quan) nhằm giúp HS dễ hiẻu, dễ ghi nhớ. Phương pháp này được áp dụng có hiệu quả trong một số trường hợp, như khi GV biểu diễn phương tiện trực quan. Loại câu hỏi này thường được sử dụng khi:
c) Vấn đáp tìm tòi[sửa]còn được gọi là vấn đáp phát hiện hay đàm thoại ơrixtic: Là loại vấn đáp mà GV tổ chức sự trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp, có khi giữa trò với trò, thông qua đó, HS nắm được tri thức mới. Hệ thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải quyết một số vấn đề xác định, buộc HS phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải đáp. Trật tự logic của các câu hỏi kích thích TTC tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết. GV đóng vai trò người tổ chức sự tìm tòi còn hs thì tự lực phát hiện kiến thức mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm thoại, HS có được niềm vui của sự khám phá. Cuối giai đoạn đàm thoại, GV khéo léo vận đụng các ý kiến của HS để kết luận vấn đề đặt ra, có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. 3. Quy trình thực hiện[sửa]a) Trước giờ học[sửa]
b) Trong giờ học[sửa]
c) Sau giờ học[sửa]GV chú ý rút kinh nghiệm về tính rõ ràng, chính xác và trật tự logic của hệ thống câu hỏi đã được sử dụng trong giờ dạy. 4. Ưu điểm[sửa]
Ở đây, GV giống như người tổ chức tìm tòi còn HS thì giống như người tự lực phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, sau khi kết thúc cuộc đàm thoại, HS có được niềm vui của sự khám phá, vừa nắm được kiến thức mới, vừa nắm được cách thức đi tới kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Cuối cuộc đàm thoại, GV cần biết vận dụng các ý kiến của HS để kết luận vấn đề đặt ra, có bổ sung và chỉnh lý khi cần thiết. Làm được như vậy, HS càng hứng thú, tự tin vì thấy trong kết luận của GV có phần đóng góp ý kiến của mình. Dẵn dắt theo phương pháp vấn đáp tìm tòi như trên rõ ràng mất nhiều thời gian hơn phương pháp thuyết trình giảng giải, nhưng kiến thức HS lĩnh hội được sẽ chắc chắn hơn nhiều. 5. Hạn chế[sửa]Hạn chế lớn nhất của phương pháp vấn đáp là rất khó soạn thảo và sử dụng hệ thống câu hỏi gợi mở và vấn đáp cho HS the một chủ đề nhất quán. Vì vậy đòi hỏi GV phải có sự chuẩn bị rất công phu, nếu không, kiến thức mà HS thu nhận được qua trao đổi sẽ thiếu tính hệ thống, tản mạn, thậm chí vụn vặt.
6. Một số lưu ý[sửa]Khi soạn các câu hỏi, GV cần lưu ý các yêu cầu sau đây:
7. Ví dụ[sửa]Ví dụ 1: Giải hệ bpt[sửa]Ví dụ: Khi dạy học môn Toán lớp 10, khi hướng dẫn HS giải bài toán: Tìm các giá trị của m để hệ bất phương trình sau có nghiệm GV có thể sử dụng hệ thống các câu hỏi sau: - Bất phương trình đầu của hệ đã có nghiệm chưa? Tập nghiệm của bất phương trình đó như thế nào? - Để xác định tập nghiệm của bất phương trình thứ hai phải xét những trường hợp nào? (Để trả lời được câu hỏi này, HS phải vận dụng thành thạo cách giải và biện luận bất phương trình dạng - Với mỗi trường hợp đó, hệ bất phương trình có nghiệm khi nào? Trả lời được các câu hỏi trên thì HS sẽ giải được bài toán. Từ cách giải bài toán trên, cho HS thảo luận để trả lời các câu hỏi: - Có thể tổng quát bài toán đó như thế nào? Câu trả lời mong đợi là: Bài toán tổng quát: Cho một hệ bất phương trình có chứa tham số. Hãy tìm tất cả các giá trị của tham số để hệ bất phương trình đã cho có nghiệm. Đường lối giải bài toán tổng quát đó là:
Tài liệu tham khảo[sửa]
|