Vì sao nói trung quốc dưới thời đường là một đất nước thống nhất chính quyền vững mạnh

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

(ĐCSVN) - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ (Ảnh tư liệu)

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp vận tải, ngân hàng…) của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917), đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất (3/1935). Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” (phê bình và tự phê) với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân (kẻ thù) chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công (Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la)[10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936). Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (1927) và cương lĩnh cách mạng đầu tiên (chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt) của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”

Thứ tư - 27/10/2021 09:53
LỜI NÓI ĐẦU
Phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinhhạnh phúc là nội dung quan trọng trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạngViệt Nam. Người “là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩaanh hùng cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh rạng ngời của đạo đức, trí tuệ, khíphách, lương tri của dân tộc và thời đại”. Trọn cuộc đời, Người hiến dâng cho sựnghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Di sản tư tưởng Người để lại có ý nghĩalịch sử và thời đại sâu sắc, đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thành công rất tốt đẹp,góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vàosự nghiệp đổi mới đất nước; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy tinhthần yêu nước, ý chí và khát vọng phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dânchủ, công bằng, văn minh.Đại hội đã xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030 vàtầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045, định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo toànbộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội. Trong quan điểm chỉ đạo thựchiện đường lối đổi mới giai đoạn tới, Nghị quyết Đại hội đã khẳng định: “Kiênđịnh và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ ChíMinh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lốiđổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảovệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời chỉ rõ: “Động lựcvà nguồn động lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinhthần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khátvọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.Thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếptục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII "Vềđẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"; tiếptục thực hiện Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 25/7/2016 của Ban Bí thư Trung ươngĐảng về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩymạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và đẩymạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ươngĐảng đã biên soạn, ban hành tài liệu chuyên đề học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh toàn khóa: “Học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Chuyên đề cung cấp những nội dung cơ bản, các giải pháp chủ yếu trong họctập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong năm 2021 vànhững năm tiếp theo, nhằm phát huy ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.Chuyên đề được dùng trong sinh hoạt chi bộ, đoàn thể, cơ quan, đơn vị của hệthống chính trị và được tuyên truyền rộng rãi trong toàn thể nhân dân.Nội dung chuyên đề, ngoài Lời mở đầu và Kết luận, gồm 2 phần:
- Phần thứ nhất: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực,tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
- Phần thứ hai: Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cáchHồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,hạnh phúc trong giai đoạn hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu tài liệu tới các đồng chí và quý bạn đọc!



Phần thứ nhất

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG, KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

1. Sự hình thành tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tựlực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Vấn đề độc lập cho dân tộc và khát vọng tự do cho nhân dân là xuất phátđiểm, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọngphát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, được nuôi dưỡng bởi những giá trị vănhoá truyền thống của dân tộc, có sự tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Sinh thời trong cảnh nước nhà bị nô dịch, lầm than, người thanh niên trẻNguyễn Tất Thành đã sớm thức tỉnh, đau đáu nỗi niềm cứu nước, cứu dân. Ngườichọn hướng đi sang các nước tư bản phương Tây tìm hiểu sự thật đằng sau khẩuhiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái”, xem người ta làm thế nào rồi trở về giúp đồngbào mình. Ngày 5/6/1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Người bắt đầu chuyến hành trìnhtrên con tàu Amiral Latouche Tresville, mang theo khát vọng cháy bỏng: “Tự docho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy làtất cả những điều tôi hiểu”
4. Điều này sớm đã thể hiện tư tưởng, ý chí tự lực, tựcường và một khát vọng lớn, mang tầm nhìn thời đại của lãnh tụ Hồ Chí Minh.
- Sinh sống và làm việc tại nhiều nước tư bản phương Tây đã giúp NguyễnTất Thành nhận thức và vạch rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản: Ở đâu đâu đế quốctư bản thực dân cũng dã man, tàn bạo, cũng đầy rẫy những quan hệ phi nhân tính;ở đâu đâu những người lao động nghèo khổ, bần cùng cũng là bạn bè, anh em,đồng chí của nhau, họ phải được tập hợp lại, đứng lên đấu tranh giải phóng.
- Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc
đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luậncương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương của Lêninđã giúp Người giải đáp những vấn đề cơ bản về con đường giải phóng dân tộc màNgười tìm kiếm bấy lâu. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộckhông có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tháng 12/1920, Người đã gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp,đánh dấu sự chuyển biến mang tính bước ngoặt trong tư tưởng của Người từ chủnghĩa yêu nước sang chủ nghĩa cộng sản.

- Sau khi xác định con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Người tích cựctruyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về trong nước. Người đã mang đến một luồng giómới về đấu tranh cách mạng đối với nhân dân Việt Nam, nhân dân các dân tộcthuộc địa, phụ thuộc, khơi dậy trong họ tinh thần đoàn kết đấu tranh chống chủnghĩa thực dân, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh theo khuynh hướng cách mạng vô sảnở nước ta trong những năm 30 của thế kỷ XX, đưa tới sự ra đời của chính đảng vôsản Việt Nam, mở ra thời đại rực rỡ của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo củaĐảng, với những dấu ấn lịch sử và tầm vóc thời đại.
Ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chính của dân tộc đãbồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọigiai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọnggiải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người
đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mácxít ởViệt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành côngcủa cách mạng nước nhà.

2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh về ý chí tự lực, tự cường
2.1. Ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, cóquan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế
- Hầu hết các đảng cộng sản ở Châu Âu đều có quan điểm rằng, cách mạng ởcác thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng ở các nước tư bản (chính quốc), cáchmạng ở các nước thuộc địa không thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốcchưa thắng lợi. Nguyễn Ái Quốc không tán thành quan điểm đó. Người cho rằng,
với ý chí, khát vọng đấu tranh mãnh liệt, bất khuất vì độc lập, tự do, cách mạng ởcác nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắnglợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không.
- Người cũng chỉ rõ mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa vàcách mạng ở chính quốc. Người ví mối quan hệ đó như hai cánh của một conchim. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, vạch trần bản chất của chủnghĩa tư bản thực dân giống con đỉa có hai vòi, một vòi bám vào giai cấp vô sản ởcác nước tư bản, vòi kia hút máu các dân tộc thuộc địa, Người khẳng định muốntiêu diệt nó, phải cắt cả hai cái vòi, muốn vậy phải có sự phối hợp chặt chẽ giữacách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc.

- Hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc luôn chú trọng đưa rađề nghị Quốc tế Cộng sản đặt đúng vị trí, vai trò của cách mạng thuộc địa trongphong trào cách mạng vô sản thế giới, tích cực giúp đỡ cách mạng thuộc địa về lýluận và phương pháp đấu tranh, đào tạo cán bộ cho các dân tộc thuộc địa, cổ vũ và
hướng dẫn phong trào cách mạng thuộc địa phát triển đúng hướng, có khả năng tựgiải phóng mình.

- Thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của dân tộc theo con đường chủ nghĩa MácLênin, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng,thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối vớitôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ,đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”.
2.2. Ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêunước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng

- Ý chí tự lực, tự cường trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đã giúpNgười thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính, bao gồm chủ nghĩa yêunước và tinh thần dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn của các dân tộc bị áp bức trênthế giới đứng lên chống đế quốc, thực dân. Từ thực tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷXIX đầu thế kỷ XX, Người viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước.Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những ngườiculi biết phản đối, nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạpdịch và thuế muối... nó đã thúc giục thanh niên bãi khoá, làm cho những nhà cáchmạng trốn sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa”.
- Theo Người, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dântộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh(1927), Người viết: “chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnhdậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”. Nêu cao tinh thầnđộc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phảicủng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dânPháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tínhnguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”.
- Ở một nước thuộc địa như Việt Nam, đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấptrở thành vấn đề sống còn, ngọn cờ giải phóng dân tộc phải giương cao hơn hếtthảy. Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc được coilà nền tảng căn bản, có thể huy động, tập hợp được hết thảy các giai tầng xã hộiđoàn kết trên một mặt trận, đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như bảo vệ vữngchắc nền độc lập đó. “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trungnông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”.
- Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (11/1939), Đảng ta khẳng định chủtrương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, liên hiệp tất cảcác dân tộc, giai cấp, đảng phái, giành độc lập dân tộc, xây dựng hình thức Nhànước cộng hòa, dân chủ “Chính phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng”. Nghị
quyết Trung ương nêu rõ: “Công nông phải đưa cao cây cờ dân tộc lên, vì quyền lợisinh tồn của dân tộc mà sẵn sàng bắt tay với tiểu tư sản và những tầng lớp tư sảnbổn xứ, trung tiểu địa chủ”.

- Ngay sau khi trở về nước, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trungương 8 (1941). Ngoài những chủ trương lớn về giải phóng dân tộc, nhiệm vụ cáchmạng chủ yếu, Hội nghị còn chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, tập hợpđoàn kết rộng rãi toàn dân tộc với các tổ chức, đoàn thể cứu quốc, thống nhất ýchí, hành động trong toàn Đảng, toàn nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.
- Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủCộng hòa ra đời là minh chứng sống động nhất về sức mạnh dân tộc, mà chủ nghĩayêu nước, tinh thần dân tộc, kết hợp chủ nghĩa quốc tế trong sáng là nhân tố quytụ, thúc đẩy, hòa quyện, kết tinh mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, sức mạnhcủa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam, kiên cường đấu tranh dưới sựlãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.

2.3. Ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiệncủa cách mạng
- Điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận độngvà tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọinơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vữngthuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng aicũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũngnhư người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”.
- Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì hội nghị thành lậpĐảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Người soạnthảo. Cương lĩnh ngắn gọn, rõ ràng và thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, phù hợpvới hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chốngchủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêuchiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyềncách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sự ra đời của Đảngđánh dấu bước ngoặt đặc biệt quan trọng trong tiến trình cách mạng dân tộc, trởthành nhân tố tiên quyết, quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dẫndắt, tập hợp và lãnh đạo nhân dân từng bước đấu tranh, chuẩn bị các điều kiện mọimặt, đưa tới sự thành công của cách mạng.
- Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/01/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minhtrở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng nhưhoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giaicấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc.
- Người chỉ ra các nhiệm vụ quan trọng, cần kíp về việc chuẩn bị các điềukiện đảm bảo sự thắng lợi của cách mạng, như: xây dựng lực lượng cách mạng(bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang); căn cứ địa cách mạng; tậpdượt cho quần chúng đấu tranh, xác định phương pháp đấu tranh khởi nghĩa từngphần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền; chuẩn bị bộ máy tổng khởi nghĩagiành chính quyền khi thời cơ chín muồi và dự kiến các công việc sau khi giànhđược chính quyền.

- Nhờ có sự chủ động, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, chỉ trong vòng 15 ngàyCách mạng tháng Tám (1945) diễn ra mau lẹ, ít đổ máu, giành thắng lợi hoàn toàntrên cả nước, đập tan chế độ thực dân thống trị nước ta hơn 80 nghìn năm, lật đổ chếđộ quân chủ chuyên chế tồn tại ngót nghìn năm, khai sinh nền dân chủ cộng hòa, mởra một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam, kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liềnvới giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỉ nguyên độc lập dân tộcgắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi này thể hiện việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin ở mộtnước thuộc địa, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, tinh thần, ýchí tự lực, tự cường của toàn dân tộc theo tư tưởng của Bác. Tư tưởng tự lực, tựcường, chủ động chuẩn bị chu đáo các điều kiện cách mạng tiếp tục được pháttriển và khẳng định trong các giai đoạn cách mạng sau, đưa tới thắng lợi vĩ đại củacuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), kháng chiến chống đế quốcMỹ (1954-1975), trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước (1975- nay), đặcbiệt trong 35 năm đổi mới (1986- nay).
2.4. Ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnhcủa Nhân dân
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân nhưng không phải ở đâuvà bất cứ lúc nào quần chúng nhân dân cũng làm được cách mạng. Muốn làmđược cách mạng, quần chúng nhân dân phải được vận động, rèn luyện và tổ chứcnhằm huy động, tập hợp, phát huy cao nhất vai trò, sức mạnh của mọi lực lượngquần chúng trên cùng một mặt trận, biến thành sức mạnh của quần chúng thànhsức mạnh cách mạng.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Ngườinói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnhbằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”16. Người khẳng định, dân khí mạnh thìbinh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gìkhó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”.
- Trong giai đoạn vận động giải phóng dân tộc, lãnh tụ Hồ Chí Minh thườngnhấn mạnh phải động viên lực lượng của toàn dân, có dân là có tất cả. Khi thời cơcách mạng chín muồi (8/1945), Người đã gửi Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa trongcả nước. Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân
tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng chota... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồngbào hãy dũng cảm tiến lên!”. Sức mạnh toàn dân được huy động và hiện diện tolớn, tạo nên thành công vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám.

- Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), trong hoàn cảnh thực dânPháp rắp tâm xâm lược nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toànquốc kháng chiến, thôi thúc nhân dân ta đứng lên đứng lên đấu tranh, quy tụ sứcmạnh toàn dân trong thế trận chiến tranh nhân dân, chống thực dân Pháp nhằm giữvững nền độc lập dân tộc: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đànông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Aicó súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc,thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), đương đầuvới kẻ thù có sức mạnh số một thế giới về kinh tế và quân sự, Chủ tịch Hồ ChíMinh nhấn mạnh: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng caotinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miềnBắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nướcta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.

- Vai trò và sức mạnh của nhân dân luôn được Đảng ta trân trọng, phát huycao độ trong công cuộc trường kỳ kháng chiến, cũng như trong trong thời kỳ xâydựng và bảo vệ đất nước kể từ khi hòa bình lập lại đến nay, tạo nên những thànhtựu vô cùng quan trọng trên các phương diện đời sống xã hội, đem lại những giátrị kinh tế– xã hội, những thay đổi lớn lao về diện mạo đất nước trong tiến trìnhthực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”như Bác Hồ hằng mong ước.
2.5. Ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc,“nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độclập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu vớinhững kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chốnglại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
- Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị cho một cuộckháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủtịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng.Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyếttâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất địnhkhông chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”
.

Nhờ phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, quyết tâm vừa khángchiến vừa kiến quốc, chúng ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng, làmnên chiến thắng Điện Biên phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, chiếnthắng của ý chí, khát vọng độc lập và khí phách Việt Nam.
- Lịch sử tiếp tục chứng kiến những thách thức cam go về ý chí và khát vọngđộc lập dân tộc qua cuộc đối đầu lịch sử giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ.Trước một cuộc chiến tranh khốc liệt, trường kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu caoquyết tâm trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Người nói: “Phải giành thắnglợi quyết định trong một thời gian, ta không nói mấy năm, mấy tháng, mấy ngày,nhưng trong một thời gian càng ngắn càng tốt”.
- Khích lệ, thôi thúc ý chí đấu tranh đến ngày đất nước toàn thắng, thống nhấttrong mỗi người dân, Người chỉ rõ: “Nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúcnày là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miềnNam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Hễ còn một tên xâmlược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu, quét sạch nó đi”.
- Tin tưởng vào sự tất thắng của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,cứu nước, trong bản Di chúc, Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước củanhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất địnhthắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”
.

- Chiến thắng lịch sử 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nướcmột lần nữa khẳng định ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ và giữ vững nềnđộc lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam. Đồng thời, tiếptục được Đảng ta phát huy trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sau giải phóng đến nay.

3. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
3.1. Xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí,bồi dưỡng nhân tài

- Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với cương vị là người đứng đầuNhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xâydựng đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tưtưởng của Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng (1951): Xây dựngmột nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Ngườinhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thìđộc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.
- Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, Ngườiđã nêu lên những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền đó là diệt giặc đói, giặc dốtvà giặc ngoại xâm. Nói cách khác, tập trung giải quyết hai vấn đề trọng yếu: phụchồi và phát triển nội lực đất nước; đối ngoại linh hoạt tránh nguy cơ ngoại xâm,kéo dài thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.
- Trong các nhiệm vụ và giải pháp cấp bách đó, Người đặc biệt chú trọngviệc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh.Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Namđộc lập (05/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ, khích lệ: “Non sông ViệtNam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quangđể sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phầnlớn ở công học tập của các em”.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, trước đây thực dân Pháp cai trị đã thực hiệnchính sách ngu dân để dễ lừa dối, bóc lột dân ta, có tới 95% đồng bào ta không biếtchữ. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phảithực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Nạn thất học, kém hiểu biết làmột cản trở lớn cho sự phát triển của đất nước và dân tộc. Người kêu gọi: “...Mọingười Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiếnthức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phảibiết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
- Bên cạnh việc nâng cao dân trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nhiệm vụquan trọng trong kiến thiết đất nước là bồi dưỡng nhân tài. “Kiến thiết cần có nhântài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéophân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.
- Xuyên suốt hai cuộc trường chinh kháng chiến chống lại các thế lực đế quốcthực dân Pháp và Mỹ, đường lối kiến thiết đất nước, từng bước hiện thực hóa vọngxây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh luôn được Đảng và Bác Hồlãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách cụ thể, phù hợp, sáng tạo và quyết liệt.
- Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng,cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựngmột nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và gópphần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

- Những tư tưởng, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một Việt Nam hùngcường tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân tộc từng bước hiện thực hóa trong côngcuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới pháttriển đất nước trong 35 năm qua và trong những chặng đường tiếp theo. Kết quả,thành tựu đem lại “rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”, nhưVăn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có đượccơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
3.2. Thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảngcầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân
- Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớnlao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôichỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàntoàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành”.

- Khi nước nhà độc lập, khát vọng ấm no, hạnh phúc của nhân dân trở thànhđộng lực và mục tiêu hành động của toàn Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ ChíMinh. Trong tư tưởng của Người, hạnh phúc của người dân đơn giản là quyền sống,từ đó phát triển một dân tộc, một quốc gia hạnh phúc. Đó là một xã hội do nhân dân
lao động làm chủ, bình đẳng, không có chế độ người bóc lột người, “một xã hộihoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứngđáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốctự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”.
- Trong quá trình xây dựng đất nước, Người rất coi trọng các chính sách kinhtế nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người.Người khẳng định Ðảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạovừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác lợi ích của nhân dân.
- Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn chocách mạng, “chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnhphúc của quốc dân”. Trong Di chúc, Người dặn dò: “Đảng, Chính phủ và đồngbào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mởnhững lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánhsinh”. Mong muốn của Người là ai ai cũng được góp công sức vào sự nghiệp cáchmạng của dân tộc và được hưởng thành quả do cách mạng mang lại.

Ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân, hùng cườngcho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ Nhândân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toànĐảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước,
bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.
3.3. Xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạchvới sự đồng lòng của Chính phủ và người dân

- Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ ChíMinh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựngđời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốtđẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện
với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

- Đất nước giành được độc lập, vấn đề kiến thiết, phát triển kinh tế - xã hội trởnên cấp thiết. Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78 về việcthiết lập “Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết” của Chính phủ. Phát biểu trongphiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/01/1946, Hồ Chí Minh mong muốn mọingười “đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội”, “Làm cho dân có ăn.Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.
- Trong thư gửi các giới công thương Việt Nam, Người viết: “Trong lúc cácgiới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập củanước nhà, thì giới Công-Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế vàtài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúpgiới Công-Thương trong công cuộc kiến thiết này”. Người nhấn mạnh, nền kinhtế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp,thương nghiệp thịnh vượng. Các nhà công nghiệp, thương nghiệp hãy cùng đemvốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân.

- Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nước muốngiàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp”, “Chúng ta phải quý mỗi tấc đất nhưmột tấc vàng”. Người khuyến khích: “Trong công cuộc xây dựng nước nhà,Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nôngdân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”.
- Theo Người, “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển côngnghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vì hai ngành đó khăngkhít với nhau... Nếu ngành công nghiệp phát triển mà ngành nông nghiệp khôngphát triển thì khập khễnh như người đi một chân”. Xuất phát từ điều kiện nướcta, sản xuất nông nghiệp có một vị trí hết sức quan trọng, Người chủ trương phảicải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tếkhác, để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà.

- “Nhân dân ta, đặc biệt là công nhân và nông dân ta, phải hăng hái thi đua yêunước, thực hiện khẩu hiệu: làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ”42. “Tự lực cánh sinh, tăng giasản xuất, thực hành tiết kiệm”. Có sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn xãhội, như vậy mới phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần củanhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi.
3.4. Phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mởcửa, thu hút đầu tư nước ngoài

- Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, ngay khi thời cơ đến, dưới sựlãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh nội lực của hơn 20 triệungười dân Việt Nam đã được phát huy, làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cáchmạng Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân.
- Sau ngày nền độc lập ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tự lúcgiành quyền độc lập đến nay, xứ Việt Nam ta vẫn hết sức cố gắng để một mặt yênnội trị, một mặt gây thực lực chống xâm lăng và tranh thủ ngoại giao được thắnglợi. Sức cố gắng ấy đã đem lại cho chúng ta những kết quả khả quan”. Điều nàyđã nói lên tinh thần, quan điểm, đường lối của Đảng và Bác Hồ trong xây dựng vàbảo vệ đất nước là phát huy tối đa các nguồn lực bên trong, tranh thủ nguồn lựcbên ngoài, có chính sách mở cửa, hỗ trợ phát triển nền kinh tế nhằm tạo nội lựcdân tộc vững mạnh.
- Người tuyên bố: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thichính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”, “Nước Việt Nam dành sự tiếpnhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cảcác ngành kỹ nghệ của mình”.
- Quan điểm của Người trong việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằmmục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoạilực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, pháttriển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm
vốn cho ta, do vậy phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Ta phảikhéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tức là có thêmđiều kiện để tự lực cánh sinh.

- Ngay từ cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đãnêu rõ vấn đề này trong đường lối kháng chiến, đường lối kiến thiết đất nước.Người chỉ rõ phải phát triển toàn diện kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp, thươngnghiệp tới phát triển dịch vụ, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước, trước hết là cácnước anh em, các nước xã hội chủ nghĩa. Suốt cuộc kháng chiến, mặc dù tình hìnhthế giới diễn biến phức tạp, song Người vẫn cố gắng mở rộng quan hệ hợp tác quốctế, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩaxã hội ở miền Bắc. “Cuộc kháng chiến lâu dài của chúng ta được thắng lợi là do nơichúng ta động viên kinh tế được thành công, vì chúng ta có biết động viên kinh tếmột cách khôn khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bền bỉ”.
- Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ý chí tự lực, tự cường đượckhơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng và nhân dân hai miền Nam – Bắc nhằm thựchiện thắng lợi nhiệm vụ thống nhất đất nước, bảo toàn nền độc độc lập, đưa cả nướctiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời gian này, chúng ta tiếp tục nhận được rấtnhiều sự ủng hộ, giúp đỡ từ các nước anh em và bè bạn quốc tế. Điều này một lầnnữa khẳng định quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng và Bác về coi trọng nộilực, khéo léo tranh thủ, tận dụng ngoại lực, xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

3.5. Luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lýluận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáođiều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác
- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng và Chủ tịchHồ Chí Minh đặt ra trên cơ sở nhận thức khoa học, đúng đắn lý luận chủ nghĩaMác-Lênin, phù hợp với thực tiễn đất nước. Từ thực tiễn, hoàn cảnh nước ta làmột nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội “không thể làm mau được mà phải làm dần dần”,“làm sao cho dân giàu nước mạnh”
.

- Độc lập, sáng tạo trong tư duy, quan điểm, chủ trương và hành động làphong cách nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, xây dựng, phát triểnđất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm,bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô cóphong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… ta có thể đi con đường khác đểtiến lên chủ nghĩa xã hội”.
- Chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinhnghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩaMác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lêninmà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn nhữngđặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luậtphát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm,bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị chỉ đạo thực tiễn vànghiên cứu lý luận về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đườngcủa chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở, nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng đểĐảng đổi mới tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quyluật khách quan, hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng(12/1986) và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong các giai đoạn cách mạng để ViệtNam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Phần thứ hai

ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC,PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG VÀKHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚCTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhvề ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Từ thuở bình minh, sơ khai trong lịch sử dân tộc, các thế hệ ông cha ta sớmđã hình thành ý chí, khát vọng phát triển quốc gia, dân tộc. Trải qua quá trình lịchsử, ý chí, khát vọng độc lập và hùng cường dân tộc đã được nuôi dưỡng, hun đúctrở thành giá trị truyền thống, lẽ sống và sức mạnh Việt Nam, là cơ sở để khơi dậy,phát huy, nhân lên sức mạnh tổng thể, sự nỗ lực của cả dân tộc trong tiến trình xâydựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ thời các vua Hùng dựng nước, đến Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa “đềnnợ nước, trả thù nhà”, ước vọng của Triệu Thị Trinh “đánh đuổi quân Ngô giànhlại giang sơn”... Hay qua lời tuyên ngôn “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt,“Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, nhữngchiến thắng vang dội 20 vạn quân Thanh dưới thời đại Quang Trung...
- Kế thừa truyền thống lịch sử - văn hóa của dân tộc, tinh thần độc lập tự chủ, ýchí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc ở HồChí Minh luôn bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn về con người, hạnh phúc của ngườidân, của quốc gia dân tộc, ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
- Người quan niệm chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất mang lại hạnh phúccho mọi người. Hạnh phúc ấy do chính con người tạo dựng với sự lãnh đạo, địnhhướng của đảng cộng sản, đảng cách mạng chân chính. Hạnh phúc ấy bắt đầu từnhững mục tiêu căn bản nhất, mọi người đều thoát cảnh đói nghèo, được ăn, ở, họchành, có đời sống văn hóa vật chất, tinh thần tốt đẹp, lành mạnh. Từ hạnh phúccăn bản đó mà tạo ra từng gia đình hạnh phúc, nhân rộng thành cộng đồng hạnhphúc, đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc đãđạt nhiều kỳ tích chói lọi, làm nên Cách mạng tháng Tám, khai sinh nền độc lập,mở ra thời đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, khẳngđịnh sự lựa chọn con đường cách mạng của Đảng và dân tộc ta là đúng đắn, phù
hợp quy luật khách quan, thực tiễn đất nước và xu hướng phát triển của thời đại.
- Hiện nay, công cuộc đổi mới đã và đang mang lại những thay đổi lớn lao,mà một trong những nguyên nhân căn bản là do chúng ta biết quy tụ, khơi dậy,phát huy ý chí tự cường và khát vọng phát triển của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạocủa Đảng, trở thành nguồn sức mạnh nội sinh to lớn, tiếp tục phục vụ đắc lực sự
nghiệp cách mạng dân tộc trong giai đoạn mới.

- Bài học kinh nghiệm quý giá của công cuộc đổi mới chính là dựa vào sứcdân, phát huy tinh thần và ý chí khát vọng của nhân dân trong xây dựng phát triểnkinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường hòa bình. Thành tựu của công cuộc đổi mớitrên các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội đã thể hiện rõ nét hiệu quả của việc phát huy
ý chí, khát vọng phát triển đất nước của toàn nhân dân ta, dân tộc ta.

Điều này đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước đã đạt đượcnhững thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so vớinhững năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sốngnhân dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần. Đất nước ta chưa baogiờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
- Có thể nói, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang, tiếp tụclà điểm tựa quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối chiến lượcphát triển đất nước trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiếp tục dẫn dắt dân tộc tiếnbước trên con đường phát triển và tiến bộ xã hội.

2. Bối cảnh thời đại và yêu cầu đặt ra phải phát huy ý chí tự lực, tựcường, khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc
- Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ, tình hình thế giới “tiếp tục có nhiều thay đổirất nhanh, phức tạp, khó lường”. Đáng chú ý là vấn đề toàn cầu hóa và hội nhậpquốc tế tiếp tục tiến triển nhưng cũng đang bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của chủ nghĩadân tộc cực đoan, vấn đề cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh
thương mại diễn ra gay gắt…

- Trong bối cảnh thế giới phát triển phụ thuộc lẫn nhau, lợi ích quốc gia, dântộc là nhân tố quyết định để mỗi quốc gia dân tộc tham gia vào các mối quan hệquốc tế, hội nhập quốc tế thành công. Ngoài tiềm lực kinh tế, ý chí tự lực, tự cường,khát vọng phát triển của toàn dân tộc là chỗ dựa và điều kiện căn bản, cốt lõi để mở
rộng quan hệ hợp tác, hội nhập quốc tế.

- Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn đang có tác động mạnh mẽ đến ViệtNam càng đòi hỏi Việt Nam phải luôn giữ vững độc lập, tự chủ, tự cường, khát vọngphát triển để bảo vệ vững chắc môi trường hòa bình, tận dụng cơ hội và hóa giảinhững thách thức đối với độc lập, hòa bình và phát triển của dân tộc.
- Thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cáchsinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Những thành tựu của côngcuộc đổi mới là nền tảng quan trọng giúp chúng ta củng cố niềm tin, sự quyết tâm,nỗ lực, tiếp tục thúc đẩy con đường đi lên của dân tộc. Hơn lúc nào hết, cần pháthuy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí, khát vọng phát triểncủa toàn dân tộc làm động lực cho sự phát triển trong giai đoạn phát triển mới.
- Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổimới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chítự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đấtnước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổnghợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡngsức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạođộng lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

- Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ nhiệm vụ, giải pháp tăng cường côngtác xây dựng Đảng, khẳng định: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triểnsáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn ViệtNam trong từng giai đoạn. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, côngbằng, văn minh”. “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơnnữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chứcvà cán bộ”.
- Văn kiện Đại hội cũng nhấn mạnh: Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghịquyết Trung ương 4 khoá XI, Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về xây dựngĐảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HồChí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùisuy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tựchuyển hoá" trong nội bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trungương đến chi bộ; cấp uỷ cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cánhân ở những nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tựchuyển hoá"; coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
- Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cườngdân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấpủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghịquyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

3. Một số giải pháp đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triểnđất nước phồn vinh, hạnh phúc

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minhtrong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt banội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nghiêncứu, thực hiện hiệu quả các giải pháp sau:
(1) Cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên
- Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa tolớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùngvới chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động củaĐảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò,sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, giảipháp của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trongsạch, vững mạnh, để tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành động lực,nguồn sức mạnh to lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy nội lực,vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII củaĐảng và mọi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

(2) Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thựchiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị
- Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cáchHồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị vàcông tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và cácvấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.

- Thực hiện đồng bộ giữa "xây" và "chống"; "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiếnlược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. "Xây" là tổ chức tốt cácphong trào thi đua yêu nước; động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiệnthắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng của các địaphương, cơ quan, đơn vị đã đề ra.
"Chống" là đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chínhtrị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ;phê phán, xử lý nghiêm những việc làm sai trái, thiếu trách nhiệm, quan liêu, háchdịch, cửa quyền; kiên trì, kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cựcvới tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không ngừng nghỉ, không bịtác động bởi bất cứ tổ chức, cá nhân có hành vi không lành mạnh nào. Nâng caotính cảnh tỉnh, răn đe đối với những tư tưởng, biểu hiện tiêu cực; khuyến khích, cổvũ cán bộ, đảng viên suy nghĩ, hành động vì lợi ích chung, vì hạnh phúc của nhândân, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.
(3) Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia cácphong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội
- Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước củacác cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng pháttriển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đạiđoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Làm cho mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổnphận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân,“trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm vớidân”, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểmtra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ ChíMinh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội.
- Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát
vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như mongước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy vai trò của báo chí và hệ thống thông tinđại chúng, đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông nhằm đạt
hiệu quả cao nhất trong công tác tuyên truyền.

(4) Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạođức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng pháttriển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu
- Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viênBan Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán bộ cóchức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên
phong, gương mẫu "trên trước, dưới sau", "đảng viên đi trước, làng nước theo sau".
- Lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thể hiện tư tưởng vững vàng, quan điểmđúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; cóphong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoànkết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể; luôn giữ vững nguyên tắc tậptrung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác,chống cục bộ địa phương, bè phái trong công tác cán bộ. Nghiêm túc tự phê bìnhvà phê bình, thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh.
- Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ýchí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Không ngừng họctập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, tự giác nêu gương cần,kiệm, liêm, chính, lao động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấmgương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt vớinhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và xã hội.

(5) Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phùhợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rènluyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viênthấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh cóhiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ,bè phái, lợi ích nhóm, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về chính trị tư tưởng, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thườngxuyên “tự soi”, “tự sửa”.
(6) Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vậndụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầucủa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoahọc, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng.Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trịvăn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình ViệtNam trong thời kỳ mới. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnhđạo, quản lý. Khuyến khích sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật,báo chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
(7) Nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác cácquan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, chủ động thông tin kịp thời, chínhxác, khách quan, đúng định hướng chính trị để phòng, chống “diễn biến hòa bình”,loại thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội, để cán bộ, đảng viên và nhândân nhận thức đúng đắn, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,làm cho tư tưởng tiến bộ thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốnnắn những biểu hiện lệch lạc, bồi đắp thế giới quan, phương pháp luận và niềm tinkhoa học trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, củng cố sự đoàn kết, thốngnhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

(8) Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện việc thực hiện Chỉthị 05 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI, XII) về xây dựng,chỉnh đốn Đảng, nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, phát hiện từ sớm, kịp thời ngăn chặnvi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, thựcsự đi vào nền nếp, thực chất, hiệu quả.

- Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổchức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thựchiện quy định nêu gương. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng và cánbộ, đảng viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những môhình hay, các điển hình tiên tiến, tấm gương tiêu biểu.
KẾT LUẬN
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tựlực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sự vậndụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, đápứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân,toàn dân ta trong công cuộc đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới đấtnước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện tốt chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phongcách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nướcphồn vinh, hạnh phúc” là một giải pháp hữu hiệu, góp phần thực hiện thắng lợicác nhiệm vụ Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Đây là việc làm thiết thực để mỗicán bộ, đảng viên phát huy cao độ ý thức, trách nhiệm, tinh thần cống hiến, laođộng sáng tạo, phục sự Tổ quốc, phục sự dân tộc, phục vụ nhân dân, tiếp tục pháttriển sự nghiệp cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại, xây dựng đất nướcngày càng phồn vinh, hạnh phúc, làm tiền đề căn bản hướng đến năm 2045, khi
nước ta kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay lànước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ đạt mục tiêu “trở thành nước pháttriển, thu nhập cao”
như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.



Nguồn tin: BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

Video liên quan

Chủ đề