Ví dụ về tả khuynh trong cuộc sống

LỜI NÓI ĐẦUSau những năm cảI cách, chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp thì đã có những thay đổitrong nhận thức, đánh giá được sự quan trọng trong việc vận dụng những quy luật của triết họcđối với công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta trở thành một nước côngnghiệp phát triển. Quy luật “ Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngượclại” là một trong những quy luật quan trọng của triết học. Quy luật này, được rất nhiều nhà triết họctrên thế giới nghiên cứu nhưng chỉ đến lượt Mác và Lênin nhận mới thức đầy đủ và phát triển nótrở thành hoàn thiện. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất đúng đắn được tầm quan trọng củanhững lý luận mà các nhà triết học nỗi lạc trên thế giới đã nghiên cứu, để vận dụng thành côngnhững quy luật này vào trong sự nghiệp đổi mới đất nước đòi hỏi các nhà hoạch định chính sáchphảI nắm vững nguyên lý, quy luật, định luật và phảI tính đến tính thực tiễn và bối cảnh áp dụng.Không thể cứ có sẵn quy luật và chỉ việc vận dụng là cách hiểu sai hoàn toàn, các quy luật chỉphát huy tác dụng khi nó nằm trong một hoàn cảnh xã hội cụ thể. Việc nghiên cứu những sự thayđổi trong lý luận là rất cần thiết bởi một lẽ những lý luận thường chỉ đúng ở mọt thời điểm nhưngcó những lý luận thành quy luật và chỉ biến đổi khi có sự thay đổi lớn trong xã hội. NÔI DUNGChương 1:Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại .1.1 Quan niệm biện chứng về chất và lượng:1.1.1 Quan niệm về chất và lượng của các nhà triết học cổ :Trong quá trình phát triển ,tư tưởng triết học của triết học nhân loại cũng đã xuất hiện nhiều quanđiểm khác nhau về khái niệm về lượng và chât cũng như quan hệ giữa chúng. Chỉ khi phép biện chứngduy vật ra đời mới đem lại quan điểm đúng đắn về khái niệm chất và lượng và quan hệ qua lại giữachúng. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học , chất và lượng có ý nghĩa với tư cách là những phạm trùtrong triết học của AIXTOT. Ông xem chất là tất cả những cái gì làm cho sự vật nào đó . Còn lượng làtất cả những cái gì có thể phân ra thành những bộ phận cấu thành . Ông phân lượng thành hai loại sốlượng và đại lượng . Ông cũng là người đầu tiên tiến tới giải quyết một vấn đề quan trọng của qui luật :vấn đề tính nhiều chất của sự vật . Từ đó, ông phân biệt sự khác nhau về hình thức với chất căn bảncủa sự vật – cái sẽ xuất hiện hay mất đi cùng với sự xuất hiện hay mất đi của bản thân sự vật ; ôngcúng đạt được buớc tiến đáng kể trong sự nghiên cứu phạm trù độ , xem độ là cái thống nhất, cáikhông thẻ phân chia giữa chất và lượng . Henghen đã phân tích một cách tỉ mỉ sự thống nhất biện chứng , mối quan hệ qua lại , sựchuyển hoá lẫn nhau giữa chất và lượng , xem xét chất và lượng nằm trong quá trình vận động và pháttriển không ngừng Trong sự việc xem xét mối quan hệ giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất , Hêghen đặc biệtchú ý đến phạm trù bước nhảy . Chính dựa trên tư tưởng của Hêghen , Lênin đã rút ra một kết luậnquang trọng là : việc thừa nhận bước nhảy hay không là tiêu chí cơ bản để xem đó là theo quan điểm biện chứnghay siêu hình. Tất nhiên với tư cách là nhà triết học duy tâm , Hêghen đã xem xét các phạm trù chất ,lượng , độ chỉ như những nấc thang tự phát triển của tinh thần , của “ ý niệm tuỵệt đối “ chứ không phảilà nấc thang nhận thức của con người đối với thế giới bên ngoài . 1.1. 2 Quan niệm biện chứng duy vật về lượng và chất :1.1.2.1Quan niệm biện chứng duy vật về chất : Trước hết chúng ta làm rõ khái niệm về chất . Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quyđịnh của các sự vật và hiện tượng , là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nóchứ không phải là cái khác.Mỗi sự vật , hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có , làm lên chính chúng . Nhờ đóchúng mới khác với các sự vật , hiện tượng khác; nhờ đó mà con người mới có thể phân biệt sự vật ,hiện tượng này với sự vật hiện tượng khác . Con người khác với động vật chính là nhờ những tính quyđịnh vốn có của con người có khả năng chế tạo và sử dụng công cụ lao động , có khả năng tư duy . Thuộc tính là biểu hiện một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật trong mối quan hệ qua laị vớisự vật khác . VD: khi muối vào nước ta thấy muối có tính tan , khi nếm ta biết muối có vị mặn . Tất cảnhững thuộc tính của muối là những cái vốn có của muối , nhưng chúng chỉ bộc lộ ra trong quan hệ củamuôI với nước hay trong quan hệ của muối với vị giác của con người . Chúng ta chỉ có thể biết nhiệt độcao hay thấp của không khí thông qua sự tác động qua lại của nó với cơ quan xúc giác của chúng ta .Để nhận thức được những thuộc tính chúng ta cần nhận thức nó trong mối quan hệ giữa các sự vật .Trong mối quan hệ cụ thể thường bộc lộ ra một thuộc tính ( một khía cạnh về chất ) của sự vật . Do vậy,để nhận thức được nhận thức được chật với tư cách là sự tổng hợp của tất cả các thuộc tính vốn cócủa sự vật đó , chúng ta phải nhận thức sự vật trong tổng hoà các mối quan hệ có thể có giữa sự vật đóvới các sự vật khác. Mỗi sự vật có vô vàn thuộc tính , mỗi thuộc tính của sự vật lại có một tổng hợp những đặctrưng về chất của mình , nên khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất . Điều đó cũng có nghĩa ,mỗi sự vật có vô vàn chất . Cho nên khi diễn đạt tính không thể tách rời giữa chất và sự vật cũng nhưngtính nhiều chất của nó , Ăngghen đã viết :” những chất lượng không tồn tại , mà những sự vật có chấtlượnh hơn nữa , những sự vật có vô vàn chất lượng mới tồn tại Tr ieu le.vn - - - TÍNH TẤT YẾU Ở VIỆT NAM TRÊN CON ĐƯỜNG LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI, BỎ QUA CHẾ ĐỘ TƯBẢN CHỦ NGHĨALời nói đầuKhẳng định đất nước Việt Nam chúng ta bước vào thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội sauchiến thắng vĩ đại của dân tộc trong công cuộc giành độc lập, giải phóng đất nước (Miền Bắc năm1954,cả nước 30/4/1975) là sự tiếp nối bước phát triển không ngừng của cách mạng Việt Nam trên cơsở vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mac-Lênin vào những quốc gia thực hiện quá trình Cách Mạng dânchủ để thoát khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, phong kiến. Ngọn cờ độc lập dân tộc và ChủNghĩa Xã Hội đã huy động được sức mạnh to lớn của toàn dân, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộrộng rãi của quốc tế, tiêu biểu là sự ủng hộ giúp đỡ to lớn của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa. Sức mạnhcủa dân tộc được nhân lên cùng sức mạnh của thời đại đã tạo điều kiện cho dân ta hoàn thành nhiệmvụ Cách Mạng dân tộc dân chủ. Do vậy, bỏ qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa lên Chủ Nghĩa Xã Hội là mộttất yếu trong sự phát triển của dân tộc Việt Nam sau khi thống nhất đất nước. Những quan điểm tuyệtđối hoá cho rằng: phải trải qua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa mới có thể đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội là quanđiểm máy móc, sai lầm! Khi Chủ Nghĩa Xã Hội thế giới lâm vào khủng hoảng, sau những chấn động dữ dội về sự sụp đổcủa Liên Xô, Đông Âu, chính các nước Tư bản cũng nhận định: điều đó chủ yếu là do tự huỷ diệt. Nhưvậy, không phải sự sụp đổ vì lựa chọn con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội, mà chỉ là sụp đổ một bộphận chứ không phải sụp đổ toàn bộ hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa như một số người lầm tưởng! Trongcác nước còn kiên định con đường Xã Hội Chủ Nghĩa với những nhân tố tích cực đang nảy sinh cũngđã khẳng định được khả năng khắc phục sai lầm để nhận thức đúng đắn, chính xác những quy địnhnghiêm ngặt của quy luật phát triển xã hội. Cả những thành tựu to lớn cho nhân loại trước đây lẫn thànhtựu cải cách, đổi mới ở một số nước hiện nay cho phép khẳng định : Chủ Nghĩa Xã Hội là chế độ xã hộitiêu biểu cho sự phát triển tới tương lai của loài người.Trong điều kiện khách quan hiện nay, khả năng thực hiện bước quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội, bỏqua chế độ Tư Bản Chủ Nghĩa còn được thể hiện ở sự tác động có tính chất đặc trưng riêng của cuộcCách Mạng Khoa Học-Kỹ Thuật ngày càng “quốc tế hoá”, xu thế “toàn cầu hoá” các quá trình kinh tế xãhội mở ra một cơ hội mới cho tất cả các nước biết lựa chọn những đối sách ngoại giao đúng đắn, nhấtlà các nước chậm phát triển như Việt Nam tìm kiếm những con đường hợp tác để tiếp cận với trình độvăn minh hiện đại của thế giới mà vẫn giữ được độc lập dân tộc. Những khó khăn, thuận lợi, nhữngđiều kiện khách quan và chủ quan của đất nước và ảnh hưởng của thời đại, tổng kết để rút ra nhữngbài học kinh nghiệm của cải tổ và đổi mới, Đảng ta qua các kỳ Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,VIII,IX, X đã kết luận :” Hướng lựa chọn con đường phát triển đất nước là kiện định theo định hướng Xã HộiChủ Nghĩa”. Kết luận này đã đạt được sự nhất trí của toàn Đảng, toàn dân trước những biến động lịchsử to lớn hiện nay ( Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thể giới WTO, gia nhập thành viên khôngthường trực hội đồng bảo an LHQ…) để thực sự vững tâm tập trung mọi trí lực tiếp tục sự nghiệp đổimới, vì sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên độc lập, thống nhất, hợp tác và hoà bình.Như vậy nghiên cứu đề tài “Vấn đề lựa chọn con đường quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội bỏ quachế độ Tư Bản Chủ Nghĩa ở Việt Nam “ là giúp chúng ta hiểu rõ được quá trình nhận thức và vận dụnghọc thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Đảng ta vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.Nội dungI/ Cơ sở lý luậnTrong học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khái quát các xã hội cụthể trong từng giai đoạn lịch sử nhất định thành phạm trù hình thái kinh tế - xã hội .Hình thái kinh tế xãhội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định,với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lựclượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sảnxuất ấy.Nói đến hình thái kinh tế xã hội là phải gắn với một giai đoạn lịch sử cụ thể, không có hình thái kinh tế xã hội tách rời lịch sử. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu tạo phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, các mặt của hình thái kinh tế xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau, chúng tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển xã hội. Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội này là quá trình lịch sử tự nhiên. Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều hình thái kinh tế xã hội nối tiếp nhau từ công xã nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ, qua phong kiến sang Tư Bản Chủ Nghĩa và tới Cộng Sản Chủ Nghĩa. Trên cơ sở phát hiện ra những quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội Các Mác đã đi đến kết luận : “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xãhội là một quá trình lịch sử tự nhiên “. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống trong đó các mặt không ngừng tác động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động qua lại của các quy luật khách quan này mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao. Và đó là VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI CHUNG, CÁI RIÊNG, CÁI ĐƠN NHẤT PHÂN TÍCHMỘT VÀI NÉT VỀ THẾ HỆ NGƯỜI VIỆT TRẺLỜI NOI ĐẦU Trong mọi thời đại , mọi xã hội , thế hệ trẻ luôn được coi là thế hệ tiêu biểu , thế hệ tương lai củamột đất nước . Thông qua cách sống của họ người ta có thể đánh giá được hướng phát triển của đấtnước ấy . Vậy thì giới trẻ của chúng ta bây giờ như thế nào ? Họ là ai ? Đó là những người rất trẻ , bâygiờ chúng ta thường dùng một cụm từ để gọi họ : thế hệ 8X . Trong số họ , người trẻ nhất mới có 18 ,19 tuổi ; họ sinh năm 1987, 1986 đang học năm thứ nhất và già nhất có thể sinh năm 1983 hoặc 1982,1981, 1980. Nói chung họ chính là những sinh viên đang ngồi trên giảng đường ĐH hoặc vừa mới ratrường . Họ là con trai. Họ là con gái. Họ là những hạt giống của đất nước. Không phải hạt giống nàocũng tốt , nghĩa là trong số họ không phải ai cũng hoàn hảo cả. Họ có cả những ưu điểm , cả nhữngkhuyết điểm .Vấn đề là họ thấy điều đó và đang cố gắng hoàn thiện bản thân bởi vì họ chính là ngườisẽ gánh vác tương lai của đất nước . Để thấy được họ , để biết họ là ai và đang sống như thế nào ,chúng ta không thể chỉ nhìn vào phần nổi trên báo chí hay qua một vài cá nhân . Vì phần đông trong sốhọ không phải là ca sĩ , người mẫu và giảng đường , cuộc sống lại càng không phải sân khấu . Đơngiản để thấy họ thì phải là chính họ , phải nhìn họ bằng sự tin tưởng . Hãy xem so với những ngườithuộc thế hệ cũ trước đây , họ đã tiến bộ như thế nào , họ còn thiếu sót những gì . Với tư cách là một công dân của thế hệ trẻ hiện đại và sau khi tìm hiểu thêm qua tài liệu , sáchbáo ; cũng như được sự hướng dẫn của cô giáo , em xin trình bày bài viết :“ Vận dụng cặp phạm trù cái chung , cái riêng , cái đơn nhất ; phân tích một vài nét về thế hệ người Việt trẻ “ Bài viết của em gồm 2 phần : Phần I : Một số căn bệnh của người Việt trẻ hiện nay Phần II : Thế hệ người Việt trẻ thông minh , năng động và sáng tạoNÔI DUNGPhần I : Một số căn bệnh của người Việt trẻ hiện nay Thế hệ 8X luôn được coi là một thế hệ mới mẻ , tích cực ; 1 thế hệ luôn biết sống khác , nghĩ khác và làm khác . Họ năng động và tràn trề nhiệt huyết . Tuy thế , họ chưa hẳn đã chia tay hoàn toàn với những “tật bệnh” của người Việt trẻ nói chung .1) “Bệnh” sợ dẫn đầu * Ý nghĩa phương pháp luận- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải coi trong qua trinh tích lũy những thay đổi về lượng, , nếu không coi trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất do đó muốn thay đổi về chất thì cần có bước đi, cách làm thích hợp tích lũy tuần tự về lượng, đồng thời phải có thái độ kháchquan và quyết tâm thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.- Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy.- Chống lại quan điểm hữu khuynh: bảo thủ, trì trệ, ngại khó ngại khổ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy.- Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi điều kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời.- Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mô phát triển về lượng cho thích hợp, không được bảo thủ, dừng lại3. phải có thái độ khách quan khoa học trong thực hiện bước nhảy - Quy luật tự nhiên tự thực hiện - Quy luật xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức và con người, vì thế bước nhảy trongxã hội còn thuộc vào nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan còn phải xác định đúng quy mô, nhịp độ bước nhảy, chống chủ quan duy ý chí. Ví dụ: Bác Hồ lập TNCM đồng chí hội, đảng cộng sản và mặt trận Việt Minh à việt nam tuyên truyền giải phóng quân à quân đội nhân dân việt nam ĐẢNG TA ĐÃ VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG VÀ CHẤT NHƯ THẾ NÀO TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC" Trước tiên tôi có thể khẳng định rằng trong Triết học không có Quy luật "lượng chất" mà chỉ có "Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại". Nếu đúng là quy luật này thì câu trả lời của bạn cần được trả lời như sau:1. Nội dung quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.- Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của 2 mặt chất và lượng và chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: chất, lượng, thuộc tính, độ, điểm nút, bước nhảy để diễn đạt mối quan hệ giữa chất và lượng trong sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng – cách thức vận động, phát triển.2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng+ Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và lượng tồn tại trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy, khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chấtcũ, sự vật mới ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, pháttriển.+ Sự tác động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp độ và mức độ phát triển mới của lượng.4. Sự vận dụng của Đảng.Đảng ta đã vận dụng quy luật này một cách sáng tạo, tiêu biểu và rõ ràng nhất là cuộc cách mạng thángTám năm 1945 - đó là xây dựng một xã hội mới dân chủ, tiến bộ để thay đổi xã hội Phong kiến đã mục nát và lỗi thời.Trong những năm đổi mới, trong hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn Đảng ta đã vận dụng tổng hợp tất cả các quy luật một cách đầy đủ, sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể của dân tộc đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, củng cố địa vị trên trường quốc tế và bước đầu đã gặt hái được những thành quả đáng mừng như: gia nhập phiên chợ toàn cầu WTO, Thành viên không thường trực Đại hội đồng Liêp hợp quốc và phấn đấu đến năm 2020 nước ta sẽ cơ bản là một nước công nghiệp.Đất nước có nở hoa hay không là do tay tôi, tay bạn vun trồng. "Đừng hỏi Tốc quốc đã làm gì cho ta, mà cần hỏi ta đã làm gì cho tổ quốc hôm nayLƯợNG VÀ CHấT ĐƯợC THể HIệN RA MặT XÃ HộI DƯớNG DạNG TRÌNH Độ PHÁT TRIểN CủALựC LƯợNG SảN XUấT (LƯợNG) VÀ QUAN Hệ SảN XUấT (CHấT).Vì vậy trong các văn kiện Đại Hội Đảng 6, 7, 8, 9, 10 đều có nói đến: "Từng bước cải tạo quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Do đó muốn xây dựng quan hệ sản xuất XHCN thì cần đẩy mạnh lực lượng sản xuất do CNTB xây dựng phát triển đến mức cực đại. Khi đó quan hệ sản xuất TBCN sẽ bị lạc hậu và thay thế bằng quan hệ sản xuất XHCN. Ví dụ : cổ phần hóa để các công ty TBCN phát triển mạnh mẽ nhưng sẽ dẫn đến tập thể hóa, xãhội hóa về vốn, quản lý, phân phối tức là đang hướng đến quan hệ sản xuất XHCN. Hiểu được quy luật đó thì không cần nóng vội mà dẫn đến sai lầm như Đảng đã mắc phải ở những năm 80-85 mà đến 86 mới nhận ra.Cứ phân tích theo hướng đó.Tham khảo thêm các văn kiện của Đảnglượng phải được biến đổi, tích lũy dần dần thì đến khi đủ độ, lượng ấy sẽ thực hiện bước nhảy thành 1 chất mới. Bài học đối với nước ta là không được chủ quan, nóng vội khi đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưg cũng không được buông lỏng quản lí dẫn đến tích lũy ồ ạt, khi đó, chất mới sinh ra sẽ phản tác dụng 1- Về mặt Tự nhiên:Một cây bắp chẳng hạn, khi đã tích lũy đủ chất dinh dưỡng và đủ lớn (tức là đã đủ lượng) có được cờ bắp, râu bắp. Khi đó, cần có sự thụ phấn giữa hạt phận và cơ quan sinh sản cái thì nó sẽ hình thành nên hạt bắp. Quá trình thụ phấn chính là bước nhảy của cây bắp. Kể từ khi còn là hạt bắp: khi hạt nảy mầm, nó phủ định lại hạt chưa nảy mầm, cây bắp phủ định hạt bắp đã nảy mầm, trái bắp phủ định câybắp Vậy cây bắp là phủ định của phủ định, và các giai đoạn khac cung thế nó cung là phủ định của phủ định cái khác. 2- Về mặt Tư duy:Trong giai đoạn bạn học tiểu học chẳng hạn: quá trình học của bạn là quá trình tích lũy dần về lượng. Khi bạn học lớp 5, sự tích lũy này đã đạt được đủ lượng cần thiết, chỉ cần bạn thực hiện một bước nhảy (thi tốt nghiệp) thành công nữa là bạn trở thành học sinh THCS, đây là sự thay đổi về chất. Và khi bạn đã là một học sinh cấp 2, có sự khác biệt lớn đối với học sinh cấp 1, thì chính bạn đã phủ định lại cấp 1 .Mà trước đó, khi bạn bước vào học cấp 1 (tiểu học thì bạn đã phủ định cấp mẫu giáo Vậy xét trong phạm vi từ mẫu giáo đến cấp 2 thì : cấp một phủ định mẫu giáo, câp 2 phủ định cấp 1, do đó cấp 2 là sự phủ định của phủ định. 3- Về mặt xã hội:Khi giai cấp phong kiến nắm quyền, trong nội tai của xã hội phong kiến đã có sự tích lũy tư bản của các địa chủ, thương gia. Đó chính là sự tích lũy về lượng. Một khi lượng đã được tích lũy đủ thì giai cấptư sản sẽ thực hiện bước nhảy đó chinh là cuộc cách mạng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến. Đó là quá trình tích lũy dần về lượng, khi đã đủ lượng thì thực hiện bước nhảy để dẫn đến sự thay đổi về chất. Và khi chính quyền Tư sản đã thanh lập nó đã phủ định chính quyền phong kiến. Mà trước đó chế độ phong kiến đã phủ định chế độ chiếm hữu nô lệ. Vậy TBCN chính là cái phủ định của phủ định.Tiểu luận: Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại-Quan hệ lượng và chất. MỞ ĐẦUTrong đời sống hàng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm “quy luật”. Với tư cách là phạm trù của lý luận nhận thức, khái niệm “quy luật” là sản phẩm của tư duy khoa học, phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng. Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc tự ý xoá bó được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn. Quy luật “từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại” là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động, phát triển. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Nếu nhận thức không đúng quy luật này sẽ dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận sự tích luỹ về lượng, muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi vượt quá giới hạn độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất. Nước ta đang quá độ lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, việc nhận thức đúng đắn quy luật lượng- chất sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình hình thành và phát triển kinhtế thị trường định hướng XHCN. Trong phạm vi của tiểu luận này, tôi xin được trình bày nhứng cơ sở lý luận chung về nội dung của quy luật lượng- chất, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức quy luật này, sự vận dụng quy luật này để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam."Phân tích nội dung qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Việc nhận thức và vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn của anh chị vào trong hoạt động thực tiễn" Kết cấu của tiểu luận gồm 3 phần:Phần mở đầuPhần I: Những vấn đề lý luận của quy luật, từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.Phần II: Vận dụng vào quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam.Phần Kết luận.Do trình độ nhận thức về vấn đề này nên tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những nhận xét góp ý của cô giáo.PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT TỪ NHỮNG THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ tính chất và cách thức của sự phát triển.1- Các khái niệm2- Nội dung quy luật từ những thay đổi dần về lượng dấn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vậtmới ra đời thay thế. Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn định. Do đó sự phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới. Nội dung duy luật này được phát biểu như sau Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật mới, chấtmới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng.Điều cần chú ý là: -Quy luật này chỉ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất và lượng hoàn toàn xác định, mối quan hệ này hình thành một cách khách quan chứ không thể gán ghép một cách tuỳ tiện. đồng thời sự chuyển hoá lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc vào những điều kiện nhất định. -Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa tiến hoá và cách mạng. Trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến hoá, còn sự thay đổi về chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn bị cho cách mạng. Trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội chưa có sự thay đổi căn bản về chất, còn cách mạng là kết quả của quá trình tiến hoá, chấm dứt một quá trình này, mở ra một quá trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế. Cách mạng xã hội là phương thức thay thế xã hội này bằng xã hội khác, bạo lực là hình thức cơ bản của cách mạng.3- Ý nghĩa phương pháp luận -Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích luỹ về lượng,nếu không coi trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất. -Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mô phát triển về lượng chothích hợp, không được bảo thủ, dừng lại -Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận tích luỹ về lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là thì ngược lạikhi lượng biến đổi đãtới vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất. CHAT VA LUONG 5.3. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng Mỗi sv là sự thống nhất hữu cơ giữa hai mặt chất và lượng, chúng không tách rời nhau. Mọi sự biến đổi trong thế giới bao giờ cũng bắt nguồn từ sự thay đổi về lượng. Biến đổi về lượng diễn ra trong độ, theo cách tăng dần hoặc giảm dần. Độ là khoảng giới hạn mà ở đó vị trí biến đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi căn bản về chất. Mọi cái đều có độ của: bao nhiêu tuổi, nặng bao nhiêu ký, cao bao nhiêu, một ôtô sức tải bao nhiêu, nặng bao nhiêu? Tốc độ bao nhiêu, tồn tại bao nhiêu năm Sựbiến đổi về lượng tới hết hạn độ của nó thì dẫn ra sự thay đổi về chất của sv: già néo -> đứt dây, con giun xéo lắm củng quằn, quá tải tkinh ->tkinh, ăn uống làm việc có độ, huy động sức dân quá mức à biểu tình. Điểm nút: thời điểm xảy ra bước nhảy gọi là điểm nút. Ở đó bất kỳ sự thay đổi về lượng nào cũng dẫn tới sự thay đổi về chất, chất cũ à chất mới, xảy ra sự đứt đoạn của sự tiến triển về lượng Đặc điểm quá trình lượng đổi: là diễn ra từ từ, dần dần, từ ít đến nhiều, thấp đến cao, hẹp đến rộng, thường khó phát hiện, khó dự báo kết quả cuối cùng. Ví dụ một đống ta lấy một hạt à hạt, nhặt tóc à hói (vợ già nhặt tóc xanh, vợ trẻ nhặt tóc trắng, miệng ăn núi lở, có công mài sắt có ngày nên kim, mưa dầm thấm lâu, không có việc gì khó chỉ sợ lòng không bền. . . ., cho hút à nghiện, ăn cắp quả trứng à con bò, trứng à gà à heo à bò. Sv mới ra đời lại quy định 1 lượng mới phù hợp với nó, là lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến điểm nút lại xây ra bước nhảy mới. Cứ như vậy. . . tạo ra đường nút vô tận lên cho sv mới luôn ra đời thay thế sv cũ. Lưu ý: Có những biến đổi về lượng dẫn ngay đến sự thay đổi về chất: nguyên tử mất e thì biến thành ion, các chất phóng xạ bắn ra các hạt anpha, bêta đều tạo ra thành chất mới. - Có những biến đổi về lượng chưa dẫn ngay đến những biếnđổi về chất. 5.4. Chiều ngược lại của quy luật Chất mới ra đời lại quy định một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất giữa lượng và chất mới. Lượng mới lại thay đổi với quy mô và nhịp điệu mới. Ý nghĩa phương pháp luận 1. Mọi sự thay đổi đều từ sự thay đổi về lượng, do đó muốn thay đổi về chất thì cần có bước đi, cách làm thích hợp tích lũy tuần tự về lượng, chống tư tưởng nôn nóng, tả khuynh đốt cháy giai đoạn, muốn nhảy vọt ngay về chất mà không chú trọng tích lũy về lượng (năng nhặt chật bị, nước chảy đá mòn, kiến tha lâu . . .) Ví dụ: Bác Hồ lập TNCM đồng chí hội, đảng cộng sản và mặt trận Việt Minh à việt nam tuyên truyền giải phóng quân à quân đội nhân dân việt nam 2. cần khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trì tuệ ngại khó ngại khổ, không phải thực hiện bước nhảy khi lượng đã được tích lũy đầy đủ 3. phải có thái độ khách quan khoa học trong thực hiện bước nhảy - Quy luật tự nhiên tự thựchiện - Quy luật xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức và con người, vì thế bước nhảy trong xã hội còn thuộc vào nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan còn phải xác định đúng quy mô, nhịp độ bước nhảy, chống chủ quan duy ý chí. VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAYChương I : TÌM HIỂU VỀ QUY LUẬT 1- Khái niệm về quy luật1.1. Định nghĩa : QUY LUẬT là một phạm trù dùng để chỉ mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong một sự vật nào đó, hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.1.2- Phân loại quy luật1. Theo lĩnh vực tác động : 1.1. Quy luật tự nhiên (tồn tại khách quan trong tự nhiên, trong cơ thể con người, nhưng không phụ thuộc vào ý thức của con người). 1.2. Quy luật xã hội (là quy luật hoạt động của chính con người có ý thức, song không phụ thuộcvào ý thức của con người). 1.3. Quy luật tư duy (là quy luật nội tại giữa các khái niệm, phán đoán để biểu đạt của con ngườivề thế giới khách quan).2. Theo mức độ phổ biến : 2.1. Quy luật riêng (là những quy luật chỉ tác động trong môt phạm vi nhất định của các sự vật, hiện tượng cùng loại : quy luật vận động cơ giới, quy luật vận động hoá học,…). 2.2. Quy luật chung (là những quy luật mà phạm vi tác động rộng hơn quy luật riêng : quy luật bảo toàn năng lượng, bảo toàn khối lượng tác động trong cả quá trình vận động cơ giới, vận động hoá học, vận động sinh học. 2.3. Quy luật chung nhất hay quy luật phổ biến (là những quy luật tác động trong cả lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy). Đây chính là những quy luật của phép biện chứng duy vật. Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến, tác động trong tất cả các lĩnh vực : tự nhiên, xã hội va tư duy của con người.2- NHỮNG QUY LUẬT CỦA LOGIC BIỆN CHỨNG a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật, hiện tượng đều tồn tại trong những mối liên hệ,tác động lẫn nhau. b. Nguyên lý về sự phát triển: Mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong sự vận động,biến đổi và phát triển.• Quy luật 1: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thayđổi về chất và ngược lại • Quy luật 2: Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. • Quy luật 3: phủ định của phủ định. CHƯƠNG II : QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong những quy luậtcơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ tính chất và cách thức của sự phát triển.1- Các khái niệm 1.1 - Khái niệm về chấtChất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc tính và đặc điểm cấu trúc của sự vật. Tính quy định là cái vốn có của sự vật, hiện tượng để phân biệt sự vật này vớisự vật khác. Tính quy định này được thể hiện thông qua các thuộc tính. Có thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật. Nếu thuộc tính cơ bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc tính không cơ bản thì trong quá trình tồn tại của sự vật, có những thuộc tính khôngcơ bản mới nảy sinh vàcó những thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật không thay đổi.Thuộc tính chỉ bộc lộ thông qua quan hệ với sự vật khác.Trong sự vật, hiện tượng, chất không tách rời với lượng 1.2 - Lượng của sự vậtLà tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô, tốc độ, trình độ phát triển của sựvật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp v v đo bằng các đại lượng cụ thể, bằng số tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác.Ví dụ tốc độ của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, một nước có 50 triệu dân v v 1.3- Khái niệm về ĐộĐộ là giới hạn mà trong đó lượng biến đổi chưa gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật vẫn là nó, mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong một độ thích hợp khi lượng biến đổi vượt quá giới hạn độ thì sựvật không còn là nó.Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng tác động qua lại lẫn nhau làm cho sự vật vận động. Mọi sự thay đổi về lượng đều có ảnh hưởng đến trạng thái chất của sự vật, nhưng không phải những thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến thay đổi về chất. Chỉ trong trường hợp khi sự thay đổi về lượng đạt tới mức phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật mới thay đổi, sự vật chuyển thành sự vật khác. 1.4-Điểm nút Là điểm mà tại đó lượng biến đổi đã gây nên sự thay đổi căn bản, tập hợp những điểm nút gọi là đường nút. 1.5-Bước nhảySự thay đổi căn bản về chất, cái cũ mất đi cái mới ra đời phải thông qua bước nhảy.Bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự biến đổi căn bản từ chất sự vật này sang chất của sự vật khác.+ Bước nhảy đốt biến là bước nhảy xảy ra trong thời gian ngắn làm thay đổi bản chất của sự vật. Bước nhảy này diễn ra bằng một sự bùng nổ mãnh liệt. Ví dụ: Cách mạng tháng Mười Nga là một bước nhảy đột biến.+ Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện bằng việc loại bỏ dần những yếu tố, những bộ phậnchất cũ xảy ra trong một thời gian dài mới loại bỏ hoàn toàn chất cũ thành chất mới. 2- Nội dung quy luật từ những thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại.Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự phát triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được tích luỹ lại khi vượt quá giới hạn độ tới điểm nútthì thì gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập vốn có của sự vật hiện tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn định. Do đó sự phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì chất đó lại quy định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ, nhịp điệu phát triển mới. Nội dung quy luật này được phát biểu như sauMọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát triển bằng cách thay đổi dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển không ngừng của mọi sự vật, hiện tượng. Điều cần chú ý là:-Quy luật này chỉ được thể hiện trong mối quan hệ giữa chất và lượng hoàn toàn xác định, mối quan hệnày hình thành một cách khách quan chứ không thể gán ghép một cách tuỳ tiện. đồng thời sự chuyển hoá lượng và chất bao giờ cũng phụ thuộc vào những điều kiện nhất định.-Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa tiến hoá và cách mạng. Trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến hoá, còn sự thay đổi về chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn bị cho cách mạng. Trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội chưa có sự thay đổi căn bản về chất, còn cách mạng là kết quả của quá trình tiến hoá, chấm dứt một quá trình này, mở ra một quá trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ xãhội mới ra đời thay thế. Cách mạng xã hội là phương thức thay thế xã hội này bằng xã hội khác, bạo lựclà hình thức cơ bản của cách mạng. 3- Ý nghĩa phương pháp luận-Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích luỹ về lượng, nếu không coi trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất.-Quy luật này có chiều ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô lượng mới. Cho nên khi chất mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mô phát triển về lượng cho thích hợp, không được bảo thủ, dừng lại-Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là phủ nhận tích luỹ về lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là thì ngược lạikhi lượng biến đổi đã tới vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi căn bản về chất. CHƯƠNG III : VẬN DỤNG QUY LUẬT LƯỢNG CHẤT TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong trường Đại học như sau:- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên chúng ta cũng sẽ không thể nằm ngoài điều đó. Để có một tấm bằng Đại học chúng ta phải tích lũy đủ số lượng các học phần và để học phần có kết quả tốt chúng ta cần phải tích lũy đủ sống lượng đơn vị học trình của các môn học. Như vậy các kỳ thi có thể coi thời gian học là độ, các kỳ thi là các điểm nút và kết quảkỳ thi đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi kết quả kỳ thi tốt - bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn tích lũy tri thức trong quá trình học tập rèn luyện của chúng ta.Do đó, trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng (tri thức) để làm biến đổi về chất (Kết quả học tập) theo quy luật. Cũng như trong hoạt động của mình ông cho ta chẳng thường có câu "tích tiểu thành đại". "năng nhặt, chặt bị" đó sao?Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Quy luật này giúp chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hằng ngày.

Video liên quan

Chủ đề