Vai trò của Mặt trận Việt Minh đời với cách mạng Tháng 8

Phát huy vai trò của Mặt trận Việt minh trong cách mạng tháng Tám - khơi dậy các nguồn lực dân tộc phục vụ công cuộc đổi mới

18/08/2021 | 2670

Mặt trận Việt Minh - biểu tượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

(ĐCSVN) - Ngày này 80 năm trước đây, Mặt trận Việt Minh ra đời (19/5/1941), nhằm mục đích hiệu triệu nhân dân, đánh thức tinh thần dân tộc, tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới vào thực hiện nhiệm vụ giải phóng quốc gia, dân tộc.

Ngày 28/01/1941, sau 30 năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc về nước. Tháng 5/1941, Người triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (khóa I) của Đảng ở Khuổi Nậm, Pác Bó (Cao Bằng), quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng - khẳng định giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Khẩu hiệu của Việt Minh kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minhvà đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp.Ảnh tư liệu

Để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phải vận dụng phương pháp hiệu triệu hết sức thống thiết, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc cho nhân dân, nên Mặt trận không thể gọi như trước mà phải dùng tên khác phù hợp hơn với nhiệm vụ cách mạng giai đoạn hiện tại. Bởi vậy, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh nhằm tập hợp và đoàn kết rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, tôn giáo, các giới… vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng.

Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh ra đời thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận dân tộc của nước mình. Mặt trận Việt Minh lấy lá cờ đỏ có ngôi sao vàng năm cánh làm huy hiệu, khẩu hiệu chính là: phản Pháp - kháng Nhật - liên Hoa - độc lập.

Về tổ chức: Mặt trận Việt Minh được tổ chức theo hệ thống từ Trung ương đến cơ sở: Ở cấp xã có Ban Chấp hành Việt Minh do các đoàn thể Việt Minh ở làng hay xã cử ra; ở cấp tổng, huyện (hay phủ, châu, quận), tỉnh, kỳ có Ban Chấp ủy Việt Minh của mỗi cấp tương ứng; ở cấp toàn quốc có Tổng bộ Việt Minh.

Về chủ trương: Mặt trận Việt Minh liên hiệp hết thảy các từng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành quyền độc lập cho xứ sở; giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh để cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng nǎm cánh làm lá cờ toàn quốc.

Tháng 10/1941, Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ, thể hiện chủ trương cứu nước của Đảng: “Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”. Chương trình của Việt Minh được tóm tắt thành “Mười chính sách của Việt Minh” và phổ biến trong nhân dân. Đây là lần đầu tiên một Mặt trận Dân tộc Thống nhất trình bày công khai đường lối, chính sách, phương pháp tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu nước của mình.

Để chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa đánh đuổi Nhật - Pháp, Việt Minh triển khai công tác tuyên truyền mạnh mẽ. Uy tín của Việt Minh tăng lên và các tổ chức của Việt Minh phát triển rất nhanh. Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, tại các vùng căn cứ địa cách mạng, công cuộc chuẩn bị mọi mặt để tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền được xúc tiến mạnh mẽ, gấp rút. Đến giữa năm 1945, Việt Minh đã có 5 triệu hội viên. Đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra, với khoảng 5.000 đảng viên, cùng Mặt trận Việt Minh, Đảng đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Hà Nội trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Ảnh tư liệu

Lịch sử đã chứng minh, việc thành lập Mặt trận Việt Minh là một chủ trương hết sức sáng suốt của Trung ương Đảng và Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Mặt trận Việt Minh thể hiện tính sáng tạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhờ có Mặt trận Việt Minh, sau này là Mặt trận Liên Việt, Nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam ruột thịt.

Mặt trận Việt Minh và các hình thức mặt trận sau đó (Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), luôn lấy liên minh công - nông - trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Ở mỗi thời kỳ, tên gọi các hình thức mặt trận có thể khác nhau, song đều là mặt trận dân tộc thống nhất với sứ mệnh tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các dân tộc, tôn giáo, phát huy lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng, ý chí đấu tranh, sự hy sinh và cống hiến của mỗi người, góp phần tạo nên những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Khẳng định những đóng góp của Mặt trận Việt Minh trong công cuộc giành độc lập cho đất nước, nhân kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Mặt trận Việt Minh đã động viên, tổ chức mọi tầng lớp Nhân dân đoàn kết, vùng lên Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, giành độc lập dân tộc, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, nhằm đoàn kết các tầng lớp nhân dân yêu nước, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng, kết hợp tinh thần yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế vô sản, Việt Minh và Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Hội Liên Việt) đã hợp nhất thành một mặt trận dân tộc thống nhất, lấy tên là Mặt trận Liên - Việt. Mặt trận Liên - Việt ra đời là cơ sở quần chúng rộng rãi để bảo vệ Đảng và Nhà nước ta, trở thành trụ cột quan trọng của Nhà nước Dân chủ Nhân dân, tập hợp được sức mạnh to lớn của toàn dân ta, đưa cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta đi đến thắng lợi hoàn toàn”.

Ảnh minh họa: VOV

Suốt 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tổ chức Mặt trận cũng thể hiện rất rõ và thực hiện rất tốt vai trò, vị trí của mình, luôn trung thành với tôn chỉ, mục đích tập hợp các tầng lớp nhân dân thành một khối đoàn kết thống nhất về ý chí và hành động, tinh thần và lực lượng, tạo thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc để hoàn thành những mục tiêu cách mạng cao cả do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.

Trong công cuộc đổi mới, với nhiều hình thức tổ chức và vận động nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã góp phần quan trọng cùng với Đảng và Nhà nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; giải quyết những khó khăn về đời sống, tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy ý chí, sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức trong hệ thống chính trị tuyên truyền, vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, tạo sự thống nhất và đồng thuận trong xã hội; kiến nghị với Đảng và Nhà nước nhiều nội dung quan trọng, góp phần hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ghi nhận những đóng góp to lớn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xứng đáng là tổ chức đại diện của nhân dân, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta".

Thương Huyền

Mặt trận Việt Minh với Cách mạng Tháng Tám 1945

  • 19-05-2021 23:45:00

Năm 1941, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mới. Chiến tranh thế giới lần thứ hai ngày càng quyết liệt, phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa ngày càng mở rộng và dâng cao.

Ở trong nước, phát-xít Nhật, thực dân Pháp ra sức đàn áp, vơ vét làm cho nhân dân ta, kể cả tư sản, địa chủ, trí thức cũng phẫn uất và đẩy họ ngả về phe cách mạng. Thấy rõ hướng chuyển của tình thế, Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người triệu tập Hội nghị T.Ư lần thứ tám để xem xét lại các chính sách của Đảng và nhận định: Căn cứ vào tình hình mới, để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chiến thuật vận động cũng phải thay đổi cho thích hợp, làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân. Do đó, Mặt trận dân tộc phản đế phải đổi thành cái tên khác cho có tính dân tộc hơn.

Theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát-xít Pháp - Nhật lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh. Hội nghị T.Ư lần thứ tám tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất nhưng vẫn nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng đất công, tiến tới thực hiện khẩu hiệu: Người cầy có ruộng. Hội nghị quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và làm cờ của Tổ quốc "khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa". Nghị quyết cũng quy định cụ thể cách tổ chức Việt Minh, cách lãnh đạo Việt Minh, những nội dung về công tác tuyên truyền, công tác đấu tranh và chỉ rõ trong những điều kiện nhất định có thể tiến hành khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Về vấn đề tổ chức các đoàn thể quần chúng, Nghị quyết nêu rõ: Vì chính sách hiện tại là chính sách cứu quốc, cho nên mục đích của các đoàn thể quần chúng cũng nhằm vào việc cứu quốc là chính. Công hội được đổi thành Hội công nhân cứu quốc, Nông hội là Hội nông dân cứu quốc, Đoàn thanh niên phản đế đổi thành Đoàn thanh niên cứu quốc. Nghị quyết cũng yêu cầu thành lập Hội quân nhân cứu quốc, Đoàn nhi đồng cứu vong, Hội văn hóa cứu quốc, Đoàn học sinh cứu quốc.

Ngày 6-6-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc công bố thư Kính cáo đồng bào. Người chỉ rõ: "Dân ta một cổ hai tròng. Đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật" và Người kêu gọi con Lạc cháu Hồng cùng nhau đoàn kết đặt quyền lợi dân tộc cao hơn hết, quyết đánh đổ đế quốc và Việt gian, cứu giống nòi ra khỏi nước sâu, lửa bỏng. Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm. Qua Kính cáo đồng bào, Nguyễn Ái Quốc khơi dậy truyền thống oanh liệt của các bậc anh hùng cứu quốc tiền bối, hô hào lớp người đương thời tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của dân tộc, nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết đánh đuổi bọn xâm lược.

Nghị quyết Hội nghị T.Ư tháng 5-1941 và thư Kính cáo đồng bào của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được vận dụng sáng tạo trong Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ của Việt Minh. Đây là lần đầu, Mặt trận dân tộc thống nhất trình bày rõ ràng đường lối, chính sách, cách thức tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu quốc. Các văn kiện nêu trên của Việt Minh có sức lôi cuốn mạnh mẽ các tầng lớp đồng bào "sĩ, nông, công, thương, binh, phú hào yêu nước, phụ lão thương nòi" tham gia Mặt trận Việt Minh. Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân dân ta là giành độc lập, tự do vì "một là ích quốc, hai là lợi dân".

Mười chính sách mà Việt Minh đề ra gồm chính sách chung cho toàn dân tộc và những chính sách cụ thể đáp ứng lợi ích cho từng giai tầng xã hội. Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thẩy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng sinh tồn… Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thẩy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay, đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật - Pháp để dựng nên nước Việt Nam tự do, độc lập.

Sau khi giành được độc lập, Việt Minh chủ trương: Đối với tư sản: Được tự do kinh doanh, được giúp đỡ mở mang các ngành kỹ nghệ cần thiết. Đối với địa chủ: Quyền sở hữu ruộng đất cần được coi trọng; được khai phá đất hoang. Đối với nhà buôn: Được tự do thông thương; sản nghiệp thương mại được pháp luật bênh vực. Đối với thợ thuyền được hưởng Luật lao động, bỏ các giấy giao kèo nô lệ, lập giấy giao kèo chung giữa chủ và thợ; thợ thuyền già có lương hưu trí, cải thiện chế độ học việc. Đối với dân cầy: Có đủ ruộng cầy; được cứu tế trong những năm mất mùa. Tá điền được giảm địa tô.

Do những chính sách đề ra đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân nên được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, đi theo. Nhờ đó, Việt Minh phát triển nhanh chóng mặc dù bị kẻ địch khủng bố gắt gao.

Cao Bằng trở thành trung tâm của phong trào cứu quốc. Tháng 6-1941, Ban lâm thời Việt Minh Cao Bằng được thành lập, đến cuối năm đã có một số "xã hoàn toàn", "tổng hoàn toàn" thu hút hầu hết lực lượng yêu nước vào các đoàn thể cứu quốc.

Ngày 25-1-1942, Báo Cứu Quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh ra số đầu tiên và phát hành cho khu vực từ Thanh, Nghệ, Tĩnh trở ra. Khắp các địa phương trong toàn quốc, các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh lần lượt được thành lập. Từ năm 1942, thông qua báo chí, sách khổ nhỏ, áp-phích do Việt Minh phát hành và hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong đã phát huy mạnh mẽ thanh thế của Việt Minh trong nhân dân, tạo điều kiện mở rộng cơ sở Việt Minh xuống Thái Nguyên và về xuôi. Cùng với việc chuẩn bị về chính trị và nhân sự, các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu được thành lập và được huấn luyện quân sự.

Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban Thường vụ T.Ư họp tại làng Võng La, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên để quyết định những vấn đề cấp bách. Hội nghị chủ trương ra sức phát triển Việt Minh. Hội nghị thông qua "Đề cương văn hóa Việt Nam" để tập hợp các văn nghệ sĩ và trí thức vào Hội văn hóa cứu quốc, một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Ngày 30-6-1944, Đảng đã giúp một số trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam nhằm tập hợp đông đảo trí thức, sinh viên yêu nước và tư sản dân tộc vào Mặt trận cứu nước. Đảng Dân chủ đã gia nhập Mặt trận Việt Minh.

Tháng 8-1944, Tổng bộ Việt Minh kêu gọi và phát động phong trào "sắm vũ khí đuổi thù chung", phong trào xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Các phong trào nêu trên phát triển mạnh ở vùng núi, trung du đồng thời với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở đồng bằng, nông thôn và thành thị. Không khí cách mạng sôi sục ở mọi miền của đất nước báo hiệu bão táp cách mạng đang đến gần. Ở một số địa phương, nhất là tại các căn cứ địa, quần chúng nôn nóng mong muốn sớm hành động song Trung ương nhận định thời cơ khởi nghĩa chưa chín muồi.

Tháng 10-1944, Bác Hồ có thư kêu gọi đồng bào ra sức chuẩn bị để họp Toàn quốc đại biểu đại hội trong năm 1945, đại biểu cho "tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang", "Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa". Trên cơ sở lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, ngày 22-12-1944, Hồ Chủ tịch ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Nhiệm vụ của đội quân đầu tiên này có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang ở các địa phương trưởng thành và phối hợp hành động với nhau theo phương châm: "Chính trị trọng hơn quân sự, dựa vào dân và động viên toàn dân kháng chiến" càng gây thêm thanh thế và ảnh hưởng của Việt Minh lan tỏa rộng khắp toàn dân.

Đêm 9-3-1945, Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" nêu rõ: Sự khủng hoảng về chính trị hiện nay đã thúc đẩy những điều kiện khởi nghĩa chín muồi. Kẻ thù của dân tộc ta lúc này là Nhật. Khẩu hiệu hành động của chúng ta hiện nay là "đánh đuổi phát-xít Nhật", phát động phong trào kháng Nhật cứu nước, sẵn sàng chuyển sang hình thức Tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện.

Chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương phổ biến đến đâu thì ở đó xuất hiện một cao trào cách mạng. Những cuộc khởi nghĩa từng phần diễn ra đồng thời ở nhiều địa phương, xóa bỏ chính quyền tay sai, lập ra các ủy ban dân tộc giải phóng trước hết là ở miền núi, trung du và một số tỉnh đồng bằng. Các đội tự vệ chiến đấu và các đội tuyên truyền xung phong hoạt động công khai ngay cả ở các thị xã và thành phố nơi có quân Nhật đóng, kêu gọi đồng bào tham gia Việt Minh, đánh Nhật và trừ Việt gian.

Việt Minh kêu gọi "phá kho thóc, giải quyết nạn đói", hàng chục nghìn nông dân vùng lên đấu tranh mạnh mẽ chống phát-xít Nhật và chính quyền bù nhìn. Tại khắp các tỉnh từ miền trung trở ra, quần chúng hăng hái tham gia các Hội cứu quốc - thành viên của Mặt trận Việt Minh. Việt Minh kêu gọi những người Pháp thoát khỏi tay Nhật, hợp tác với Việt Minh đánh Nhật. Tháng 7-1945, Việt Minh đã giải phóng cho những người Pháp bị Nhật giam ở Tam Đảo và giúp họ chạy qua biên giới.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa; đại biểu Tổng bộ Việt Minh Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu đồng bào cả nước.

Trong 15 năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong điều kiện hoạt động bí mật, bị đàn áp, khủng bố tàn bạo, trải qua ba cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, Đảng đã lãnh đạo toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh tổng khởi nghĩa thành công, giành độc lập, tự do cho đất nước.

Vai trò Mặt trận Việt Minh với cách mạng Việt Nam

Đọc bài Lưu

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 họp từ ngày 10 đến 19-5-1941 do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống Pháp - Nhật lấy tên là "Mặt trận độc lập đồng minh" gọi tắt là Việt Minh.

Các đại biểu dự Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Liên Việt chụp ảnh lưu niệm với Bác Hồ​​​​​​.

Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh ra đời, quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Mặt trận và sẽ là cờ Tổ quốc khi giành được chính quyền, thành lập nước Việt Nam độc lập. Tháng 10-1941, Mặt trận Việt Minh công bố tuyên ngôn, chương trình, điều lệ. Nhờ có chủ trương, chính sách rõ ràng, đúng đắn, Mặt trận Việt Minh đã phát triển nhanh chóng từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi. Nhiều hội cứu quốc được tổ chức: Hội Nông dân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc... Các hội cứu quốc đều là thành viên của Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh đã tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân, kể cả tư sản, địa chủ, nhân sĩ yêu nước, trí thức, văn nghệ sĩ... không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc nhằm đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Mặt trận Việt Minh, thông qua hoạt động cách mạng của mình, đã giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần yêu nước và đoàn kết thống nhất toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông... là bài học kinh nghiệm sáng tạo tuyệt vời về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta".

Tháng 8-1945, Đại hội Quốc dân ở Tân Trào thông qua Lệnh khởi nghĩa, lấy cờ đỏ sao vàng - cờ của Việt Minh - làm Quốc kỳ, bài hát “Tiến quân ca” làm Quốc ca; cử ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam. Chỉ trong hai tuần, cuộc Tổng khởi nghĩa đã thành công trong cả nước.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhà nước Việt Nam non trẻ vừa mới ra đời đã phải đứng trước tình thế vô cùng hiểm nghèo như "ngàn cân treo sợi tóc". Ở miền Nam, thực dân Pháp núp dưới bóng quân Đồng Minh vào tước vũ khí quân đội Nhật, nổ súng mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta từ ngày 23-9-1945. Ở phía Bắc, 18 vạn quân Quốc dân đảng Trung Hoa đem theo bọn phản cách mạng Việt Nam thực hiện âm mưu "diệt Cộng cầm Hồ"...Tình hình nghiêm trọng này đòi hỏi phải tăng cường đoàn kết toàn dân, loại trừ chia rẽ, ngăn chặn sự chống đối quyết liệt của các đảng phái chính trị phản động, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh kịp thời đề ra các chủ trương sáng suốt như: tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước; thành lập Chính phủ liên hiệp; Đảng Cộng sản rút vào hoạt động bí mật, mặt khác, tiếp tục mở rộng hơn nữa Mặt trận Dân tộc thống nhất, đưa đến sự ra đời Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là Liên Việt vào ngày 29-5-1946 với mục đích được ghi trong Cương lĩnh: "Đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước và đồng bào yêu nước vô đảng phái, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam: Độc lập - thống nhất - dân chủ - phú cường". Việc thành lập Hội Liên Việt là sự phát triển mới của Mặt trận Dân tộc thống nhất, thu hút thêm nhiều thành viên tham gia như: Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam, nhiều nhân sĩ, địa chủ yêu nước, chức sắc tôn giáo, người tiêu biểu trong các dân tộc thiểu số... mà trước kia vì lẽ này, lẽ khác chưa tham gia Mặt trận Việt Minh.

Thực hiện "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt sát cánh bên nhau xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng, đẩy mạnh mọi hoạt động với mục tiêu chung là kháng chiến thắng lợi... Đến thời điểm này, việc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt trở thành yêu cầu khách quan của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và sự nghiệp cách mạng của Nhân dân ta, nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.

Ngày 3-3-1951, Đại hội toàn quốc thống nhất hai tổ chức mặt trận: Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành một mặt trận lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt). Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mặt trận Liên Việt không ngừng lớn mạnh, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng, xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu thuẫn cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Qua 9 năm kháng chiến chống Pháp, Mặt trận Liên Việt trở thành: "Một trong những trụ cột của Nhà nước dân chủ Nhân dân, là sức mạnh vô biên của cuộc kháng chiến, kiến quốc; là cơ sở quần chúng rộng rãi làm thành một áo giáp vững bền của Đảng để đánh thắng bọn xâm lược và tay sai của chúng".

Học tập kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo và phát huy những thành quả của Mặt trận Việt Minh để tăng cường và đổi mới công tác Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.

P.V

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Video liên quan

Chủ đề