Vai trò của khoa học xã hội đối với phát triển đất nước

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ******************** NGÔ THỊ PHƯỢNG VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRI THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2005 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ******************** NGÔ THỊ PHƯỢNG VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số: 5.01.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Phan Thanh Khôi 2.TS. Trịnh Trí Thức HÀ NỘI-2005 LỜI CAM ĐOAN Đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những kết quả và nội dung trong luận án là trung thực, chưa được công bố ở những công trình nghiên cứu khác. Tac giả Ngô Thị Phượng DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH,HĐH 2. Chủ nghĩa xã hội CNXH 3. Chủ nghĩa tư bản CNTB 4. Giáo sư GS 5. Khoa học xã hội và nhân văn KHXH&NV 6. Nhà xuất bản Nxb 7. Phó giáo sư PGS 8. Phó tiến sĩ PTS 9. Tiến sĩ TS 10. Tiến sĩ khoa học TSKH 11. Thạc sĩ Th.s MỤC LỤC Trang Mở đầu 1 Nội dung 11 Chương 1. Trí thức khoa học xã hội và nhân văn. Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam 11 1.1 Trí thức khoa học xã hội và nhân văn 11 1.2 Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam 30 1.3 Sự nghiệp đổi mới và vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam 56 Chương 2. Thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới vừa qua . 67 2.1 Thành tựu và hạn chế trong thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam 67 2.2 Nguyên nhân thành tựu và hạn chế trong thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam 105 Chương 3. Quan điểm và giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay 129 3.1 Quan điểm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam 129 3.2 Giải pháp phát huy vai trò của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam 144 Kết luận 179 Những công trình nghiên cứu của tác giả đã công bố liên quan đến luận án 182 Danh mục tài liệu tham khảo 183 DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 1.1. Cơ cấu đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam theo lĩnh vực lao động 46 Bảng 1.2. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học 50 Bảng 1.3. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục 50 Bảng 1.4. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý, hoạt động kinh tế - xã hội. 51 Bảng 1.5. Trình độ ngoại ngữ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam 52 Bảng 1.6. Số lượng đề tài khoa học trường Đại học KHXH&NV Hà Nội 55 Bảng 1.7. Tình hình nghiên cứu của đội ngũ trí thức KHXH&NV 55 Bảng 2.1. Số sinh viên/học viên tuyển hàng năm của trường Đại học KHXH&NV Hà Nội 90 Bảng 2.2. Số lượng cán bộ đã qua đào tạo đại học chính trị và cao cấp lý luận chính trị ở hệ thống Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các phân viện 92 Bảng 2.3. Số trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học ở nước ta 93 Bảng 2.4. Số học sinh, sinh viên trong các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học ở nước ta 93 Bảng 2.5. Cơ cấu trình độ của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam so với các ngành khác 117 Bảng 2.6. Nguồn tài chính của các viện nghiên cứu được điều tra 126 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam đang đứng trước yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng hiện nay. Đảng ta đã xác định: "Khoa học xã hội và nhân văn tập trung nghiên cứu những luận cứ cho việc tạo động lực phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới sâu rộng, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đi lên chủ nghĩa xã hội" [44, tr294]. Để hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang đó, đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam sẽ có vai trò ngày càng tăng trong việc cung cấp luận cứ khoa học nhằm xây dựng và phát triển lý luận, tiếp tục đổi mới sâu rộng đất nước; truyền bá tri thức KHXH&NV, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng góp phần xây dựng nền văn hoá mới, con người mới; thực hiện vai trò thẩm định, phản biện, phê bình, dự báo sự phát triển của xã hội. Đặc biệt, đội ngũ này còn có vai trò là lực lượng nòng cốt trên mặt trận chính trị, tư tưởng, góp phần chống nguy cơ chệch hướng XHCN ở nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV là một yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới. Trong sự nghiệp đổi mới vừa qua, đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng khẳng định vai trò to lớn của mình vào thắng lợi sự nghiệp cách mạng của đất nước. Tuy nhiên, trong thực hiện vai trò, đội ngũ trí thức KHXH&NV cũng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt, trước yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới, đang xuất hiện những mâu thuẫn, bất cập đòi hỏi phải giải quyết. Cho nên, việc quan tâm nghiên cứu một cách khoa học để đánh giá thực trạng, phát hiện mâu thuẫn, tìm ra nguyên nhân, trên cơ sở đó, xác định quan điểm chỉ đạo, đề xuất giải pháp cơ bản góp phần 2 phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới cũng là một vấn đề cấp thiết từ thực tiễn đang đặt ra. Việc khẳng định và phát huy vai trò ngày càng tăng của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới không phải là việc làm của riêng bản thân đội ngũ. Điều đó cần có sự quan tâm và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và toàn xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, mặc dù Đảng, Nhà nước đã có những quan điểm chỉ đạo, quan tâm đến đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam, nhưng vẫn còn không ít những đơn vị, tổ chức, các cấp uỷ đảng và một bộ phận trong xã hội chưa nhận thức hết vai trò to lớn của đội ngũ này, để có chính sách, cơ chế, sự đãi ngộ, tôn vinh v.v nhằm phát huy vai trò to lớn của họ đóng góp vào sự nghiệp đổi mới. Do đó, việc nghiên cứu cơ sở khoa học để góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn xã hội quan tâm, tạo mọi điều kiện cho đội ngũ trí thức KHXH&NV ngày càng đóng góp vai trò to lớn của mình vào sự nghiệp đổi mới cũng là một vấn đề có tính cấp thiết đang đặt ra. Với lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Vai trò của đội ngũ trí thức khoa họcxã hội và nhân văn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới ” làm đề tài luận án của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, nhất là từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi mới, việc nghiên cứu về trí thức nói chung và đội ngũ trí thức KHXH&NV nói riêng đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học. Hiện có nhiều công trình, bài viết tiêu biểu, liên quan đến đề tài đã được công bố. Có thể xem xét các công trình đó qua ba nhóm vấn đề sau: Nhóm công trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam, chủ yếu là các luận án TS, PTS và kết quả của các chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước, nghiên 3 cứu trí thức Việt Nam như là một nguồn nhân lực quan trọng của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Công trình đầu tiên mà chúng tôi kể đến, thuộc nhóm vấn đề này là luận án PTS Triết học của Phan Viết Dũng với đề tài: "Vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", bảo vệ năm 1988, tại Học viện Nguyễn Ái Quốc Trung ương (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). Công trình này đã phân tích một cách tương đối rõ về đặc điểm, vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên CNXH theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích sự hình thành của tầng lớp trí thức Việt Nam, đặc biệt là xác định vai trò của họ trong lĩnh vực công tác lý luận, trong ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng - văn hoá) của thời kỳ quá độ ở nước ta. Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả đã đề xuất những vấn đề cần thực hiện để phát huy vai trò của tầng lớp trí thức Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới - giai đoạn đất nước ta bắt đầu thực hiện đổi mới. Tiếp sau là luận án PTS Triết học của tác giả Trần Thước với đề tài: "Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức Việt Nam", bảo vệ năm 1992 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Ở đây, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một phương diện của tầng lớp trí thức Việt Nam là "thế giới quan", nhưng lại là phương diện quan trọng nhất, tạo nên bản chất của người trí thức Việt Nam. Qua công trình này, người đọc không chỉ nhận thấy sự chuyển biến về thế giới quan của tầng lớp trí thức mà còn biết được cả diện mạo của lịch sử cách mạng Việt Nam - yếu tố quyết định đến sự hình thành thế giới quan XHCN của trí thức mới Việt Nam. Kết quả của công trình này cho người đọc thấy rõ tại sao tầng lớp này luôn gắn bó và có những góp quan trọng đến sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở Việt Nam. 4 Cũng trong năm 1992, tác giả Phan Thanh Khôi đã bảo vệ luận án PTS Triết học về “Động lực của trí thức trong lao động sáng tạo ở nước ta hiện nay”, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là công trình nghiên cứu khá công phu với những kiến giải sâu sắc về đặc thù lao động sáng tạo của người trí thức và hệ thống động lực thúc đẩy lao động sáng tạo của họ: động lực lý tưởng - tình cảm, trí tuệ - tinh thần, kinh tế - vật chất. Trên cơ sở đó, tác giả đã nêu những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lao động sáng tạo của trí thức nước ta. Tiếp theo những luận án trên là cuốn sách “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước”, của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. Cuốn sách bao gồm các bài phát biểu của Ông về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Ở đó đã khẳng định trí thức Việt Nam là đại biểu cho đỉnh cao trí tuệ của dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn đổi mới, vai trò của họ ngày càng cần thiết hơn. Đồng thời, cuốn sách cũng cung cấp cho người đọc những quan điểm, chủ trương, chính sách của của Đảng và Nhà nước đối với việc đào tạo, bồi dưỡng, phát huy vai trò sáng tạo của trí thức Việt Nam. Cũng trong năm 1995, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản cuốn “Trí thức Việt Nam - Thực tiễn và triển vọng”, do GS.TS Phạm Tất Dong chủ biên. Đây là kết quả của một đề tài trong chương trình khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995. Ở công trình này, người đọc thấy được những nghiên cứu sâu, rộng về đội ngũ trí thức Việt Nam từ lịch sử đến hiện đại; từ thực trạng (số lượng, cơ cấu, chất lượng) đến tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu và xu hướng phát triển của trí thức Việt Nam. Đặc biệt, công trình đã đề xuất định hướng và chính sách để xây dựng, phát triển trí thức Việt Nam trong giai đoạn CNH,HĐH đất nước. 5 Tiếp theo hướng nghiên cứu trên là cuốn “Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, cũng do GS.TS Phạm Tất Dong chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình này là kết quả của một chương trình khoa học xã hội cấp nhà nước (KHXH.03.09), giai đoạn 1996-2000, là sự tiếp nối của công trình "Trí thức Việt Nam- thực tiễn và triển vọng". Cuốn sách đã trình bày tổng quát những yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước đối với trí thức Việt Nam; làm rõ vai trò quan trọng của họ ở các lĩnh vực: kinh tế - xã hội, sáng tạo văn hoá, giữ vững nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc; phân tích tương đối toàn diện về lịch sử phát triển và thực trạng của trí thức Việt Nam và đề xuất những định hướng chính sách để xây dựng đội ngũ này giai đoạn 2000-2010. Nhìn chung, những công trình trên nghiên cứu các mảng vấn đề khác nhau nhưng đã có sự thống nhất trong nhiều nội dung cơ bản về trí thức và trí thức Việt Nam. Đây là điều thuận lợi và là nguồn tư liệu phong phú, rất bổ ích cho những người quan tâm và nghiên cứu về trí thức sau này. Nhóm công trình về KHXH&NV, chủ yếu là các công trình nghiên cứu của tập thể các nhà khoa học, quản lý trong lĩnh vực KHXH&NV và các bài viết đăng trên các tạp chí: Khoa học xã hội, Triết học, Nghiên cứu lý luận Trước hết là bài viết "Khắc phục sự chậm chễ của khoa học xã hội ở nước ta" của GS.TS Nguyễn Duy Quý tham gia Hội thảo khoa học về "Đổi mới tư duy lý luận dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VI của Đảng", được tổ chức vào năm 1988, tại Học viện Nguyễn Ái Quốc Trung ương. Bài viết đã khái quát sự phát triển của khoa học xã hội nước ta, nêu thành tựu, đặc biệt là những hạn chế, nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến hạn chế của khoa học xã hội trong những năm trước đổi mới. Từ đó, tác giả khẳng định cần thiết và cấp bách phải đổi mới tư duy, tổ chức, đội ngũ cán bộ, phong 6 cách lãnh đạo và công tác khoa học xã hội. Có như vậy, khoa học xã hội mới đáp ứng được yêu cầu của cách mạng nước ta và tiến kịp đà phát triển của thế giới. Thứ hai là cuốn sách “Khoa học xã hội và nhân văn, mười năm đổi mới và phát triển” do GS.TS Phạm Tất Dong chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997. Cuốn sách gồm 2 tập đã cho người đọc những nhận thức phong phú về các lĩnh vực khoa học xã hội, những đóng góp của các lĩnh vực khoa học đó biểu hiện ở việc cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong 10 năm đầu thực hiện đổi mới đất nước. Đặc biệt, công tác quản lý và dịch vụ cho hoạt động khoa học của khoa học xã hội nước ta trong giai đoạn này cũng được đề cập đến khá rõ trong 2 tập sách này. Thứ ba là cuốn “ Khoa học xã hội và nhân văn với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” do PGS.TS Phạm Xuân Hằng chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Đây là kết quả nghiên cứu của tập thể các nhà khoa học đã tổng kết những thành tựu nghiên cứu và đóng góp của KHXH&NV đối với sự nghiệp CNH,HĐH đất nước, thể hiện trên các lĩnh vực như: nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, nông nghiệp, nông thôn… Đồng thời, cuốn sách cũng xác định những vấn đề đặt ra đối với KHXH&NV trong sự nghiệp CNH,HĐH như: đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, vấn đề nguồn lực con người, vấn đề văn hoá, gia đình, hội nhập quốc tế… Thứ tư là cuốn "Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới" và "Tuyển tập Tạp chí Khoa học xã hội" là hai công trình tương đối lớn do TS. Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, đã xuất bản trong hai năm liên tiếp 2003, 2004. Với khối lượng trên 1000 trang mỗi cuốn, các bài viết của các nhà khoa học, lãnh 7 đạo, quản lý ở các viện nghiên cứu, trường đại học trên cả nước (đã đăng lần đầu trên các tạp chí chuyên ngành) được hệ thống lại trên sáu nhóm vấn đề: chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề văn hoá, văn học, ngôn ngữ, vấn đề lịch sử và khảo cổ, vấn đề dân tộc tôn giáo, vấn đề quốc tế và khu vực. Hai cuốn sách này đã cung cấp cho người đọc nhiều tư liệu quý về thành tựu của KHXH&NV trong 15 năm đầu đổi mới đất nước. Ngoài các công trình lớn trên, còn có nhiều bài viết về nhiệm vụ và thành tựu của các lĩnh vực thuộc KHXH&NV ở nước ta, được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Triết học, Tạp chí Khoa học xã hội, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, Tạp chí Khoa giáo, Tạp chí Hoạt động khoa học… Những công trình và bài viết trên là nguồn tư liệu phong phú cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của KHXH&NV những năm qua. Nhóm công trình nghiên cứu về đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam có các công trình tiêu biểu sau: Thứ nhất, luận án tiến sĩ Triết học: “Phát huy tiềm năng của trí thức Khoa học xã hội trong công cuộc đổi mới ở nước ta.” của Nguyễn An Ninh, bảo vệ năm 1999, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Ở đây, tác giả quan niệm: "Tiềm năng của con người là những năng lực, phẩm chất còn tiềm tàng, hoặc chưa bộc lộ ra đầy đủ…" để phân tích, kiến giải sâu sắc về tiềm năng của trí thức khoa học xã hội, những nội dung thể hiện tiềm năng của trí thức khoa học xã hội nước ta: năng lực lao động khoa học, tính tích cực chính trị - xã hội, khả năng tiếp nhận và truyền bá giá trị khoa học. Thực trạng tiềm năng và việc khai thác tiềm năng của trí thức khoa học xã hội nước ta cũng được đề cập đến khá rõ trong công trình này, từ đó, tác giả kiến nghị những giải pháp cơ bản nhằm phát huy tiềm năng của họ. Như vậy, 8 công trình này chủ yếu đề cập đến mặt chất lượng của trí thức khoa học xã hội Việt Nam. Cùng hướng nghiên cứu này, tác giả Nguyễn Đình Minh đã giới hạn phạm vi nghiên cứu của mình ở trí thức KHXH&NV trong Quân đội nhân dân Việt Nam, nhưng không chỉ nghiên cứu những yếu tố chất lượng mà còn đề cập đến số lượng, cơ cấu của trí thức KHXH&NV, tổng hoà các yếu tố đó được thể hiện bằng khái niệm: "Nguồn lực trí thức KHXH&NV". Kết quả nghiên cứu này được thể hiện trong luận án tiến sĩ Triết học với tiêu đề : "Phát huy nguồn lực trí thức khoa học xã hội và nhăn văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay", đã bảo vệ năm 2002, tại Học viện Chính trị Quân sự. Một công trình khác cũng đề cập đến một bộ phận của trí thức KHXH&NV Việt Nam là: "Xây dựng đội ngũ trí thức Khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay", luận án tiến sĩ triết học của Phạm Văn Thanh, bảo vệ năm 2001, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án có phạm vi nghiên cứu hẹp, song cũng chính vì vậy, những nội dung bên trong được đề cập khá sâu sắc, tỉ mỉ về số lượng, cơ cấu, chất lượng và xu hướng biến đổi của đội ngũ trí thức Khoa học Mác - Lênin hiện nay, với rất nhiều số liệu được chọn lọc tỉ mỉ, có tính thuyết phục cao. Luận án cũng đã đề xuất những giải pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ này đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ nghiên cứu và giảng dạy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn chung, các công trình trên, ở các góc độ khác nhau và với những mức độ nhất định, đều có đề cập đến đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam, nhiệm vụ và vai trò của họ trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách độc lập, có hệ thống vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam, những 9 đóng góp và hạn chế của đội ngũ này trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vì vậy, đề tài của luận án không trùng với các công trình đã công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án * Mục đích: Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận và thực trạng việc thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam những năm đổi mới vừa qua, đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ này trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. * Nhiệm vụ: - Làm rõ khái niệm “trí thức KHXH&NV” và vai trò của họ đối với sự phát triển của xã hội. - Phân tích những đặc điểm và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam . - Xác định những vấn đề đặt ra đối với đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam dưới tác động của sự nghiệp đổi mới đất nước. - Đánh giá những thành tựu, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân cũng như xác định mâu thuẫn nảy sinh trong việc thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới vừa qua. - Đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của luận án * Luận án triển khai trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị của Đảng ta về trí thức, về khoa học - công nghệ, về giáo dục - đào tạo Luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan. 10 * Cơ sở thực tiễn của luận án là những tài liệu, số liệu nghiên cứu thực trạng số lượng, cơ cấu, chất lượng của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam và tình hình thực hiện vai trò của họ trong sự nghiệp đổi mới đất nước. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận án Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án này là phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó, chú trọng nguyên tắc kết hợp lịch sử và logíc, phân tích và tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hoá Ngoài ra luận án còn sử dụng một số phương pháp khác: đối chiếu, so sánh, điều tra xã hội học, thống kê để luận giải những vấn đề đặt ra. 6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án. * Đối tượng nghiên cứu là vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là sự nghiệp đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay, về mặt không gian là đội ngũ trí thức KHXH&NV trên phạm vi cả nước. 7. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Làm rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam. - Chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến thành tựu và hạn chế, nêu lên những mâu thuẫn nảy sinh trong thực hiện vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam những năm đổi mới vừa qua. - Luận giải tính khoa học của những quan điểm chỉ đạo và đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam hiện nay. 8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án * Ý nghĩa lý luận: 11 Góp phần luận giải cơ sở khoa học nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. * Ý nghĩa thực tiễn: Có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan đến trí thức KHXH&NV; góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm xây dựng và phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. 9. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung được kết cấu thành 3 chương 7 tiết. 12 NỘI DUNG Chương 1 TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN. ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN VIỆT NAM 1.1 Trí thức khoa học xã hội và nhân văn Trí thức KHXH&NV bao gồm những trí thức hoạt động trong lĩnh vực KHXH&NV. Do vậy, để hiểu về lực lượng trí thức này, cần có quan niệm đúng về trí thức nói chung. 1.1.1 Quan niệm về trí thức Thuật ngữ “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Intelligentia”, nghĩa là sự hiểu biết, sự thông thái, sự thông minh, trí tuệ… Đến nay, thuật ngữ đó được đề cập đến với những nội dung không hoàn toàn giống nhau, nên đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về “trí thức”. Song, những định nghĩa này đều dựa vào một số đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, trí thức là người lao động trí óc phức tạp, sáng tạo Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ lao động của mình tác động vào tự nhiên, nhằm khai thác và cải tạo tự nhiên theo những phương thức nhất định, phục vụ cho nhu cầu của mình. Phương thức mà con người sử dụng để tác động vào tự nhiên trong các thời đại và ngay cả trong một thời đại cũng khác nhau. Họ có thể tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới tự nhiên thông qua lao động chân tay hoặc lao động trí óc. Nói tới trí thức là nói tới hoạt động lao động sáng tạo bằng trí óc. Lao động trí óc là một trong những cách thức mà một bộ phận trong xã hội sử dụng để tác động đến tự nhiên một cách gián tiếp. Lao động trí óc xuất hiện là kết quả của sự phân công lao động trong xã hội và phát triển lực lượng sản xuất. Sự xuất hiện lao động trí óc dẫn đến sự ra đời một tầng lớp lao động đặc biệt trong xã hội - tầng lớp trí thức. Tuy nhiên, lao động trí óc là lĩnh vực 13 tương đối rộng, bao gồm lao động trí óc giản đơn và lao động trí óc phức tạp. Lao động trí óc giản đơn và phức tạp phân biệt với nhau ở mức độ hao phí năng lượng thần kinh trung ương trong quá trình làm việc. Lao động trí óc phức tạp cần sự hao phí năng lượng thần kinh trung ương cao hơn để thực hiện những hoạt động phức tạp của tư duy như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, khái quát hoá, trừu tượng hoá về những sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội thành lý luận, tri thức khoa học mới. Còn lao động trí óc giản đơn chỉ là những hoạt động lặp đi lặp lại nhiều lần và dần dần thành thói quen, phản xạ. Lao động trí óc giản đơn gắn với lao động chân tay, là dạng cao hơn của lao động chân tay. Lao động trí óc giản đơn thường không tạo ra tri thức khoa học mới mà chỉ tạo ra những tri thức kinh nghiệm thông thường. Vì vậy, không phải tất cả những người lao động trí óc đều là trí thức, mà chỉ những người lao động trí óc phức tạp mới có khả năng trở thành người trí thức. Lao động trí óc phức tạp là yếu tố để phân biệt trí thức với những giai cấp và tầng lớp lao động khác trong xã hội. Giữa lao động trí óc và lao động chân tay tuy có sự phân biệt với nhau nhưng không tách rời hoặc đối lập nhau mà có sự thống nhất. Bởi vì, bất cứ hoạt động lao động nào cũng có sự tham gia của đầu và tay con người. Như C.Mác đã nói: Từng người riêng lẻ không thể tác động tới tự nhiên nếu không vận động các bắp thịt của mình dưới sự kiểm soát của bộ não của mình. Cũng như trong hệ thống tự nhiên, đầu và tay gắn với nhau, thì trong quá trình lao động, lao động trí óc và lao động chân tay cũng kết hợp lại với nhau [87, tr.718]. Thứ hai, sản phẩm lao động của trí thức là tri thức khoa học mới Tri thức khoa học liên quan chặt chẽ với tri thức kinh nghiệm, xuất phát từ tri thức kinh nghiệm, nhưng khác về chất so với với tri thức kinh nghiệm. 14 Tri thức kinh nghiệm chỉ phản ánh bề ngoài hoặc từng mặt rời rạc của sự vật, hiện tượng, hình thành từ những hoạt động hàng ngày, lặp đi lặp lại, từ nhận thức cảm tính. Còn tri thức khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, phản ánh những mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức lý tính, bắt nguồn từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm thông qua hoạt động lao động của tầng lớp trí thức - lao động trí óc phức tạp. Sản phẩm lao động của tầng lớp trí thức chính là tri thức khoa học. Sản phẩm này có đặc điểm: tồn tại ở dạng tinh thần, mới, có tính kế thừa nhưng không lặp lại, có giá trị xã hội cao. Vì vậy, lao động của trí thức là lao động mang tính sáng tạo rõ nét. Tri thức khoa học rất đa dạng, phong phú, có thể xem xét ở các lĩnh vực khác nhau: khoa học tự nhiên, KHXH&NV, khoa học công nghệ, khoa học liên ngành. Mỗi lĩnh vực đó lại có nhiều chuyên ngành khác nhau: Toán học, Văn học, Vật lý, Sinh - Hoá, Địa - Vật lý, Địa chính trị, Xã hội học lịch sử, Tâm lý xã hội học, v.v Chúng ta cũng có thể xem xét tri thức khoa học thông qua các loại hình: nghiên cứu cơ bản, ứng dụng hay triển khai. Tri thức khoa học được kết tinh ở nhiều dạng sản phẩm khác nhau: các học thuyết, lý thuyết khoa học, các đề án thiết kế, kế hoạch, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, giáo trình, bài giảng, bài báo, v.v Các dạng sản phẩm, chuyên ngành khoa học trên đều phản ánh sâu một vấn đề của tự nhiên hoặc đời sống xã hội, nên nhiều khi, không thể nhận biết ngay một cách dễ dàng giá trị của các công trình khoa học. Có những công trình hàng nhiều năm sau mới được thừa nhận và ứng dụng vào sản xuất và đời sống… Thứ ba, trí thức là người có trình độ học vấn, chuyên môn cao Để thực hiện được hoạt động lao động trí óc phức tạp nhằm tạo ra những tri thức khoa học mới, trí thức phải là những người có trình độ học vấn và chuyên môn cao. Tuy nhiên, tiêu chí trình độ học vấn để xác định trí thức 15 mang tính lịch sử, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, hoàn cảnh cụ thể, mặt bằng dân trí, nội dung giáo dục của từng quốc gia, dân tộc. Hiện nay, ở nhiều nước nói chung và nước ta nói riêng, trong điều kiện của nền giáo dục hiện đại, tiêu chí để xác định trí thức là từ trình độ cao đẳng trở lên. Với trình độ kiến thức ban đầu như vậy, người trí thức mới có khả năng để thực hiện lao động sáng tạo thực sự. Song, tiêu chí về trình độ, văn bằng mới chỉ là một dấu hiệu để xác định trí thức, chứ chưa đủ để trở thành trí thức. Có những người có trình độ đại học, thậm chí trên đại học, nhưng lao động của họ không đảm nhiệm chức năng của người trí thức - sáng tạo tri thức khoa học, thì cũng chưa phải là trí thức. Ngược lại, có những người không có bằng cấp, chủ yếu là tự học hỏi và từ thực tiễn lại có được lượng tri thức phong phú, có nhiều sáng tạo tri thức mới vẫn có thể coi là trí thức, thậm chí còn là nhà khoa học vĩ đại, như Robert Owen, Phriđrich.Ăngghen, Alfred Nobel, Albert Einstein Ở xã hội Việt Nam, thời phong kiến, phụ nữ không được đến trường, nhưng lại có những nữ trí thức điển hình như: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm… Thứ tư, trí thức tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội Trí thức có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Trí thức góp phần phát kiến những học thuyết, đường hướng chính trị cho sự vận động của một giai cấp, một chính đảng, một quốc gia. Họ là lực lượng chủ chốt trong nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và đưa tiến bộ của khoa học vào sản xuất. Đồng thời, họ còn thực hiện tư vấn, phản biện, giám định xã hội các đề án phát triển kinh tế - xã hội, tham gia hỗ trợ chuyển giao công nghệ, đưa tiến bộ khoa học vào đời sống, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mặt khác, họ là lực lượng chủ yếu duy trì, phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng, phát triển con người. Trí thức còn có trách nhiệm lớn 16 trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu của thời đại, qua đó góp phần làm cho xã hội phát triển bền vững Ngày nay, trí thức là một chủ thể của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đang dần trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế tri thức. Từ những đặc trưng trên có thể quan niệm: Trí thức là một tầng lớp xã hội bao gồm những người lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn và chuyên môn cao, có khả năng sáng tạo tri thức khoa học mới, đồng thời truyền bá, nhất là ứng dụng tri thức này vào thực tiễn, góp phần to lớn đến sự phát triển và trình độ văn minh của nhân loại. 1.1.2 Đặc điểm của trí thức khoa học xã hội và nhân văn Trí thức KHXH&NV là một bộ phận của tầng lớp trí thức, bao gồm những người lao động trí óc phức tạp và sáng tạo trong lĩnh vực KHXH&NV. Từ đối tượng nghiên cứu, đặc điểm của lĩnh vực khoa học này, nên trí thức KHXH&NV có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, trí thức KHXH&NV, ngoài trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu còn cần sự hiểu biết về các lĩnh vực khoa học gần kề, đồng thời phải có vốn sống và sự trải nghiệm thực tiễn nhất định Trí thức KHXH&NV cũng như trí thức nói chung, để thực hiện lao động sáng tạo, cần phải có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu trong lĩnh vực mà mình nghiên cứu. Mặt khác, do đặc điểm của những hiện tượng xã hội - tính hay thay đổi và bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các nhân tố tạo nên các hiện tượng xã hội rất đa dạng và có sự đan xen, thâm nhập vào nhau giữa các lĩnh vực KHXH&NV, nên trí thức KHXH&NV không chỉ cần sự hiểu biết sâu sắc ở lĩnh vực của mình mà còn cần sự hiểu biết rộng rãi ở các lĩnh vực khoa học gần kề. Là nhà Chính trị học không thể không có sự hiểu biết nhất định về Sử học, hay nhà Luật học sẽ không thể làm tốt công việc của mình nếu không có kiến thức về Tâm lý học, Xã hội học, Triết học… Thiếu kiến thức của những 17 khoa học gần gũi, trí thức KHXH&NV không thể lao động ngang tầm để có những phát kiến mới và những công trình có giá trị khoa học cao. Ở nước ta, trong lịch sử, các đại trí thức KHXH&NV của dân tộc như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú…. còn thời đại hiện nay, những chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực này như GS. Đào Duy Anh, GS. Trần Văn Giàu, GS. Nguyễn Khánh Toàn, GS. Đặng Thai Mai… đều là những người am hiểu rộng rãi và sâu sắc ở nhiều lĩnh vực khác nhau của KHXH&NV. Hội tụ những kiến thức đó không thể một sớm một chiều mà là quá trình tích luỹ kiến thức lâu dài, sự kết hợp giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, cộng với vốn sống và sự trải nghiệm thực tiễn - một yếu tố rất quan trọng đối với trí thức KHXH&NV. Vì vậy, so với trí thức ở các ngành khác, đa số trí thức KHXH&NV đạt đến đỉnh cao trong sự sáng tạo khoa học, trở thành những chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành thường ở lứa tuổi đã cao. Bởi khi đó, người nghiên cứu mới có thể có đầy đủ các yếu tố: trình độ học vấn cao, hiểu biết chuyên sâu những lĩnh vực khoa học gần kề, có sự trải nghiệm thực tiễn… làm cơ sở cho sự sáng tạo khoa học. Đối với các khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ thì khác. Một người có trình độ chuyên môn sâu, rộng ở lĩnh vực khoa học của mình và lĩnh vực khoa học gần gũi mà ít có sự trải nghiệm thực tiễn, vốn sống vẫn có thể có những phát kiến, những thành công về mặt khoa học. Vì vậy, lúc chín muồi về khoa học của trí thức ở các lĩnh vực đó thường có độ tuổi trẻ hơn trí thức KHXH&NV. Thứ hai, trí thức KHXH&NV có tính chính trị - xã hội cao hơn và năng động Do sự nổi trội tính chính trị, tính giai cấp của KHXH&NV nên trí thức ở lĩnh vực này là những người có tính năng động chính trị - xã hội cao hơn. Lao động sáng tạo của họ thường liên quan mật thiết đến đời sống chính trị và tư tưởng, phục vụ trước hết cho yêu cầu chính trị và tư tưởng của một giai cấp, một chế độ xã hội nhất định. Không thể có một công trình KHXH&NV chung 18 chung, siêu giai cấp, tồn tại ngoài mà luôn hướng tới giải đáp những vấn đề của đời sống chính trị và tư tưởng. Chính đời sống chính trị và tư tưởng đã đặt ra những vấn đề, yêu cầu trí thức KHXH&NV phải lý giải để tìm ra hướng giải quyết sao cho có lợi cho công tác đó. Nếu không gắn với đời sống chính trị, tư tưởng thì lao động của trí thức KHXH&NV dễ mất phương hướng. Tuy nhiên, không thể đồng nhất hoạt động nghiên cứu của trí thức KHXH&NV với công tác chính trị, tư tưởng. Có những vấn đề đặt ra cho nghiên cứu khoa học nhưng chưa chắc đã áp dụng ngay vào thực tiễn cuộc sống. Có những vấn đề được nghiên cứu với nhiều cách tư duy khác nhau nhằm đem lại sự hiểu biết một cách toàn diện, nhưng khi vận dụng vào thực tiễn lại chỉ có thể chọn một cách phù hợp với mục đích chính trị. Tính năng động chính trị - xã hội của trí thức KHXH&NV thể hiện ở các yếu tố: trình độ nhận thức về chính trị, sự nhạy bén trước những vấn đề chính trị - xã hội, tính tích cực tham gia các hoạt động chính trị - xã hội Do có được vốn kiến thức sâu rộng về xã hội, con người, về những quy luật vận động và phát triển của xã hội, nên trí thức KHXH&NV thường là những người nhạy bén trước những vấn đề chính trị - xã hội. Họ có điều kiện hơn cả trong việc nhận thức và giải quyết các vấn đề đó bằng chính vũ khí lý luận của mình. Nếu trí thức phục vụ cho giai cấp, đảng phái, nhà nước tiến bộ, thì tính năng động chính trị của họ sẽ góp phần tích cực vào sự phát triển của xã hội. Kết quả sẽ ngược lại nếu họ phục vụ cho giai cấp thống trị, bóc lột, vì mục đích phản nhân văn. Họ không chỉ nghiên cứu những vấn đề chính trị - xã hội để cung cấp cơ sở lý luận cho mỗi cuộc cách mạng xã hội, mà còn là những người trực tiếp tham gia giải quyết những vấn đề chính trị - xã hội, hơn nữa, trong đó, có những người đi tiên phong, trở thành lãnh tụ của các phong trào cách mạng. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh, và rất nhiều trí thức KHXH&NV khác là những minh chứng cho phẩm chất đó. 19 Tính năng động chính trị - xã hội là đặc trưng nổi trội của trí thức KHXH&NV so với trí thức ở các ngành khoa học và những người lao động khác. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu hiểu một cách thuần tuý trí thức KHXH&NV là những người chỉ làm chính trị, KHXH&NV là khoa học chính trị. Đồng thời, cũng sẽ không đúng khi cho rằng trí thức KHXH&NV là những nhà khoa học, mà khoa học thì không liên quan gì đến chính trị. Cả hai xu hướng nhận thức này đều dẫn tới thu hẹp vị trí, vai trò của trí thức KHXH&NV. Trí thức KHXH&NV vừa là nhà khoa học, vừa là nhà chính trị (ở đây, nói trí thức là nhà chính trị, không có nghĩa họ đều tham gia lãnh đạo hoặc quản lý xã hội, mà là ở chỗ, từ lao động của mình, họ tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực hệ tư tưởng chính trị). Là nhà khoa học, đòi hỏi họ phải có trình độ tư duy khoa học cao, để tìm ra bản chất, quy luật của những hiện tượng xã hội. Là nhà chính trị, đòi hỏi họ phải có ý thức chính trị, có bản lĩnh chính trị, để bảo vệ cho lợi ích, hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất định. Khi trình độ tư duy khoa học cao kết hợp với mục đích bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, thì trí thức KHXH&NV nhất định sẽ có những cống hiến to lớn cho sự tiến bộ của xã hội. Đó mới thực sự là người trí thức chân chính. Thứ ba, sản phẩm lao động của trí thức KHXH&NV phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan, hệ tư tưởng của tác giả Sản phẩm lao động của trí thức KHXH&NV là tri thức khoa học về xã hội và mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. Hiệu qủa xã hội của sản phẩm này, ở nhiều vấn đề, không thể hiện ra trực tiếp, cụ thể như trong khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ Việc áp dụng và chuyển sang quá trình công nghệ của các kết quả nghiên cứu trong KHXH&NV là rất khó, thậm chí không thể đặt ra yêu cầu đưa vào công nghệ. Hầu hết sản phẩm lao động của trí thức KHXH&NV (trừ một số sản phẩm văn học, nghệ thuật…) đều có đối