Theo P.A. Samuelson tín hiệu trên thị trường là

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối Sau đổi mới kinh tế năm 1986, chính sách giá cả đã có những cải cách tích cực. Nhìn chung, khi bước vào cơ chế thị trường, giá cả được điều tiết theo các quy luật của thị trường như quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh. Giá cân bằng giao động theo các nguyên lý của thị trường trở thành yếu tố tích cực kích thích sản xuất tiêu dùng, phát triển sản phẩm, thị trường, mạng lưới thương nghiệp, bán buôn phát triển Tỷ giá đồng ngoại tệ được thả nổi, kích thích xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, kích thích đầu tư Như chúng ta đã biết, bất kỳ một nền sản xuất nào cũng phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Câu trả lời này chỉ có thể có được thông qua xem xét các mối quan hệ thị trường và yếu tố giá cả thị trường. Có lẽ vì tầm quan trọng đó của giá cả mà hầu như các trường phái kinh tế từ cổ điển đến hiện đại đều cố gắng đưa ra nhiều cách định nghĩa và lý giải khác nhau về giá cả thị trường, để từ đó rút ra những quy tắc chung cho điều hành sản xuất và lưu thông. Việc nắm vững nội dung, quy luật, nguyên tắc hình thành giá cả thị trường có ý nghĩa rất quan trọng trong thực tiễn hoạt động kinh tế hiện nay với mọi quốc gia. Đặc biệt với Việt Nam chúng ta, khi vừa mới gia nhập kinh tế thế giới, dù thời cơ thuận lợi có nhiều song thách thức cũng không ít, trước những biến động phức tạp của tình hình giá cả hiện nay, chúng ta cần có một nhận thức đúng đắn nhằm chỉ đạo hoạt động điều hành giá cả một cách có hiệu quả nhất. Nhận thức điều đó, qua quá trình học tập môn Kinh tế chính trị, em đã có điều kiện nghiên cứu ba thay mặt có nhiều đóng góp tích cực vào lý thuyết giá trị là K. Mác, A. Marshall và P. A. Samuelson. Vì vậy em chọn đề tài “Lý luận giá cả thị trường của Mác, Marshall và Samuelson và sự vận dụng lý luận trên trong việc điều hành giá cả thị trường ở nước ta hiện nay” để trình bày một số ý tưởng của mình. Trong giới hạn thời gian và yêu cầu môn học, em chỉ xin nêu ra những quan điểm tưởng chính của các nhà kinh tế và liên hệ với thực tế công tác điều hành giá cả tại nước ta, qua đó trình bày một số nhận định và kiến nghị một số giải pháp đối với công tác điều hành giá cả hiện nay tại nước ta. Em rất mong nhận được ý kiến góp ý của các thầy cô giáo để bài viết của em được hoàn thiện hơn!Em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNGCơ sở lý luậnLý luận giá cả của MácK. Mác là một trong những người đầu tiên sáng lập ra kinh tế chính trị học Macxit. Lần đầu tiên, ông đã nêu ra đối tượng của kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, mà trước hết là các quan hệ sở hữu và phân phối. Từ xuất phát điểm đó, ông đi nghiên cứu về sản xuất và lưu thông hàng hóa trong xã hội. Trên cở sở phê phán và kế thừa các học thuyết của các trường phái kinh tế trước đó cộng với thiên tài bẩm sinh, Mác đã xây dựng cho mình một học thuyết kinh tế chính trị hoàn bị. Trong đó, thành tựu đầu tiên phải kể đến là phát hiện ra quy luật giá trị - quy luật kinh tế cơ bản của mọi nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.Bằng việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã phân biệt được hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng là công dụng một vật, là thuộc tính tự nhiên của nó làm thỏa mãn nhu cầu nào đó của cong người, còn giá trị là hao phí lao động để làm ra hàng hóa đó. Đặc trưng của giá trị sử dụng là phải được tiêu dùng, thông qua trao đổi hàng hóa. Trong quá trình trao đổi trên thị trường, sự cạnh tranh nội bộ ngành sẽ dẫn tới hình thành giá trị trao đổi hay giá cả. Do vậy giá cả chính là giá trị thị trường của hàng hóa. Mác cho rằng giá trị là cơ sở, là nội dung còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện. Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Giá cả tách khỏi giá trị, vận động xoay quanh trục giá trị. Khi giá trị thay đổi thì giá cả - giá trị trao đổi cũng thay đổi theo.Nghiên cứu nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, Mác đưa ra phạm trù chi phí sản xuất. Trước đây, khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả hàng hóa xoay quanh giá trị hàng hóa. Giờ đây, giá cả hàng hóa sẽ xoay quanh giá cả sản xuất. Trong mối quan hệ này thì giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường, và giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. Lý thuyết giá cả thị trường của MarshallA. Marshall là giáo sư kinh tế chính trị học của trường Đại học tổng hợp Cambridge, nổi tiếng thế giới với lý thuyết giá cả. Nó được tổng hợp từ các lý thuyết chi phí sản xuất, cung cầu, ích lợi giới hạn. Ông cho rằng, thị trường là tổng thể những người có quan hệ mua bán, là nơi gặp gỡ của cung và cầu. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, cơ chế thị trường vận động thể hiện ở sự phụ thuộc của cung cầu vào giá cả, nhưng đồng thời cơ chế này cũng tác động là giá cả phù hợp với cung cầu.Marshall đưa ra khái niệm giá cung và giá cầu. Giá cung là giá cả mà người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất ở mức đương thời, do chi phí sản xuất quyết định. Giá cầu là giá mà người mua có thể mua số lượng hàng hóa hiện tại, được quyết định bởi ích lợi giới hạn, tức là giá cầu sẽ giảm dần khi số lượng cung hàng hóa tăng lên trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Khi giá cung và giá cầu gặp nhau sẽ hình thành giá cả thị trường. Giá cả thị trường là kết quả sự va chạm giữa người mua và người bán, tức là va chạm giữa cung và cầu. Sự va chạm này hình thành giá cả cân bằng.Marshall chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả thị trường. Theo ông, trong ngắn hạn, cung cầu có tác động đến giá cả, còn trong dài hạn thì chi phí sản xuất tác động đến giá cả. Ngoài ra, độc quyền cũng có tác động đến giá cả, vì nhà độc quyền thường giảm sản lượng để nâng giá bán nhằm thu được lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, sự cân bằng giá cả còn chịu ảnh hưởng của độ co giãn của cầu – đó là mức độ phản ứng của cầu trước sự thay đổi của giá…Lý thuyết giá cả của Marshall là cơ sở lý luận của kinh tế học vi mô trong phân tích thị trường, cung cầu và giá cả.Lý thuyết giá cả thị trường của SamuelsonP.A. Samuelson là nhà kinh tế học người Mỹ, tác giả cuốn Kinh tế học nổi tiếng và là người đứng đầu trường phái chính hiện đại với chủ trương điều hành nền kinh tế bằng cả bàn tay nhà nước và bàn tay thị trường. Theo ông, thị trường là một cơ chế tinh vi phối hợp mọi người, mọi hoạt động của doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường. Nó là phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau. Điểm đặc thù nhất của thị trường là thông qua giá cả thị trường để đưa người mua và người bán đến với nhau để xác định giá cả thị trường.Trong nền kinh tế thị trường, mọi thứ đều có giá cả, đó là giá trị của hàng hóa và dịch vụ được tính bằng tiền. Giá cả thể hiện mức mà mọi người và các hãng tự nguyện trao đổi nhiều loại hàng hóa khác nhau. Giá cả hoạt động là một tín hiệu đối với cả người sản xuất và người tiêu dùng. Nếu người tiêu dùng muốn mua nhiều hàng hóa nào đó hơn nữa thì giá hàng hóa đó sẽ tăng và như vậy phát tín hiệu cho người bán sản xuất nhiều hơn. Ngược lại, nếu một hàng hóa không được tiêu

Xem link download tại Blog Kết nối!

Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp (Là tư tưởng trung tâm của kinh tế học trường phái chính hiện đại)

"Nền kinh tế hỗn hợp" là nền kinh tế kết hợp trong đó kinh tế tư nhân và kinh tế Nhà nước, nó được điều hành bởi cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

Nội dung của lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp (được trình bày rõ trong cuốn "Kinh tế học" của P.A.Samuelson), cụ thể là:

1. Ba vấn đề của tổ chức kinh tế

Mọi xã hội, mọi nền kinh tế đều phải đối phó với ba vấn đề:

+ Sản xuất hàng hóa gì? với số lượng bao nhiêu?

+ Sản xuất hàng hóa như thế nào? Ai là người sản xuất, sản xuất bằng nguồn lực nào, sử dụng kĩ thuật sản xuất nào?

+ Sản xuất cho ai? Ai là người được hưởng các thành quả của những nỗ lực kinh tế, hay sản phẩm quốc dân được phân chia như thế nào?

(Do sản xuất của nền kinh tế bị hạn chế bởi các nguồn lực và kiến thức công nghệ, mỗi xã hội dù giàu hay nghèo đều phải lựa chọn).

Trong lịch sử đã có hai phương thức Chính phủ đưa ra hầu hết các quyết định kinh tế

Các quyết định kinh tế đều do thị trường xác định

Cả hai phương thức đều có ưu điểm và hạn chế, không nên tuyệt đối hóa một phương thức nào mà cần kết hợp: cơ chế thị trường và điều tiết của Nhà nước.

2. Cơ chế thị trường

Theo Samuelson, cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế.

Cơ chế thị trường là cơ chế tinh vi, phối hợp một cách không tự giác mọi người, mọi hoạt động và mọi doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả thị trường.

Những đặc trưng của cơ chế thị trường là:

+ Không phải là sự hỗn độn mà là một trật tự kinh tế

+ Là phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải được những bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải nổi (giải quyết những vấn đề sản xuất phân phối).

+ Không ai thiết kế ra, xuất hiện tự nhiên và cũng thay đổi (luôn luôn thay đổi) như xã hội loài người. Không cá nhân hay tổ chức đơn lẻ nào có trách nhiệm sản xuất, tiêu dùng, phân phối hay định giá.

Thị trường: Là cơ chế trong đó người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng hóa hay dịch vụ. Trong thị trường bao gồm:

+ Các yếu tố: hàng hóa, tiền tệ, người bán, người mua, giá cả hàng hóa.

+ Sự hoạt động của giá cả hàng hóa là tín hiệu đối với người sản xuất và tiêu dùng, giá là quả cân trong cơ chế thị trường là biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị.

Quan hệ cung - cầu: Là khái quát của hai lực lượng cơ bản người bán và người mua ở trên

thị trường. Sự biến đổi của giá cả dẫn đến biến đổi cung - cầu.

Cơ chế thị trường chịu sự điều khiển của "hai ông vua" là người tiêu dùng và kĩ thuật (Người tiêu dùng thống trị, điều khiển thị trường nhưng lại bị kĩ thuật hạn chế vì kinh tế không thể vượt qua giới hạn của khả năng sản xuất) Do đó chỉ người tiêu dùng không quyết định được sản xuất cái gì mà còn thêm còn thêm: chi phí sản xuất, các qui định kinh doanh.

Vì thế thị trường đóng vai trò trung gian hòa giải sở thích người tiêu dùng và hạn chế của kĩ thuật.

"Sản xuất cái gì phải do cả chi phí kinh doanh lẫn các qui định cung và cầu của người tiêu dùng quy định" Vì vậy trong khi nghiên cứu không chỉ có vai trò của cầu mà còn có vai trò của cung.

Động lực của cơ chế thị trường là lợi nhuận (Chi phối hoạt động của người sản xuất kinh doanh).

Môi trường của cơ chế thị trường là cạnh tranh.

Cơ chế thị trường không phải lúc nào cũng đưa tới kết quả tối ưu mà có những khuyết tật nhất định, nhiều vấn đề thị trường không giải quyết nổi (độc quyền, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, thất nghiệp, sự phân phối bất bình đẳng). Do đó theo Samuelson cần có sự can thiệp của chính phủ (Nhà nước) để khắc phục các khuyết tật.

3. Vai trò kinh tế của chính phủ

Chính phủ (nhà nước) có 4 chức năng:

+ Thiết lập khuôn khổ pháp luật: đề ra các quy tắc mà doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả chính phủ cũng phải tuân theo. Bao gồm: các quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm hỗ trợ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và các luật lệ để xác định môi trường kinh tế.

+ Sửa chữa, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.

- Can thiệp hạn chế độc quyền (phá vỡ cạnh tranh hoàn hảo, cho phép một cá nhân hay tổ chức đơn lẻ có thể quy định giá cả hàng hóa từ đó làm biến dạng cầu và sản xuất, xuất hiện lợi nhuận siêu ngạch độc quyền và có thể được sử dụng vào những hoạt động vô ích, do đó làm giảm hiệu quả nền kinh tế).

- Can thiệp vào các tác động bên ngoài.

VD: sự ô nhiễm môi trường, sự khai thác bừa bãi tài nguyên...

- Đảm nhiệm việc sản xuất các hàng hóa công cộng: cần thiết, có ý nghĩa quan trọng, mà tư nhân không muốn hoặc không thể sản xuất (quốc phòng, an ninh, ...)

- Thu thuế: để đảm bảo hoạt động của Chính phủ.

+ Đảm bảo sự công bằng: cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến sự phân hóa và bất bình đẳng (Về thu nhập, sự bất công,...) do nhiều nguyên nhân.

- Công cụ quan trọng nhất: Thuế lũy tiến (thu nhập), người có thu nhập cao (giàu) thuế lớn hơn người có thu nhập thấp (nghèo).

- Công cụ thứ hai: Hỗ trợ thu nhập (trợ cấp người cao tuổi, tàn tật, thất nghiệp,...) bằng hệ thống thanh toán chuyển nhượng.

- Công cụ thứ ba: Trợ cấp tiêu dùng cho nhóm người có thu nhập thấp bằng cách phát tem phiếu mua thực phẩm, chăm sóc y tế có trợ cấp, giảm tiền nhà,...

+ Tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô: Chính phủ sử dụng các chính sách tiền tệ, tài chính tác động tới chu kỳ kinh doanh, giải quyết nạn thất nghiệp, chống trì trệ, lạm phát,...

Nhận xét: Trong nhiều trường hợp, sự can thiệp của Nhà nước cũng có những hạn chế như có nhiều vấn đề Nhà nước không lựa chon đúng, sự tài trợ của Chính phủ có lúc kém hiệu quả (do chương trình quá lớn, thời gian quá dài), sự ảnh hưởng của chủ quan (Chính phủ bị chi phối bởi thiểu số người, hoặc bởi những người bất tài, tham nhũng,...) dẫn đến việc đưa ra những quyết định sai lầm, không phù hợp với quy luật khách quan, không phản ánh đúng sự vận động của thị trường. Vì vậy theo Samuelson sự can thiệp của Nhà nước chỉ nên giới hạn "trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh".

Tóm lại, phát triển kinh tế có hiệu quả là phải dựa vào cả "hai bàn tay":

+ Cơ chế thị trường(bàn tay vô hình): xác định giá cả, sản lượng trong nhiều lĩnh vực.

+ Sự điều tiết của Chính phủ (bàn tay hữu hình): bằng các chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ. 

Nguồn: CN. Nguyễn Quang Hạnh (Quantri.vn biên tập và hệ thống hóa)

Video liên quan

Chủ đề