Tại sao lại bị ngất

Các vấn đề huyết áp

Huyết áp thấp là tình trạng nguy hiểm có thể gây ngất xỉu. Một rối loạn nữa là hạ đường huyết. Bỏ bữa có thể gây giảm đường huyết và tụt huyết áp dẫn đến ngất xỉu.

Đứng lên đột ngột

Đứng lên quá đột ngột có thể khiến máu dồn xuống chân mà không tới não, do vậy khiến bạn cảm thấy muốn xỉu. Không nên đứng dậy khỏi giường hoặc chỗ ngồi một cách đột ngột mà hãy cho cơ thể một thời gian nhất định.

Stress

Cao huyết áp là “kẻ giết người” thầm lặng và là nguyên nhân khiến nhiều người bị các rối loạn sức khỏe. Bạn cần phải kiểm soát stress vì nó có thể dẫn tới nhiều rối loạn bao gồm ngất xỉu.

Xúc động

Khi gặp một tình huống gây ra những cảm xúc lẫn lộn trong cơ thể, bạn có thể cảm thấy đứng không vững. Trong tình huống xúc động như vậy, huyết áp sẽ tăng, bạn sẽ bắt đầu bị đổ mồ hôi và cảm thấy muốn  xỉu.

Đói

Có những lúc bạn có thể ngất xỉu khi đã quá lâu không ăn và điều này xảy ra vì thiếu “nhiên liệu” cho não hoạt động.

Nhịp tim không đều

Đây là loại phổ biến nhất của rối loạn nhịp tim, có thể khiến bạn cảm thấy không đứng vững. Bất thường này có thể xảy ra khi có sự gián đoạn lưu thông máu bình thường tới não. Sự gián đoạn này khiến bạn có nguy cơ bị cục máu đông và đột quỵ.

Dấu hiệu đầu tiên của mang thai

Cảm thấy ngất xỉu có thể là dấu hiệu sớm của mang thai. Nếu bạn đang mong điều này, hãy thử thai tại nhà hoặc làm xét nghiệm máu ở bệnh viện có uy tín.

Theo: Báo SKĐS

Ngất xỉu là sự mất ý thức đột ngột do lưu lượng máu đến não bị thiếu. Xử trí ngất rất đơn giản nhưng điều quan trọng là cần chẩn đoán nguyên nhân của ngất xỉu.

Triệu chứng ngất xỉu

Trước khi ngất, bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều triệu chứng sau, tùy thuộc vào nguyên nhân gây ngất: Cảm thấy tối sầm lại, mọi thứ như phim đen trắng; Choáng váng, chóng mặt, hoa mắt; Có cảm giác như đang rơi; Cảm thấy buồn ngủ hay đi đứng không vững, lảo đảo; Đau đầu…

Trong trường hợp ngất xỉu do kích thích dây thần kinh phế vị, người bệnh có thể bị chuột rút hoặc buồn đi tiêu ngay trước khi bất tỉnh.

Biểu hiện: Trong thực tế, khi não thiếu máu tạm thời, nó sẽ ngừng gửi tín hiệu đến các tế bào cơ. Các cơ bị mất điều khiển và cơ thể sụp đổ do trọng lực kéo xuống. Người bị ngất có thể có chút run rẩy, co giật, đôi khi giống như một cơn động kinh (mặc dù rất ngắn).

Sau khi ngất: Chính tư thế ngã ngất khiến cơ thể nằm ngang hay hạ thấp đầu và máu bắt đầu chảy ngược vào não giúp người ngất tỉnh lại. Một số triệu chứng phổ biến có thể xảy ra sau khi ngất xỉu: Toát mồ hôi, mạch đập nhanh, có thể tiêu tiểu không tự chủ...

Bấm huyệt nhân trung để sơ cứu người ngất.

Nguyên nhân

Có rất nhiều nguyên nhân có thể gây ngất. Nhiều người có những vấn đề sức khỏe tiềm ẩn gây ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh hoặc tim mạch, huyết áp. Kết quả là lượng máu cung cấp cho não bộ bị giảm đột ngột, các tế bào não không nhận đủ lượng oxy cần thiết dẫn đến ngất.

Những tình huống có khả năng gây ngất là: Đứng lên quá nhanh khiến hạ huyết áp tư thế; Quá đói; Trời quá nóng; Mất nước; Tâm trạng thay đổi (quá buồn hay tức giận); Tăng thông khí (hít quá nhiều oxy hay thải ra quá nhiều carbonic trong thời gian ngắn); Ho mạnh, xoay cổ mạnh hoặc mặc áo có cổ quá chật (mẫn cảm xoang động mạch cảnh); Ngất trong hay sau khi tiểu tiện; Uống quá nhiều rượu; Tác dụng phụ của một số thuốc...

Ngoài ra, ngất có thể xuất hiện do liên quan đến vấn đề ở tim hoặc mạch máu làm cho lưu lượng máu lên não bị ảnh hưởng, bao gồm rối loạn nhịp tim, cấu trúc tim có vấn đề làm cho dòng máu bị tắc nghẽn, thiếu máu cơ tim cục bộ, bệnh van tim, hẹp động mạch chủ, cục máu đông hay suy tim. Cần đến gặp bác sĩ sớm để được điều trị kịp thời.

Một số vấn đề thần kinh như co giật, động kinh, đột quỵ hay cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA) cũng có thể gây ra ngất xỉu. Đôi khi đau nửa đầu cũng gây ngất.

Khoảng 1/3 trường hợp ngất xỉu là không xác định rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, khả năng bị ngất có thể tăng lên do tác dụng phụ từ một số thuốc điều trị.

Đặt người ngất nằm ngửa kê chân cao.

Cách xử trí khi một người bị ngất xỉu

Nếu bạn thấy một người bị ngất xỉu, hãy giữ bình tĩnh. Kiểm tra để chắc chắn người đó còn thở, nếu không, hãy gọi cấp cứu và bắt đầu hô hấp nhân tạo hoặc tiến hành thủ thuật “Hồi sinh tim phổi” (CPR).

Để người bệnh nằm ngửa và nâng cao phần chân lên, nới lỏng cổ áo hay thắt lưng giúp lưu lượng máu quay trở lại não. Bấm vào huyệt nhân trung và huyệt dũng tuyền. Huyệt nhân trung nằm ngay dưới gốc mũi, ở vị trí 1/3 trên của rãnh nhân trung. Huyệt dũng tuyền nằm dưới lòng bàn chân, ở điểm nối 2/5 trước với 3/5 sau của đoạn đầu ngón chân thứ 2. Cần bấm huyệt ngay sau khi người bệnh có biểu hiện ngất nhằm giúp họ thoát khỏi tình trạng này càng nhanh càng tốt. Thông thường, người bị ngất sẽ tỉnh lại nhanh chóng.

Hãy gọi ngay cấp cứu 115 nếu thấy người bị ngất: Không có dấu hiệu tỉnh lại sau 1-2 phút; Người ngất bị chấn thương nặng do té ngã; Lên cơn co giật.

Phòng ngừa

Nếu bạn bỗng dưng cảm thấy dấu hiệu tiền ngất xỉu nói trên như đỏ bừng mặt, nóng đột ngột hoặc buồn nôn hoặc toát mồ hôi lạnh... đừng đứng dậy. Nếu đang đứng hãy từ từ tìm chỗ nằm ngay xuống. Hãy nằm nghỉ, gác chân cao hơn đầu chờcác triệu chứng qua đi trong vài phút. Nếu không đỡ hoặc bạn bắt đầu thấy đau ngực hoặc khó thở, hãy gọi cấp cứu.

Để phòng ngừa ngất xỉu, hiểu biết về nguyên nhân gây ra ngất xỉu là một nửa chiến thắng. Nếu đã trải qua ngất xỉu, người bệnh có thể ghi nhớ các dấu hiệu cảnh báo và triệu chứng ngất xỉu và có thể tránh nó bằng cách loại bỏ nguyên nhân. Bệnh nhân bị ngất nhiều lần nên đi khám bác sĩ và xác định nguyên nhân gây ngất (nếu có).


Xét nghiệm thường được thực hiện.

  • đo độ bão hòa oxy máu theo xung mạch

  • Đôi khi sử dụng siêu âm tim

  • Đôi khi cần tiến hành nghiệm pháp bàn nghiêng

  • Chỉ tiến hành xét nghiệm máu khi có chỉ định trên lâm sàng

  • Hiếm khi chỉ định chụp hệ thần kinh trung ương

Nhìn chung, nếu ngất gây chấn thương hoặc tái phát (đặc biệt là trong một khoảng thời gian ngắn), cần phải đánh giá sâu hơn. Chẩn đoán hình ảnh tim và não không được thực hiện trừ khi có dấu hiệu lâm sàng (nghi ngờ nguyên nhân tim mạch hoặc tổn thương thần kinh).

Bệnh nhân nghi ngờ loạn nhịp tim, viêm cơ tim, hoặc thiếu máu cục bộ nên được nhập viện để đánh giá kỹ hơn. Những bệnh nhân khác có thể chỉ cần đánh giá ngoại trú.

Nên làm điện tâm đồ ở tất cả các bệnh nhân. Điện tâm đồ có thể giúp phát hiện các rối loạn nhịp, rối loạn dẫn truyền, phí đại tâm thất, QT kéo dài, rối loạn chức năng máy tạo nhịp, thiếu máu hoặc nhồi máu cơ tim. Ở các bệnh nhân cao tuổi, nếu lâm sàng không có nhiều gợi ý, có thể xét nghiệm máu các chỉ số chỉ dấu tim mạch và làm điện tâm đồ nhiều lần, đồng thời theo dõi điện tâm đồ trong vòng 24 giờ nhằm loại trừ nhồi máu cơ tim. Nếu phát hiện rối loạn nhịp, thời điểm rối loạn nhịp phải có sự liên quan với thời điểm thay đổi tri giác nhằm chẩn đoán chắc chắn nguyên nhân gây ngất liên quan tới rối loạn nhịp, tuy nhiên phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện ngất trong quá trình theo dõi. Mặt khác, trong quá trình theo dõi nếu vẫn có biểu hiện của các triệu chứng trong khi không có rối loạn nhịp nào cũng giúp góp phần loại trừ nguyên nhân tim mạch. Máy theo dõi và ghi điện tâm đồ di động có thể hữu ích trong trường hợp bệnh nhân có các triệu chứng cảnh báo xuất hiện trước khi ngất. Điện tâm đồ tín hiệu trung bình có thể giúp xác định các rối loạn nhịp có xu hướng tiến triển thành rối loạn nhịp thất ở bệnh nhân thiếu máu cơ tim hoặc bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim. Nếu ngất xuất hiện không thường xuyên (<1>

Đo độ bão hòa oxy qua da nên được tiến hành trong hoặc ngay sau khi ngất để xác định tình trạng hạ oxy máu (gợi ý chẩn đoán tắc mạch phổi). Nếu có tình trạng hạ oxy máu, cần chỉ định chụp CT phổi để loại trừ tắc mạch phổi.

Xét nghiệm được thực hiện dựa trên chẩn đoán lâm sàng; không nên sử dụng các bộ xét nghiệm mặc định sẵn. Tuy nhiên, nên tiến hành thử thai cho tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Nếu nghi ngờ thiếu máu, tiến hành xét nghiệm Hematocrit. Chỉ làm điện giải đồ nếu có bất thường trên lâm sàng (có triệu chứng hoặc đang sử dụng thuốc gây rối loạn điện giải). Xét nghiệm Troponin nếu nghi ngờ nhồi máu cơ tim cấp.

Siêu âm tim Siêu âm tim được chỉ định cho những bệnh nhân bị ngất sau gắng sức, có tiếng thổi tại tim, hoặc nghi ngờ khối u tại tim (ngất liên quan đến tư thế).

Tiến hành nghiệm pháp bàn nghiêng Nghiệm pháp bàn nghiêng nếu lâm sàng gợi ý ngất do trụy mạch hoặc do các phản xạ thần kinh khác. Nghiệm pháp bàn nghiêng cũng được sử dụng để đánh giá ngất sau gắng sức, nếu siêu âm tim hoặc các nghiệm pháp gắng sức không cho thấy bất thường.

Nghiệm pháp gắng sức Nghiệm pháp gắng sức (thông qua tập luyện gắng sức hoặc sử dụng thuốc) được thực hiện khi nghi ngờ thiếu máu cơ tim. Nó thường được thực hiện ở bệnh nhân với các triệu chứng liên quan đến quá trình gắng sức.

  • Ngất gần đây không giải thích được

  • Những phát hiện về cờ đỏ không giải thích được

  • Bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ và ngất không rõ nguyên nhân

Một đáp ứng tiêu cực xác định một phân nhóm có nguy cơ thấp với tỷ lệ thuyên giảm cao. Việc tiến hành thăm dò điện sinh lý vẫn đang gây tranh cãi. Các nghiệm pháp gắng sức thường ít giá trị, trừ trường hợp ngất liên quan tới các hoạt động thể lực.

Cần tiến hành làm điện não đồ nếu nghi ngờ động kinh.

Chụp CTMRI sọ não chỉ khi có các triệu chứng cơ năng và thực thể gợi ý bệnh lý thần kinh trung ương khu trú.

Video liên quan

Chủ đề