Tại sao giun thường sống ở nơi đất ẩm ướt

Câu hỏi: Cấu tạo ngoài giun đất thích nghi với đời sống trong đất như thế nào

Lời giải:

Cấu tạo ngoài của giun đất thích nghi với đời sống chui rúc trong đất:

– Cơ thể dài, gồm nhiều đốt, cơ phát triển để có thể chun giãn, phần đầu có miệng, phần đuôi có hậu môn.

– Ở phần đầu có vòng tơ xung quanh mỗi đốt, dùng để tì vào đất khi chui bò (giun đất không có chân).

– Khi tìm kiếm thức ăn, nếu gặp đất khô và cứng, giun tiết ra chất nhày làm mềm đất rồi nuốt đất vào miệng.

– Lớp da mỏng, da luôn ẩm để trao đổi khí qua da.

– Mắt tiêu giảm, thích nghi với đời sống chui rúc trong đất.

Giun là sinh vật sống trong đất, chúng rất gần gũi trong đời sống của chúng ta, thức ăn của chúng là những vật chất hữu cơ hoại mục. Giun đất sống tại các vùng đất ẩm ướt có nhiều mùn hữu cơ và chúng đóng vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái, thậm chí được xem là yếu tố cốt lõi của nông nghiệp hữu cơ. Vậy các bạn hãy cùng Toploigiai đi tìm hiểu về giun đất nhé

I . Hình dạng ngoài

II. Di chuyển

Hình 15.3 vẽ quá trình di chuyển (bò) của giun đất. Sau là chú thích kèm theo nhưng sắp xếp không đúng thứ tự các động tác di chuyển của giun đất.

III. Dinh dưỡng

Giun đất ăn vụn thực vật và mùn đất. Hệ tiêu hoá chia làm nhiều phần (hình 15.4), thức ăn lấy từ miệng (1), chứa ở diều (4), nghiền nhò ớ dạ dày cơ (5), được tiêu hoá nhờ enzim tiết ra từ ruột tịt (6) và hấp thụ qua thành ruột (7).
Sự trao đổi khi (hô hấp) được thực hiện qua da.

IV. Sinh sản

Giun đất lưỡng tính. Khi sinh sản, hai con giun chập phần đầu vào nhau trao đổi tinh dịch (hình 15.6). Sau khi hai cơ thê ghép đôi tách nhau được 2, 3 ngày, thanh dai sinh dục bong ra, tuột về phía trước, nhận trứng và tinh dịch trên đường đi. Khi tuột khỏi cơ thể, đai thắt hai đầu lại thành kén. Trong kén, sau vài tuần, trứng nỡ thành giun non.

V. Khả năng của giun đất

1.Là tín hiệu của những vùng đất màu mỡ

Khi ta thấy sự hiện diện của giun trong đất, đó là dấu hiệu cho thấy đất canh tác sạch, khỏe và phì nhiêu. Đối với loại đất màu mỡ, số lượng giun dao động tầm 300-500 con/m2. Càng có nhiều giun nghĩa là chất lượng đất tại khu vực đó rất tốt.

Ngoài ra, mật độ giun trong đất lớn còn ngầm hiển thị các hoạt động sống tự nhiên của các sinh vật và vi sinh vật như vi khuẩn, vi nấm,… Hệ sinh vật đất giúp phân hủy chất hữu cơ làm đất giàu dinh dưỡng.

Giun còn làm đất tơi xốp, thoáng khí nên tác động trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, cấu trúc đất và chu trình cacbon.

Lớp đất sẽ màu mỡ hơn nếu có sự hiện diện của giun

2. Kiến tạo lớp đất

Giun đất ăn những mảnh vụn hữu cơ mục nát như xác bã thực vật nên phân của chúng có hàm lượng dinh dưỡng rất lớn. Do đó, những vùng đất không có giun là những khu vực đất kém màu mỡ, chai cứng… Vì thế nên giun góp vai trò quan trọng trong việc làm đất tơi xốp, tăng độ phì nhiêu của đất. Khi giun chết, xác chúng phân hủy và tỏa ra lượng Nitơ cho đất hấp thụ. Ngoài ra, chúng còn có tác dụng cân bằng độ pH trong đất.

Trong các hang đất của giun thường chứa nhiều phân của chúng. Phân giun kiến tạo môi trường thuận lợi để cây sinh trưởng cũng như phát triển tốt.

3. Mang đến cho đất 1 hơi thở mới

Giun đất di chuyển và đào hang sống trong đất, do đó đất luôn được tác động tạo thành các khoảng trống, từ đó giúp cải thiện hệ thống thoát nước tự nhiên cho đất. Đất không được cày xới và có nhiều giun sinh sống thì khả năng thoát nước tốt hơn nhiều so với đất được canh tác.

Sự di chuyển linh hoạt của giun trong lòng đất đồng thời khiến các chất dinh dưỡng được tán đều và phân bổ rộng khắp khu vực.Thêm vào đó, việc giun thường xuyên di chuyển tạo thành những khe hở trong đất làm đất được tơi xốp, thoáng, không bị ứ nước, không khí trong đất được lưu thông hỗ trợ cây trồng hô hấp dễ dàng.

4. Thay hóa kết cấu của đất

Phân và xác giun khi kết hợp với hạt đất có thể làm tái tạo keo đất, tăng khả năng giữ nước, lưu giữ độ ẩm và đồng thời góp phần tái tạo lớp đất mặt.

Nếu gặp điều kiện sống thích hợp, trung bình giun sẽ thải ra khoảng 50 tấn phân/ ha, mỗi năm đủ để tạo thành một lớp đất sâu 5mm.

Nhờ khả năng di chuyển được trong đất nên đất được thoáng khí. Từ đó, những vi sinh trong đất sẽ phát triển mạnh và tạo cho đất một môi trường tương tác sinh học cao qua đó tiết chế được tác động xấu từ sâu bệnh hại sinh sống trong đất gây nên.

5. Điều tiết sự phát triển của sâu hại, nấm mốc

Giun đất còn có khả năng hỗ trợ tiêu diệt những vi sinh có hại gây bệnh trên cây trồng hiệu quả vì khi chúng ăn lá cây sẽ đồng thời tiêu hóa luôn những nấm mốc, khuẩn hại.

Đặc biệt là phân của chúng, đó là môi trường tốt nhất cho nhiều loại vi sinh vật hữu ích phát triển. Phân của giun thật sự rất giá trị.

6. Bảo tồn và phát triển giun đất

Khi bạn hiểu thêm về giun đất thì bạn cũng sẽ hiểu vì sao giun đất được xem là chìa khóa trong nông nghiệp hữu cơ. Vậy thì ta hãy cùng tìm hiểu thêm phương cách để bảo vệ và phát triển chúng.

Điều mà loài giun cần là cung cấp đủ cho chúng lượng sinh khối, nhiệt độ vừa phải và đủ ẩm. Do đó cần có 1 lớp thảm che phủ đất bằng các vật liệu che phủ hữu cơ hoặc trồng cây che phủ để tạo một lớp thảm thực vật, đồng thời cung cấp nguồn thức ăn cho giun đất.

Cần nên hạn chế tối đa cày xới đất thường xuyên vì điều đó sẽ làm động đến môi trường sống của chúng, làm rối loạn sinh hoạt của các loài sinh sống trong đất cũng như làm giảm số lượng giun.

Giun rất sợ thuốc BVTV, khi các hóa chất này ngấm vào đất sẽ đồng thời làm giun nhiễm độc mà chết. Do đó cũng cần hạn chế tối đa việc sử dụng thuốc BVTV, có thể thay thế bằng các loại thuốc sinh học, không gây hại đến giun, hệ sinh vật đất và bảo đảm luôn cả sức khỏe con người.

Giun đất hay trùn đất là tên thông thường của các thành viên lớn nhất của phân lớp Oligochaeta (thuộc một lớp hoặc phân lớp tùy theo tác giả phân loại) trong ngành Annelida. Chúng có cấu trúc cơ thể ống trong ống, được phân đoạn bên ngoài với phân đoạn bên trong tương ứng và thường có các lông cứng trên tất cả các phân đoạn.[1]

Giun đất

Lumbricus terrestris, giun đất thường gặp ở châu Âu

Phân loại khoa họcGiới (regnum)AnimaliaNgành (phylum)AnnelidaLớp (class)ClitellataBộ (ordo)HaplotaxidaPhân bộ (subordo)LumbricinaCác họ

  Acanthodrilidae
  Ailoscolecidae
  Alluroididae
  Almidae
  Criodrilidae
  Eudrilidae
  Exxidae
  Glossoscolecidae
  Lumbricidae
  Lutodrilidae
  Megascolecidae
  Microchaetidae
  Ocnerodrilidae
  Octochaetidae

  Sparganophilidae

Giun đất thường sống ở những khu vực đất ẩm ướt, ruộng đồng, nương rẫy, đất hoang sơ,...[2] nơi có nhiều mùn hữu cơ và chúng ăn mùn hữu cơ.[3] Các chất hữu cơ này bao gồm chất thực vật, động vật nguyên sinh sống, luân trùng, tuyến trùng, vi khuẩn, nấm và các vi sinh vật khác.[4] Hệ tiêu hóa của giun đất chạy dọc theo chiều dài cơ thể.[5] Chúng có vai trò to lớn đối với ngành nông nghiệp do chúng làm đất tơi xốp và tăng độ phì nhiêu của đất. Giun đất còn là thức ăn cho gia súc và gia cầm.

Chúng là loài động vật không xương sống, thuộc Ngành Giun đốt. Giun đất là các loài lưỡng tính và có một bộ phận đặc trưng gọi là bao sinh dục. Chúng sử dụng bộ phận này trong quá trình giao phối. Sau khi giao phối thành công, bao này sẽ chứa đầy trứng đã thụ tinh và sẽ được giun "tháo" ra, từ đó nở ra thế hệ giun tiếp theo. Giun đất có khả năng phục hồi lại toàn bộ cơ thể đã mất nếu như phần đầu còn nguyên vẹn, nhưng không như mọi người vẫn lầm tưởng, chúng không có khả năng tạo ra các cá thể mới khi bị chia nhỏ thành nhiều đoạn.

Trùn đất (earthworms) là tên gọi chung cho tất cả các loại trùn sinh sống trên địa cầu này. Trên thế giới hiện có khoảng 4.400 loài trùn đất khác nhau đã được định danh. Dựa vào kích thước và tập tính loài, chúng được phân thành 3 nhóm chính:  EPIGEIC (eisenia foetida, eudrilus eugenie (nigerian), perionyx excavatus etc.), ENDOGEIC (pentoscolex sps. eutopeius sps. drawida sps etc.) và ANECEIC (polypheretima elongata, lampito maruti etc.).

Gồm các loài như Eisenia foetida, Eudrilus eugenie (nigerian), Perionyx excavatus (trùn quế)…. tập tính ăn của chúng thường là trên bề mặt đất với tất cả các loại chất hữu cơ, xác và chất thải động vật. Chúng phân huỷ chất hữu cơ nhưng không có vai trò cải tạo đất. Chính những tập tính ăn tạp như vậy nên nhóm trùn này thường thì cung cấp đạm rất cao, bên cạnh đó vì chúng thường sống trên bề mặt đất nên tiếp xúc với rất nhiều kẻ thù, vì thế mà trong cơ thể trùn chứa hàm lượng enzym rất cao. Đây là nhóm trùn dùng để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy,hải sản… Bên cạnh đó, ngày nay ở các nước tiên tiến trên thế giới như: Canada, Mỹ, Úc, Nhật…người ta sử dụng nhóm trùn này để xử lý chất thải nông nghiệp và công nghiệp nhằm tránh gây ô nhiễm môi trường.

Gồm các loài như Lumbricus, Polypheretima elongata, Lampito maruti…. Chúng sống theo hàng thẳng đứng trong lòng đất, có khi đào hang sâu trong lòng đất cả 3m. Chúng ăn cả chất hữu cơ và khoáng chất trong đất, sau đó thải phân trên khắp hang chúng đi. Vào ban đêm chúng lên trên mặt đất để ăn và bắt cặp, chúng có quai hàm rất lớn và nghiền nát tất cả các chất thải hữu cơ. Vì thế chúng rất có lợi cho việc cải tạo đất, bên cạnh đó, vì nhóm trùn này rất lớn nên người ta còn sử dụng làm mồi câu cá.

Gồm các loài như Pentoscolex sps. Eutopeius sps. Drawida sps… Đây là giống trùn có tập tính ăn các khoáng chất trong đất hơn là chất hữu cơ, chúng di chuyển hàng ngang trong đất vì thế chúng không có tác dụng trong phân hủy chất hữu cơ và thường xuyên di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Giống trùn này cũng dùng để sử lý đất nhưng không tốt bằng Aneceic.

Ở Việt Nam, theo Trung tâm nghiên cứu động vật đất (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) thì chúng ta đã tìm ra trên 170 loài. Chúng phân bố rất rộng và có nhiều đặc tính khác nhau. Một số loài sống trong nước, còn đa số sống ở những nơi đất ẩm hoặc những chỗ có thảm thực vật dày. Có những loài rất nhỏ, cơ thể chỉ nặng khoảng 10 mg. Trong lúc đó, ở Australia có loài trùn đất khổng lồ dài tới 1,4m và nặng gần nửa cân! Tuy nhiên, điều mà bà con ta quan nhất là nên nuôi loài nào.

Vào những ngày mưa to hoặc những hôm trở trời, thường thấy có những con giun (trùn) lớn bò lên mặt đất. Chúng to bằng ngón tay út và dài như chiếc đũa. Đây là các bác “thợ cày” rất quý của chúng ta. Người ta gọi đó là giun khoang. Suốt ngày chúng đào bới trong đất để kiếm thức ăn. Hoạt động làm cho đất tơi xốp tạo nhiều biến đổi có lợi cho cây trồng. Cơ thể giun là một ống tròn, một đầu là miệng và đầu kia là hậu môn. Chúng ngoạm đất vào mồm rồi nuốt chửng. Khi đi qua ống tiêu hóa, các chất hữu cơ, chất mùn sẽ được chúng đồng hóa, hấp thụ. Sau đó, các chất còn lại sẽ bị tống ra ngoài qua hậu môn. Đó là phân giun (phân trùn – vermicast). Phân giun là một loại đất rất tốt. Chúng tơi xốp và giữ được ẩm. Mặt khác, các dạng phân lân và phân kali khó tiêu, sau khi đi qua bụng giun đã trở thành những dạng dễ tiêu mà cây hấp thụ được. Tuy nhiên, loài giun này chưa phải là đối tượng để nuôi. Các loài giun đất dùng để nuôi phải có hàm lượng đạm cao, có tốc độ sinh trưởng nhanh, sống được trong những điều kiện chật hẹp và mau chóng thích nghi với những môi trường mới.

Trong hàng nghìn loài giun, người ta chỉ tìm được 6 – 7 loài nên nuôi. Mỗi nước lại thích nuôi một loài riêng. Tuy nhiên, loài giun quế hay còn gọi là giun đỏ (Perionyx escavatus) được nhiều nơi ưa nuôi. Ở nước ta, chúng tôi cũng khuyến khích nên nuôi loài giun này. Hiện tại Trại trùn quế SFARM đã phát triển việc chăn nuôi giun quế ở quy mô công nghiệp, tạo ra nguồn phân giun ổn định phục vụ cho trồng trọt.

Quá trình đi chuyển của giun đất gồm 3 bước:

  1. Thu mình làm phông đoàn đầu, thun đoạn đuôi.
  2. Giun chuẩn bị bò.
  3. Dùng toàn thân và vòng tơ làm chỗ dựa, vươn đầu về phía trước.

Giun đất ăn vụn thực vật và mùn đất. Hệ tiêu hoá chia làm nhiều phần, thức ăn lấy từ miệng, chứa ở diều, nghiền nhỏ ở dạ dày cơ, được tiêu hoá nhờ enzim tiết ra từ ruột tịt và hấp thu qua thành ruột.

Sự trao đổi khí (hô hấp) được thực hiện qua da.

Giun đất có tác dụng đào bới làm xốp đất. Phân giun đất là thứ phân bón sạch, rất tốt cho thực vật. Giun còn là phương tiện xử lí rác làm sạch môi trường. Giun đất có thể ăn vì nó có 70 phần trăm là đạm. Giun đất có thể làm thuốc chữa bệnh.

Chúng còn có thể làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Chúng cho đất loại phân tốt.

  1. ^ Edwards, Clive A.; Lofty, J. R. (1977). Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. preface. ISBN 0-412-14950-8.
  2. ^ Coleman, David C.; Crossley, D.A.; Hendrix, Paul F. (2004). Fundamentals of Soil Ecology. Amsterdam; Boston: Elsevier Academic Press. tr. 170. ISBN 0-12-179726-0.
  3. ^ Bonkowski, Griffiths, and Ritz (tháng 11 năm 2000). “Food preferences of earthworms for soil fungi”. Pedobiologia. 44–6 (6): 667. doi:10.1078/S0031-4056(04)70080-3.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  4. ^ Lofty, Clive A.; Lofty, J. R. (1977). Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. 80. ISBN 0-412-14950-8.
  5. ^ Edwards, Clive A.; Lofty, J.R. (1977). Biology of Earthworms. London: Chapman & Hall. tr. 19. ISBN 0-412-14950-8.

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giun đất.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Giun_đất&oldid=67994119”

Video liên quan

Chủ đề