Sau khi trứng được thụ tinh phát triển thành ấu trùng, giai đoạn đầu ấu trùng trai sông sống ở đâu?

Ký sinh trùng là những sinh vật muốn tồn tại phải sống nhờ vào sinh vật đang sống khác. Ký sinh trùng ở người là những sinh vật sống ký sinh trên cơ thể người.

Các loại ký sinh trùng ở người rất đa dạng, có thể ký sinh hoàn toàn hoặc ký sinh không hoàn toàn, ký sinh nội sinh hoặc ngoại sinh, ký sinh trùng trên da người hoặc ký sinh trùng dưới da,..

Ký sinh trùng là những sinh vật muốn tồn tại phải sống nhờ vào sinh vật đang sống khác như con người, động vật và thực vật. Những sinh vật bị ký sinh gọi là vật chủ. Ký sinh trùng sẽ chiếm sinh chất của vật chủ để tồn tại và phát triển. Ký sinh trùng y học là lĩnh vực nghiên cứu những ký sinh trùng ký sinh và gây bệnh ở người.

Ký sinh trùng ở người có nhiều hình thức ký sinh như:

  • Ký sinh hoàn toàn: còn gọi là ký sinh bắt buộc suốt đời như giun đũa, giun tóc, giun móc. Hoặc ký sinh không hoàn toàn: là hình thức ký sinh tạm thời, lúc ký sinh, lúc tự do sinh côn trùng hút máu.
  • Nội ký sinh: là hình thức ký sinh bên trong cơ thể người như sán dây, sán lá gan,... Hoặc ngoại ký sinh là hình thức ký sinh bên ngoài cơ thể như bám vào da hay hút máu qua da như tiết túc y học. Có loại ký sinh trùng trên da người, cũng có loại ký sinh trùng dưới da.
  • Ký sinh trùng có thể chỉ ký sinh trên một loài vật chủ nhất định, nếu lạc chỗ chúng sẽ không tồn tại được như giun đũa. Hoặc ký sinh trùng có khả năng ký sinh và phát triển trên nhiều vật chủ khác nhau như sán lá phổi, sán lá gan,...

Sau khi trứng được thụ tinh phát triển thành ấu trùng, giai đoạn đầu ấu trùng trai sông sống ở đâu?

Ký sinh trùng sống dựa vào vật chủ

Ký sinh trùng ở người có nhiều hình thức sinh sản như:

  • Sinh sản vô tính bằng cách nhân đôi tế bào. Với phương thức này, một cá thể sẽ tự nhân đôi thành hai cá thể mới mà không có sự giao phối giữa con đực và con cái. Thường gặp ở các ký sinh trùng đơn bào như trùng roi, amip, ký sinh trùng sốt rét,...
  • Sinh sản hữu tính: là hình thức sinh sản thực hiện bằng sự giao phối giữa con đực và con cái như giun đũa, giun móc, giun kim,... Ngoài ra, có những loài ký sinh trùng lưỡng giới, trên cơ thể chúng có cả bộ phận sinh dục đực và bộ phận sinh dục cái để giao phối như sán lá gan, sán dây,...
  • Sinh sản đa phôi: từ kết quả của sinh sản hữu tính, trứng nở ra ấu trùng, ấu trùng phát triển thành nang ấu trùng. Sau đó, trong nang ấu trùng có rất nhiều mầm sinh ra ấu trùng thế hệ thứ hai, ấu trùng thế hệ hai lại sinh ra các ấu trùng thế hệ thứ ba. Các ấu trùng thế hệ thứ ba khi gặp vật chủ thích hợp sẽ phát triển thành sán trưởng thành. Đây là hình thức sinh sản đặc biệt thường thấy ở một số loài sán lá và sán dây, từ một trứng ban đầu sẽ phát triển thành rất nhiều sán trưởng thành.

Sau khi trứng được thụ tinh phát triển thành ấu trùng, giai đoạn đầu ấu trùng trai sông sống ở đâu?

Một số loài sán sinh sản dưới hình thức đa phôi

Chu kỳ sống của ký sinh trùng là quá trình phát triển từ trứng cho đến khi trưởng thành, có khả năng sinh sản và tiếp tục chu kỳ mới. Ký sinh trùng ở người có nhiều loại chu kỳ sống và phát triển khác nhau như:

  • Kiểu chu kỳ: người←→ngoại giới. Ví dụ như: giun đường ruột, amip. Giun đường ruột ký sinh ở ruột con người, đẻ trứng. Trứng theo phân bài xuất ra ngoại cảnh. Nếu gặp môi trường đất ẩm, nhiệt độ thích hợp, phôi trong trứng sẽ phát triển thành ấu trùng. Nếu người vô tình ăn phải trứng giun đũa trong nước, thức ăn nhiễm trứng giun. Ấu trùng giun sẽ thoát khỏi vỏ trứng di chuyển từ ruột đến những bộ phận khác trong cơ thể, sau đó trở về ruột và đẻ trứng.
  • Kiểu chu kỳ: người → ngoại giới → vật chủ trung gian → người. Ví dụ như sán lá gan nhỏ. Sán lá gan nhỏ ký sinh trong các đường mật trong gan. Đẻ trứng trong mật, trứng ra ngoại cảnh theo đường phân. Trứng nếu gặp môi trường nước sẽ nở ra ấu trùng lông. Ấu trùng lông tìm ký sinh trong các loại ốc nở ra ấu trùng đuôi. Ấu trùng đuôi rời ốc tìm đến ký sinh trong các loài cá, tạo các nang trùng trong các thớ thịt của các loài cá này. Nếu người ăn các loài cá chứa nang trùng chưa được nấu chín, ấu trùng sẽ xâm nhập vào cơ thể, di chuyển đến ký sinh trong gan mật.
  • Kiểu chu kỳ: người → ngoại giới → vật chủ trung gian → ngoại giới → người. Ví dụ như sán máng, ký sinh trong huyết quản nên còn gọi là sán máu. Sán máng trưởng thành ký sinh trong máu, trứng sán máng ra ngoài theo phân hay nước tiểu. Trứng sán máng rơi xuống nước nở ấu trùng lông để chui vào ốc. Ấu trùng đuôi thoát ra từ ốc, bơi trong nước và chui qua da người vào máu.
  • Kiểu chu kỳ: người → vật chủ trung gian → người. Ví dụ chu kỳ sống của giun chỉ bạch huyết gây bệnh ở người. Muỗi chứa ấu trùng giun chỉ khi đốt sẽ truyền ấu trùng sang người, ấu trùng đến hệ thống bạch huyết phát triển thành giun chỉ trưởng thành và sống trong hệ thống bạch huyết của người. Giun cái trưởng thành đẻ ra ấu trùng, ấu trùng lưu thông trong máu và thường xuất hiện ở máu ngoại vi vào ban đêm. Ấu trùng truyền từ người này sang người khác qua vật chủ trung gian là muỗi.
  • Kiểu chu kỳ: người ←→ người.Ví dụ như trùng roi âm đạo truyền từ người này sang người khác khi giao hợp, ghẻ truyền khi tiếp xúc.

Mặc dù ký sinh trùng ở người có nhiều phương thức sinh sản và nhiều loại có chu kỳ sống phức tạp khác nhau, tuy nhiên nói chung mỗi loại ký sinh trùng đều có tuổi thọ nhất định. Trên thực tế, một số loại bệnh ký sinh trùng sau khi mắc phải sẽ tự hết nếu không bị tái nhiễm. Giữ gìn vệ sinh cơ thể, đảm bảo an toàn khi ăn uống, giữ môi trường sống xung quanh trong lành, sạch sẽ là phương pháp bảo vệ bản thân trước sự xâm nhập của ký sinh trùng.

Quý khách hàng có nhu cầu thăm khám, điều trị bệnh tại Vinmec có thể trực tiếp đến Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc hoặc đặt hẹn trực tuyến TẠI ĐÂY.

XEM THÊM:

XEM THÊM:

JavaScript isn't enabled in your browser, so this file can't be opened. Enable and reload.

Trai sông hay trai nước ngọt là các động vật thuộc ngành Thân mềm (Mollusca), họ Hai mảnh vỏ (Bivalvia). Sống trên mặt bùn ở đáy hồ ao, sông ngòi.

Vỏ trai có: 2 mảnh, dây chằng, 2 cơ khép vỏ. Vỏ trai gồm 3 lớp: lớp sừng, lớp đá vôi, lớp xà cừ.[1] Đầu vỏ hơi tròn, đuôi hơi nhọn. Dưới vỏ là áo trai: Mặt ngoài của áo trai tiết ra tạo thành lớp đá vôi. Mặt trong tạo thành khoang áo (2 đôi tấm mang, 2 đôi tấm miệng, chân, thân). Đầu tiêu giảm. Dinh dưỡng nhờ 2 đôi tấm miệng luôn luôn động. Nước theo ống hút vào cơ thể trai mang theo thức ăn và khí oxy, nước theo ống thoát ra ngoài (chất thải, khí cacbonic).[1] Cơ thể phân tính.

Vỏ trai gồm 2 mảnh gắn với nhau nhờ bản lề ở phía lưng. Dây chằng ở bản lề có tính đàn hồi cùng với 2 cơ khép vỏ (bám chắc vào mặt trong của vỏ) điều chỉnh động tác đóng, mở vỏ. Khi trai chết thì vỏ trai sẽ mở. Vỏ trai có lớp sừng bọc ngoài, lớp đá vôi ở giữa và lớp xà cừ óng ánh ở trong cùng. Vỏ trai gồm đầu vỏ, đỉnh vỏ, bản lề vỏ, đuôi vỏ, vòng tăng trưởng vỏ.[1]

Vỏ trai hé mở cho chân trai hình lưỡi rìu thò ra. Nhờ chân trai thò ra rồi thụt vào, kết hợp với động tác đóng mở vỏ mà trai di chuyển chậm chạp trong bùn với tốc độ 20 – 30 cm một giờ, vì cơ chân của trai kém phát triển, để lại phía sau một đường rãnh trên bùn rất bằng phẳng.

Tốc độ di chuyển: từ 20–30 cm/giờ.

Hai mép vạt áo phía sau cơ thể trai tạm gắn với nhau tạo nên ống hút nước và ống thoát nước. Động lực chính hút nước do 2 đôi tấm miệng phủ đầy lông luôn rung động tạo ra. Trai sông dinh dưỡng thụ động, lấy mồi ăn (thường là vụn hữu cơ, động vật nguyên sinh) và oxi nhờ cơ chế lọc nước được trai sông hút vào.

Nhờ cơ chế dinh dưỡng theo kiểu hút nước để lọc lấy vụn hữu cơ, động vật nguyên sinh và những động vật nhỏ khác mà trai sông có thể lọc nước. Trai có thể hút lọc được khoảng 40 lít nước trong một ngày một đêm.

Trai sông thụ tinh ngoài. Cơ thể trai phân tính. Đến mùa sinh sản, trai cái nhận tinh trùng của trai đực chuyển theo dòng nước vào để thụ tinh, trứng non đẻ ra được giữ trong tấm mang. Ấu trùng nở ra, sống trong mang mẹ một thời gian, sau đó bám vào da mang cá một vài tuần nữa mới rơi xuống bùn phát triển thành trai trưởng thành.[2][3]

Xà cừ do lớp ngoài của áo trai tiết ra tạo thành. Nếu chỗ vỏ đang hình thành có hạt cát rơi vào, dần dần các lớp xà cừ mỏng tạo thành, sẽ bọc quanh hạt cát để tạo nên ngọc trai. Trai sông tạo ra ngọc nhưng hạt ngọc nhỏ và không đẹp như trai ngọc ở biển và trai cánh ở nước ngọt.

  1. ^ a b c Howells, Robert G.; Neck, Raymond W.; Murray, Harold D.; Inland Fisheries Division, Texas (5 tháng 6 năm 1996). Freshwater Mussels of Texas By Robert G. Howells, Raymond W. Neck, and Harold D. Murray (bằng tiếng Anh). ISBN 978-1-885696-10-6.
  2. ^ Beasley, C.R (2000). REPRODUCTIVE CYCLE, MANAGEMENT AND CONSERVATION OF PAXYODON SYRMATOPHORUS (BIVALVIA: HYRIIDAE) FROM THE TOCANTINS RIVER, BRAZIL. Universidade Federal do Pará, Campus de Bragança.
  3. ^ “Developmental Behaviors”. Reed College. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2020.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trai_sông&oldid=67909184”