Sau khoảng 6 năm sinh sống và làm việc ở Nhật, em có một số so sánh nhỏ
về sự khác nhau giữa cách làm việc của người Nhật và người Việt.
So sánh này có mang tính chủ quan của bản thân và tham khảo một số bài
viết khác.
Đầu tiên, em thấy sự khác nhau đó là người Nhật khi làm việc, hay bất kỳ
làm chuyện gì trong cuộc sống cũng thường rất hay lập kế hoạch cụ thể và
luôn tuân thủ theo kế hoạch đó để tiến hành công việc.
Ví dụ, ngay cả việc đi chơi, họ cũng lên plan cụ thể: từ mấy giờ đến mấy
giờ, đi đâu, làm gì...Việc lên kế hoạch chi tiết là điều cần thiết trong
cuộc sống, giúp cho chúng ta quản lý mọi việc một cách dễ dàng những cũng
có nhược điểm là, khi có thay đổi gấp, hay thay đổi trong khoảng thời gian
không có thời hạn thì họ thườnglúng túng và khó quyết định.
Trong khi đó, nếu so sánh sẽ thấy người Việt Nam khá nhanh nhạy trong
việc thích ứng nếu có sự thay đổi. Có nhiều thay đổi liên tục như kiểu
người Nhật sẽ nghĩ :"Tại sao bây giờ mới nói?", thì điều này với người
Việt lại có thể đối ứng một cách dễ dàng.
Thay vào đó, người Việt lại luôn có xu hướng bắt đầu công việc ở mức sát
deadline. Ví dụ như cho cùng một công việc, cùng kỳ hạn trong vòng hai
tuần phải hoàn thành, thì người Nhật sẽ làm xong công việc đó trong vòng
một tuần đầu tiên, tuần tiếp theo là dành cho việc chỉnh sửa và hoàn
thiện.
Còn người Việt sẽ không hoàn thành công việc đó trong tuần đầu mà cố gắng
hết sức ở tuần cuối. Kể cả khi có vấn đề phát sinh, họ sẵn sàng thức đêm
để hoàn thành công việc.
Tiếp theo, trong mối quan hệ đồng nghiệp, xã giao. Người Nhật có xu hướng
tránh làm mất lòng người khác, người Nhật hiếm khi nói “không” với người
không thân thiết.
Thay vào đó, họ thường nói vòng vo và mong muốn nhận được sự thấu hiểu của
đối phương khi giao tiếp. Họ không bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình rõ
ràng mà luôn giữ cảm xúc đó ở một giới hạn rất mơ hồ. Do vậy không phải dễ
dàng để biết được liệu đối phương đang nghĩ gì, cảm nhận như thể nào.
Ví dụ, khi được rủ đi xem phim mà không thể đi, họ thường thể hiện ý muốn
đi nhưng sau đó sẽ đưa ra những lí do khách quan, thậm chí không đưa ra
một lý do cụ thể nào hết bằng cách nói lấp lửng .
Còn ở Việt Nam, đa số người ta sẽ nói ra vấn đề của mình rằng có việc bận,
hoặc thậm chí nói thẳng là không muốn đi vì một lí do nào đó. Đối với tư
duy người Việt, nói thẳng ra vấn đề chính là cách minh chứng cho sự thành
thật của mình đối với đối phương.
Tiếp theo, là vấn đề của xã hội Nhật, khi mà người phụ nữ rất ít đi làm
và dù đi làm cũng rất khó lên được địa vị chức vụ cao như nam giới. Dù
những năm gần đây phụ nữ Nhật bắt đầu đi làm nhiều hơn trước, nhưng tỉ lệ
này hiện nay cũng rất ít. Trung bình chỉ 10% phụ nữ làm quản lí ở Nhật,
thấp hơn các nước phát triển khác và chắc chắn thấp hơn Việt Nam. Nhiều
phụ nữ Nhật học cao, vào công ty tốt với mục đích lấy được những anh chồng
học cao, làm ở công ty tốt, sau khi kết hôn thì nghỉ làm. Đây là một sự
lãng phí nguồn lực lao động. Cùng với việc hô hào thu hút lao động chất
lượng cao nước ngoài vào Nhật để bù đắp cho sự giảm dân số lao động, Nhật
nên tạo điều kiện hơn nữa cho những phụ nữ đi làm như nam giới.
Và một điều dễ nhận thấy là người Nhật rất đúng giờ – đó là nhận định mà
hầu hết người nước ngoài đưa ra khi tiếp xúc với người Nhật, với văn hoá
Nhật. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy khi đối chiếu lịch trình giờ tàu
chạy với điểm thời gian thực tế mà tàu đến ga, hoặc khi sắp xếp một cuộc
hẹn với người Nhật và luôn thấy họ đến trước giờ hẹn ít nhất 5 phút. Thói
quen đó ăn sâu vào mỗi cá nhân và dần trở thành một quy tắc ngầm, một ý
thức cơ bản. Người Nhật luôn tránh làm phiền người khác. Do vậy tới trễ
hẹn được coi là hành vi thiếu lịch sự, làm tổn hại tới người khác. Việc
đúng giờ là điều nên làm trong mọi tình huống. Vì thế mà ta có thể dễ dàng
bắt gặp cảnh tượng nhân viên công ty chạy vội cho kịp giờ làm, cảnh bước
chân vội vã trên khắp các đường phố.
Trong khi đó, ý thức tuân thủ nguyên tắc về thời gian ở Việt Nam dường
như chưa được đề cao đúng mức. Việc trễ hẹn năm bảy phút là chuyện thường
tình. Và cũng chẳng mấy ai phàn nàn về điều đó bởi nó đã ăn sâu vào nếp
sống. Và sự cố gắng để thay đổi một hành vi mà cả xã hội chấp nhận dường
như không mấy được lưu tâm.
“Điều Nhật khác Việt Nam” tiếp theo này rất đặc biệt. Đó là ở Nhật, việc
nổi bật không phải lúc nào cũng tốt.Từ mẫu giáo đến hết cấp 3 học sinh có
đồng phục- trăm người như một để tránh nổi bật và học sinh không mất thời
gian chú ý đến ngoại hình, khi đi xin việc mọi người cũng mặc cùng 1 kiểu
vest đen, đi cùng một kiểu giầy, chải cùng 1 kiểu tóc để tránh thu hút sự
chú ý của người phỏng vấn bằng ngoại hình. Để sống hoà hợp ở Nhật khả năng
cần thiết là phải biết “đọc không khí” – khả năng hoà nhập và đôi khi là
phải cố hùa theo xung quanh mệt mỏi. Công ty Nhật đề cao khả năng chia sẻ
kiến thức, giúp đỡ người khác cùng phát triển, chứ không đề cao một tài
năng sáng chói lẻ tẻ.
Còn ở Việt Nam, nếu không nổi bật chúng ta khó làm được gì cả. Tư tưởng
cá nhân của người Việt cũng mạnh mẽ và chi phối nhiều hoạt động. Bạn giỏi
thì bạn phải giữ cái giỏi đấy cho mình, nếu bạn chia sẻ kiến thức hay cho
người khác rất có thể họ sẽ giỏi hơn bạn và vị thế của bạn bị đe doạ. Đây
là sự thực mà các công ty Nhật ở Việt Nam rất khó thay đổi khi họ muốn các
nhân viên của mình truyền đạt kinh nghiệm và kiến thức cho nhau để cùng có
1 tập thể lớn mạnh.
Tạm kết lại, vậy phong cách làm việc ở đâu tốt hơn? Điều này thật khó
nhận xét. Chỉ biết rằng, văn hóa, thói quen ở mỗi dân tộc, đất nước là
khác nhau nên sẽ có những suy nghĩ khác nhau. Cái chúng ta cần là học hỏi
những điều tốt của nhau, tránh những điều chưa tốt, để xã hội luôn luôn
phát triển.