Phân tích Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau

Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta"

(ĐCSVN) - Sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng (9-3-1945), toàn bộ nội dung Hội nghị được đồng chí Trường Chinh phản ánh một cách cô đọng, chính xác trong bản Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng cho ban hành rộng rãi bản Chỉ thị lịch sử nói trên.

Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (9/1945). Ảnh tư liệu

Bản Chỉ thị phân tích rõ nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đảo chính Nhật-Pháp ở Đông Dương:

“1- Hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo như Đông Dương.

2- Tàu Mỹ sắp đánh vào Đông Dương. Nhật phải hạ Pháp để trừ cái hoạ bị Pháp đánh sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ.

3- Sống chết Nhật phải giữ lấy cái cầu trên con đường bộ nối liền các thuộc địa miền Nam Dương với Nhật; vì sau khi Phi Luật Tân bị Mỹ chiếm, đường thủy của Nhật đã bị cắt đứt".

Bản Chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương "một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc", làm cho những điều kiện của cuộc khởi nghĩa Đông Dương chưa chín muồi đang đi tới chín muồi nhanh chóng. Ba cơ hội tốt giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chóng chín muồi là:

a) Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng).

b) Nạn đói ghê gớm (quần chúng oán ghét quân cướp nước).

c) Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật)".

Bản Chỉ thị chỉ rõ: sau cuộc đảo chính "đế quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính-kẻ thù cụ thể trước mắt - duy nhất của nhân dân Đông Dương". Do đó phải thay đổi khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật", thực hiện khẩu hiệu "Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương”.

Bản Chỉ thị yêu cầu các cấp bộ Đảng phải "Thay đổi mọi hình thức tuyên truyền, cổ động tổ chức và tranh đấu cho hợp với thời kỳtiền khởi nghĩa”,phải cổ động quần chúng mạnh dạn ra đường đấu tranh, phá kho thóc của bọn đế quốc để giải quyết nạn đói, nhằm "Phát động một cao tràoKháng Nhật cứu nướcmạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy có thể bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị, phá phách cho đến những hình thức cao như biểu tình thị uy võ trang, du kích" và "Sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện".

Bản Chỉ thị nêu trường hợp thuận lợi cho tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật. Bản Chỉ thị dự kiến khi quân Đồng minh “bám chắc" và "tiến mạnh" trên đất ta, quân Nhật kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau tương đối sơ hở, lúc đó ta có thể phát động tổng khởi nghĩa.

Bản Chỉ thị cũng nêu cao tinh thần chủ động dựa vào sức mình của chính nhân dân ta: "dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ lại vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ, và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940, và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi".

Chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời của Trung ương Đảng với tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Chỉ thị là "phải hành động ngay hành động cương quyết nhanh chóng, sáng tạo chủ động, táo bạo". Bản Chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trong cao trào chống Nhật, cứu nước, và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.

- Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 364-373.

- Tạp chíLịch sử Đảng,số 2-1992.

Xem thêm tài liệu tham khảo TẠI ĐÂY.

Sau khi Nhật vào Đông Dương, để tiến hành quá trình xâm lược của mình, Nhật đã bắt tay với thực dân Pháp tiến hành đàn áp phong trào cách mạng ở Việt Nam. Tuy nhiên mâu thuẫn về quyền lợi giữa chúng ngày càng gia tăng, nguy cơ nổ ra xung đột ngày càng cao và tất yếu phát-xít Nhật sẽ hất cẳng thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương. Cũng từ rất sớm, Đảng ta đã phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, nhận định phát-xít Nhật sẽ đảo chính hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình mới.

Thực tiễn lịch sử chứng minh những dự báo mà Đảng đưa ra hoàn toàn đúng đắn, chính xác. Lúc bấy giờ trên thế giới, với chiến thắng của Liên Xô và các lực lượng đồng minh trước chủ nghĩa phát-xít, thời cơ cách mạng đã đến với nhiều nước trên thế giới khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Hàng loạt cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nổ ra thắng lợi, hình thành một hệ thống các nước chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Á, Phi, Mỹ la-tinh đứng trước vận hội lớn của lịch sử trong đó có Việt Nam.

>> Xem thêm:

Lúc bấy giờ, vấn đề “cuộc đảo chính của phát-xít Nhật” luôn luôn được đề cập trong những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng trong những năm đầu 1945, định hướng công tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, đã khai mạc tại chùa Đồng Kỵ, sau đó họp tiếp tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12-3-1945.

Chỉ thị xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật, do đó phải thay đổi khẩu hiệu “đánh đuổi Nhật, Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật” chống lại chính quyền Nhật và chính phủ bù nhìn của bọn Việt gian thân Nhật.

Chỉ thị nhấn mạnh: cuộc đảo chính đã tạo ra ở Đông Dương “một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc”(1), tuy nhiên , “những điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi”(2) vì quân Pháp tan rã, song quân Nhật chưa đến mức hoang mang cực độ, các tầng lớp trung gian chưa ngã hẳn về phía cách mạng, đội quân tiên phong chưa sẵn sàng.

Nội dung được trích từ bài viết “Bối cảnh ra đời của Chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” được đăng tải trên Website của Trường Chính trị tỉnh Bình Phước

          Ngay trong đêm 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cỏi Đông Dương, thì Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp để nhận định, đánh giá tình hình về cuộc đảo chính Nhật - Pháp, đến ngày 12/3/1945 ra bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.
          *Nội dung:
          - Vạch rõ nguyên nhân và hậu quả của cuộc đảo chính.
          + Nguyên nhân: Vì mâu thuẩn giữa Nhật Pháp ngày càng gay gắt không thể đều hòa được (vì hai tên đế quốc không thể cùng ăn chung một miếng mồi béo bở)
          + Hậu quả: Gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm tình thế cách mạng xuất hiện.
          - Xác định kẻ thù:Kẻ thù chính duy nhất của nhân dân ta lúc này là phát xít Nhật và bọn tay sai của chúng.
          - Khẩu hiệu đấu tranh:Thay khẩu hiệu đánh đuổi đế quốc phát xít Pháp Nhật bằng khẩu hiệu đánh đuổi Phát xít Nhật.
          - Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
          Ngoài ra, Chỉ thị này cũng vạch rõ: Do tương quan lực lượng giữa ta và địch ở mỗi địa phương không giống nhau, cách mạng có thể chín muồi ở các địa phương cũng không đều nhau nên nơi nào thấy so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cách mạng thì lãnh đao quần chúng đứng lên tiến hành những cuộc khởi nghĩa từng phần, giành thắng lợi từng bộ phận rồi tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc.
          *Ý nghia.Chỉ thị, “Nhật pháp băn nhau và hành động của chúng ta”, có giá trị và ý nghĩa như một chương trình hành động, một lời hiệu triệu, một lời dẫn dắt dân ta tiến hành một cao trào kháng Nhật cứu nước, tạo cơ sở cho sự sáng tạo của các địa phương trên cơ sở đường lối chung của Đảng.
2. Diễn biến và ý nghĩa của cao trào kháng Nhật cứu nước.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng (9/3/1945) và bản chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945).Cả nước dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho tổng khởi nghĩ tháng Tám.
          *Tại Quảng Ngãi. Ngày 11/3/1945, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ đã nổi dậy giết giặc cướp đồn, thành lập chính quyền cách  mạng, thành lập đội du kích Ba Tơ và căn cứ địa cách mạng Ba Tơ.
          *Tại căn cứ địa Việt Bắc: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu Quốc quân đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn thuộc các tỉnh Cao Băng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên (khu giải phóng Việt Bắc được thành lập).
          *Tại các đô thị lớn Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn..liên tiếp nổ ra những cuộc biểu tình chống Nhật, lôi cuốn hàng triệu người tham gia.
          *Tại các vùng nông thôn: Phong trào kháng Nhật cứu nước cũng dâng lên mạnh mẽ, tiêu biểu nhất là phong trào “Phá kho thóc của Nhật giải quyết nạn đói”,phong trào được quần chúng hưởng ứng rất đông đảo.
          Như vậy, tới những ngày đầu tháng 8/1945 cao trào kháng Nhật diễn ra ngày càng sôi sục. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa đã trở nên hết sức khẩn trương, quần chúng đã sẵn sàng, chỉ chờ chờ cơ hội là đứng lên tổng khởi nghĩa.
          3.Ý nghĩa lịch sử của cao trào kháng Nhật cứu nước.
          - Cao trào kháng Nhật cứu nước là bước phát triển vượt bậc của cách mạng nước ta làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa tháng tám thắng lợi.
          - Cao trào đã lôi cuốn hàng triệu quần chúng tham gia, rèn luyện cho quần chúng nhiều hình thức đấu tranh phong phú, quyết liệt.
          - Qua cao trào, lực lượng cách mạng (bao gồm cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang ở cả nông thôn và  thành thị ) đã phát triển vượt bậc, trong khi lực lượng kẻ thù bị suy yếu nhanh chóng đưa tới thời cơ tổng khởi nghĩa tháng Tám chín muồi.
          Với những ý nghĩa đó, cao trào kháng Nhật cứu nước là cuộc tập dược vĩ đại để đưa quần chúng tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền..
 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Video liên quan

Chủ đề