Thực dân Pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì và Trung Kì trong những năm 1882-1884
Show
II. Thực dân Pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì và Trung Kì trong những năm 1882-1884 1. Quân Pháp đánh chiếm Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì lần thứ hai (1882 - 1883) * Nguyên nhân: - Từ những năm 70 của thế kỉ XX, nước Pháp chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Yêu cầu về thị trường, nguyên liệu, nhân công và lợi nhuận đặt ra cấp thiết => Thực dân Pháp ráo riết xúc tiến âm mưu xâm lược toàn bộ Việt Nam. * Thủ đoạn: - Phái gián điệp ra Bắc điều tra tình hình bố phòng của Việt Nam. - Vu cáo triều đình nhà Nguyễn vi phạm Hiệp ước Giáp Tuất để lấy cớ kéo quân ra Bắc. * Hành động xâm lược - Ngày 03/04/1882, Đại tá Ri-vi-e đổ bộ lên Hà Nội. - Ngày 25/4/1882, Pháp gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu, yêu cầu giao thành trong ba tiếng đồng hồ. Chưa hết hạn, quân Pháp đã nổ súng chiếm thành, sau đó chiếm mỏ than Hồng Gai, Quảng Yên, Nam Định. Henri Rivie 2. Nhân dân Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì kháng chiến -Quan quân triều đình và Tổng đốc Hoàng Diệu anh dũng chiến đấu bảo vệ thành Hà Nội. Khi thành mất, Hoàng Diệu tự vẫn. Triều Nguyễn hoang mang, cầu cứu nhà Thanh. -Nhân dân ta dũng cảm chiến đấu chống Pháp: + Các sĩ phu không tuân lệnh triều đình, tiếp tục tổ chức kháng chiến. + Quân dân ta tích cực chiến đấu, gây cho Pháp nhiều khó khăn, tiêu biểu là trận Cầu Giấy lần hai (19/05/1883), giết chết Ri-vi-e. Ý nghĩa:Chiến thắng Cầu Giấy thể hiện rõ quyết tâm tiêu diệt giặc của nhân dân ta. Tuy nhiên, triều đình Huế vẫn nuôi ảo tưởng thu hồi Hà Nội bằng con đường thương thuyết. ND chính
Sơ đồ tư duy Thực dân Pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì và Trung Kì trong những năm 1882-1884 Loigiaihay.com
Lý do nào thúc đẩy thực dân Pháp quyết tâm xâm chiếm bằng được Bắc Kì lần thứ hai (1883)?Câu 49698 Vận dụng Lý do nào thúc đẩy thực dân Pháp quyết tâm xâm chiếm bằng được Bắc Kì lần thứ hai (1883)? Đáp án đúng: c Phương pháp giải Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873 – 1884) --- Xem chi tiết ...Nguyên nhân xấu xa thúc đẩy thực dân Pháp xâm lược bắc kỳ lần thứ hai Năm 1882 đến 1883 là gìTHUC DAN PHAP ĐANH BAC KY LAN 2 (1882 1883)
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 20 trang ) THỰC DÂN PHÁP ĐÁNH BẮC KÌ LẦN 2 (1882 – 1883) 1 THỰC DÂN PHÁP ĐÁNH BẮC KÌ LẦN HAI (1882 – 1883) Lời mở đầu Năm 1802, sau khi đánh bại triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là Gia Long. Đây là vương triều cuối cùng trong xã hội phong kiến Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập và thừa hưởng thành quả to lớn của phong trào Tây Sơn trong sự nghiệp thống nhất đất nước. sự tồn tại của nhà Nguyễn trong một hoàn cảnh đặc biệt của đất nước mà còn trong tình hình thế giới có nhiều chuyển biến. Thắng lợi của chủ nghĩa tư bản Tây Âu đã kéo theo sự phát triển của công nghiệp và của sự giao lưu buôn bán quốc tế. Hàng loạt nước Châu Á lần lượt rơi vào ách đô hộ thực dân. Việt Nam cũng không tránh khỏi nguy cơ đó. Từ khi ra đời, trong hơn nửa thế kỷ tồn tại triều.Nguyễn cũng đã có nhiều chính sách để phát triển, tuy nhiên sự phát triển đó rất chậm hơn nữa lại không phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, đồng thời trong lòng xã hội phong kiến lúc đó cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn sâu sắc, triều Nguyễn đã biểu hiện ngày càng rõ sự khủng hoảng suy yếu của mình. Đây là điều kiện thuận lợi cho các nước tư bản phương tây sang xâm lược. Việt Nam là nước giàu tài nguyên thiên nhiên nếu chiếm được sẽ có rất nhiều thị trường và nguyên liệu phục vụ cho chính quốc sau nhiều cuộc thăm dò tìm, lấy cớ triều đình Huế không nhận quốc thư làm nhục quốc thể Pháp ngày 31/08/1858 Pháp dàn trận ở mặt biển Đà Nẵng. 01/09/1858: Sau khi đưa thư buộc triều đình Huế nộp thành không có hiệu quả Pháp đã đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Pháp bắt đầu chĩa súng, nhả đạn vào Việt Nam. Ngay từ đầu quân dân ta đã anh dũng chống trả quân xâm lược đẩy lùi nhiều cuộc tấn cống của chúng nhiều chiến thuật được thực hiện một cách linh hoạt trong suốt quá trình chống quân xâm lược Pháp. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà quân dân ta chưa đánh đuổi được chúng ra khỏi lãnh thổ trong đó có nguyên nhân do chênh lệch lực lượng giữa ta và địch, vũ khí của ta còn thô sơ không so kịp với vũ khí lợi hại của chúng. Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình phong kiến chúng đã lần lượt tấn công và chiếm đánh các tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Tây Nam Kỳ không dừng lại ở đó chúng đó mở rộng đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873-1874) mặc dù phong trào kháng chiến của nhân dân Bắc Kì đã diễn ra rất sôi nổi nhưng do triều đình lo sợ lung túng trước quân địch, bỏ lỡ thời cơ tốt để phản công không cùng với nhân dân chống giặc mà lạ ra lệnh cho quân rút lên Sơn Tây tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đàm phán tiếp đó một bản hiệp ước mới được kí kết tại Sài Gòn vào ngày 15/03/1874 ( hiệp ước Giáp Tuất). Nhận thấy sự bạc nhựơc và thái độ cầu hòa của triều đình chúng lại đem quân ra đánh Bắc Kỳ lần 2. Âm mưu của chúng trong lần tấn công này thế nào? Nhân dân Bắc Kỳ đã chống Pháp ra sao? Và kết quả như thế nào là lý do chúng tôi chọn đề tài này xin mời thầy cô và các bạn cùng theo dõi. 2 I – THỰC DÂN PHÁP ĐÁNH BẮC KÌ LẦN THỨ HAI (1882 – 1883) 1- Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ hai. Sau khi triều đình Huế kí hiệp ước 1874 cắt thêm đất dâng cho thực dân Pháp và công nhận thêm nhiều đặc quyền đặc lợi của Pháp ở Việt Nam, đã vấp phải sự phản ứng gay gắt của nhân dân cả nước đặc biệt là ở Trung và Bắc Kì, liền ngay sau khi hiệp ước được kí kết các phong trào của nhân dân chống Pháp và phong kiến đầu hàng ngày càng cao. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa do văn thân sĩ phu lãnh đạo như Trần Tấn, Đặng Mai Nguyễn Huy Điển ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Nghĩa quân đánh chiếm được tỉnh lị Hà Tĩnh cùng nhiều phủ huyện thuộc hai tỉnh và đang tìm đường phát triển lực lượng lên phía Bắc và vào các tỉnh ở phía Nam. Nhưng triều đình đã dồn lực lượng dập tắt tàn nhẫn các cuộc khởi nghĩa vào cuối năm 1874. Điều này đã thể hiện sự phẫn nộ đến cùng của nhân dân và ngay cả những người trong hàng ngũ lãnh đạo. Nó cho thấy nhà nước phong kiến Nguyễn đang đi xuống, từng bước xa rời quần chúng nhân dân. Tình hình trong nước ngày càng trở nên rối ren khi mà ở khắp nơi, ngoài Bắc Kì có đám “giặc giã”, “cướp biển” quấy rối, nhiều đám do thực dân Pháp xúi dục gây khó khăn cho triều đình. Tiêu biểu là dư đảng của Tạ Văn Phụng ở Hải Dương, Quảng Yên. Nhiều toán thổ phỉ Trung Quốc sang cướp phá nhân dân vùng biên giới. Triều đình Nguyễn – đứng đầu là vua Tự Đức vẫn không nhận ra bản chất sự việc, lại dốc hết sức và lực lượng quân sự vào việc đàn áp tiêu diệt chúng. Tồi tệ hơn, triều đình còn yêu cầu thực dân Pháp và cầu cứu quân Thanh tiêu trừ các cuộc khởi nghĩa. (nguyentl.free.fr) Triều đình ngày càng lấn sâu vào trì trệ, nhiều tư tưởng cải cách tiến bộ đưa ra để giải quyết khó khăn trong nước bị bác bỏ. Từ sau 1874, trước nguy cơ mất nước ngày một gần, phong trào gửi các đề nghị cải cách lên triều đình so với trước còn rộng rãi hơn, không phải chỉ giới hạn trong một số sĩ phu yêu nước tiến bộ mà còn lan rộng cả đến một số quan lại tại triều đình. Đáng chú ý hơn cả là hai bản điều trần của Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895) bao gồm nhiều đề nghị cụ thể và xác đáng về trấn hưng dân khí, không thông dân trí, bảo vệ đất nước. Nhưng do đầu óc bảo thủ, cố chấp sợ Pháp ngăn trở làm khó dễ, trước sau triều đình ngoan cố khước từ mọi đề nghị duy tân đất nước. Nếu vì áp lực mà triều đình phải thi hành một vài cải cách thì đó cũng chỉ lấy làm lệ, nhỏ giọt, không đáng kể so với yêu cầu của thời cuộc, rồi nửa chừng viện cớ khó khăn thôi không làm nữa. Kết quả là kinh tế ngày càng suy sụp, tài chính ngày càng kiệt quệ, rối ren về chính trị và mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, nhân dân 3 phải đi phiêu tán khắp nơi để kiếm sống. Đã thế thiên tai hạn hán trong thời kì này lại xảy ra liên miên, riêng trận đói năm 1879 đã làm hàng chục vạn người chết. 2- Âm mưu xâm lược Bắc Kì lần thứ hai của thực dân Pháp. Thực dân Pháp phát triển nhanh chóng đặc biệt sau năm 1874 chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn mới – chủ nghĩa đế quốc. Nền kinh tế của chủ nghĩa đế quốc yêu cầu cao về lợi nhuận, thị trường, nguyên liệu, nhân công, thế lực Tư Bản tài chính ở Pháp mạnh tri phối hoạt động đối nội đối ngoại. Pháp từ việc chiếm ba Tỉnh miền Đông Nam Kì , Sau đó chiếm tiếp ba Tỉnh Tây Nam Kì, thời kì này chúng càng xúc tiến việc xâm lược cả Việt Nam. Đánh Bắc kì không chỉ dừng lại ở nhóm con buôn hiếu chiến mà còn trở thành chủ trương chung của Tư Bản nắm chính quyền ở Pháp. Lợi dụng những điều kiện thuận lợi của hiệp ước 1874 Pháp cho người ra Bắc thăm dò tình hình nội trị, địa thế, sông nước, dò tài nguyên, đường sắt, đường biển…gửi thông tin về Pháp. Lấy cớ việc triều đình Nguyễn nhờ giả quyết nạn “giặc giã”, thổ phỉ nên Pháp tăng cường lực lượng nhiều hơn. Lowmia Đờvila sang làm thống đốc Nam Kì (1879) chấm dứt thời kì độc tài quân sự dài 20 năm (1859 – 1879) của bọn đô đốc. Chúng chú ý củng cố thuộc địa Nam Kì về mọi mặt để chuẩn bị cho việc mở rộng xâm lược ra Bắc Kì. Nhiều hành động bịp bợm về chính trị, củng cố hoạt động quân sự: đẩy mạnh bắt lính nhiều đội mã tà và lính tập được thành lập để trấn áp nhân dân Miền Nam và xâm lược Miền Bắc. Kinh tế: ra sức vơ vét bóc lột, đánh vào mọi loại thuế, thuế muối, thuế chợ,thuế đò,… nạn sưu dịch tăng lên. Về tư pháp, ở các tỉnh và Sài Gòn, Đờvile nhằm liên kết chặt chẽ hơn các tầng lớp trong xã hội. Những hành động trên của thực dân Pháp cho thấy: Pháp đã chuẩn bị chu đáo về mọi mặt để xâm lược Bắc Kì lần thứ hai; đây chính là hậu phương vững chắc để chúng hoàn thành việc xâm lược Việt Nam. Hơn nữa Pháp xúc tiến đánh Bắc Kì để cạnh tranh thuộc địa với Anh, Tây Ban Nha. 3- Thực dân Pháp đánh Hà Nội và các tỉnh Bắc Kì. 1882 Pháp lấy cớ triều đình Huế vi phạp hiệp ước 1874 như cho đoàn quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc ngăn trở việc tàu thuyền đi lại buôn bán tên sông Hồng, tiếp tục chính sách tàn sát đạo, giao thiệp với nhà Thanh, đàn áp những người cộng tác với Pháp,… Chuẩn bị mọi mặt xong xuôi, chính phủ Pháp bắt đầu gửi thêm quân sang tăng viện cho đội quân đồn trú ở Bắc Kì. Thêm vào đó sự trì trệ ươn hèn của nhà Nguyễn là điều kiện thuận lợi cho Pháp hành động.03/04/1882, Đại tá hải quân Rivie đưa quân tiến vào Hà Nội và dở trò khiêu khích. Chỉ huy Pháp đòi tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu phải rút quân ra khỏi thành để chúng vào đóng quân trong thành và phá hủy các công sự phòng thủ trên mặt thành. Tình hình Hà Nội hết sức căng thẳng. Hoàng Diệu vì chưa có lệnh của triều đình nên chưa giám dối phó ngay, mặc dù thưc dân Pháp đã vi phạm trắng trợn hiệp ước 1874. Về phía ta, từ sau khi khi thực dân Pháp đánh chiếm lần thứ nhất, thành Hà Nội đã được tu bổ lại, tường thành được đắp dày hơn và cao thêm, cửa thành được làm bằng gỗ lim dày chắc, sau mỗi cửa có xếp nhiều bao đất và cây gỗ lớn 4 để bảo vệ,còn đắp thêm hai dãy tường chéo thước thợ để che trở cho các kho tàng và nhà cửa trong thành. Số đại bác cũng được bổ sung thêm. Còn số quân trong thành không rõ là bao, nhưng chắc chắn là đông hơn địch nhiều lần. Hoàng Diệu ( 1829- 1882) (thanglonghanoi.com) Đáng chú ý là rút kinh nghiệm thất bại 9 năm về trước (1873), lần này Hoàng Diệu tuy vẫn để một số lớn quan quân đóng giữ trong thành, nhưng cũng bố trí một số quân bên ngoài thành để hỗ trợ tác chiến khi thành bị tấn công. Không những vậy ông và các quan lại có trách nhiệm ở Bắc Kì hồi đó còn trình lên triều đình, một kế hoạch phòng thủ dựa vào thế mạnh của vùng thượng du rừng núi để bảo vệ miền Trung Châu, nhưng không được chấp nhận. Quân Pháp đổ bộ lên Hà Nội ngày càng đông thêm, Hoàng Diệu ra lệnh gấp cho các địa phương tâu lên triều đình xin thêm viện binh. Hoàng Tá Viêm cũng xin được đem quân về tập trung ở Trung Châu để kịp thời đối phó. Nhưng Tự Đức cả hai lần đều xuống chiếu khiển trách. Cách đối phó chính của Tự Đức lúc đó vẫn là thương thuyết với Pháp. Lúc thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Hà Nội, Tự Đức vẫn lo cử phái viên vào Gia Định thương thuyết. Trong khi đó thì Rivie ngay sau khi đặt chân tới Hà Nội đã lộ rõ bộ mặt xâm lược, mặc dù vẫn tuyên bố lần này đưa quân ra Bắc là để “Đánh đuổi Lưu Đoàn, bảo vệ buôn bán”, có xứ mệnh “hòa bình và thân thiện”. Y cho binh lính Pháp vác súng nghênh ngang đi lại ngoài thành và phao tin rằng sẽ đem quân vào đóng trong thành. Y còn buộc Hoàng Diệu phải triệt quân ra khỏi thành và phá hủy các công sự phòng thủ. Rivie (diepdoan.violet.vn) Ngày 10/04/1882, y gửi thư cho Đờ Vile ở Sài Gòn xin thêm 10 vạn viên đạn và 150 cân chất nổ. ngoài ra y còn tập trung về Hà Nội số súng đạn của sư đoàn hải quân Pháp đóng tại Hải Phòng, điều thêm mấy đại đội lính từ Hải Phòng lên, phái tàu chiến đi Phát Diệm bắt liên lạc với bọn gián điệp đội lốt giáo sĩ Pháp hoạt động trong vùng. 5 Chờ khi có viện binh từ Sài Gòn ra, mờ sáng 25/04/1882, Rivie gửi tối hậu thư cho Hoàng Diệu buộc trong ba tiếng đồng hồ, quân đôi triều đình phải hạ khí giới, giao thành, còn Hoàng Diệu và các quan văn võ trong thành phải đến nộp mình cho Pháp. Hạn trả lời chưa hết, giặc Pháp đã nổ súng. Từ 8 giờ đến 10 giờ sáng, tàu chiến địch ở dưới sông thi nhau nhả đạn vào thành, đồng thời bộ binh của chúng xông lên đánh thành. Ngay từ đầu chúng đã vấp phải tinh thần quyết chiến của nhân dân Hà Nội, tự tay châm lửa đốt các dãy phố chạy dài theo bờ sông, tạo thành một bức tường lửa ngăn cản bước tiến của giặc. Phải đợi cho lửa tàn, đến khoảng 10 giờ rưỡi, chúng mới băng qua được chiến hào đầy nước và bùn để tấn công thành. . Pháp chuẩn bị tấn công thành Hà Nội (pda.vietbao.vn) Ngay từ khi thực dân Pháp bắt đầu nổ súng, Hoàng Diệu đã dẫn đầu tướng sĩ xông lên mặt thành chỉ huy cuộc chiến đấu. Trận đấu đang diễn ra ác liệt thì kho thuốc súng trong thành đột nhiên bốc cháy khiến cho tinh thần quân sĩ hoang mang dao động. Chớp thời cơ, quân Pháp dốc lực lượng phá vỡ cửa Tây và cửa Bắc, rồi ồ ạt tràn vào thành Khi thấy cửa thành bị phá và quân sĩ rối loạn không thể duy trì cuộc chiến đấu được nữa, Hoàng Diệu quay về dinh mặc triều phục chỉnh tề, vào Hành cung bái vọng, thảo một tờ biểu để lại cho vua, rồi vào vườn Võ Miếu thắt cổ tự tử (dưới chân cột cờ ngày nay). Các quan dưới quyền ông khi thấy không còn điều kiện chiến đấu nữa, người thì bỏ chay, người thì bị giặc bắt 6 . (vhv.vn) Sau khi chiếm xong thành Hà Nội và tịch thu được nhiều tiền bạc, Rivie cho quân phá hủy các cổng thành, phá đại bác, vứt thuốc đạn xuống hào nước, rồi cho người Án sát Tôn Thất Bá về giao cho coi một phần thành với số quân hạn chế là 200 người, còn y thì chiếm đóng hành cung. Đồng thời y còn sửa sang củng cố khu nhượng địa ngoài bờ sông để đề phòng quân ta từ ngoài đánh vào, chiếm luôn sở thương chính Hà Nội và Hải Phòng. Pháp chiếm thành Hà Nội và xây dựng lô cốt tại điện Kính Thiên (phuthuygaodua.vnweblog.com) 7 Chủ trương của thực dân Pháp lúc đó là cấp tốc trong ba ngày phải làm sao bắt vua Tự Đức kí điều ước mới, nhận cho chúng quyền đóng 600 quân tại Hà Nội, cho tàu chiến Pháp tự do đi lại khắp nơi, và cho chúng giữ độc quyền thương chính. Được như vậy, theo chúng là “đã đủ để đặt sự bảo hộ của Pháp hoàn toàn trên đất Việt Nam ít nhất là trên đất Bắc Kì”. Nghe tin Rivie chiếm Hà Nội, quân Pháp ở Sài Gòn cũng như ở Pháp hết sức vui mừng. Nhưng chúng cũng lo ngại tình hình có thể phát triển bất lợi cho chúng, như trong trường hợp toàn thể nhân dân Việt Nam nổi dậy kháng chiến, hay quân Thanh kéo sang can thiệp. Đờ Vilie ở Sài Gòn khuyên Rivie nên thận trọng, và trong thời gian chờ viện binh, cần mở cuộc thương thuyết với triều đình Huế để giao trả lại thành Hà Nội, với điều kiện nắm quyền trị an và quyền thương chính, lập đồn bên sông Hồng, loại bỏ quân cờ đen, mở cảng Nam Định, nối điện tín giữa Hà Nội và Hải Phòng. Trong khi đó, phe thực dân hiếu chiến tại Pháp cũng ra sức tranh thủ dư luận, vận động nghị viện và chính phủ Pháp bỏ thêm tiền, gửi thêm quân sang chiến trường Bắc Kì. Mặt khác bằng con đường ngoại giao, chúng tìm cách xoa dịu nhà Thanh để khỏi can thiệp vào công việc của Bắc Kì. 8 Pháp trả thành Hà Nội (vhv.vn) Triều đình Huế được tin Pháp lại đánh chiếm Hà Nội, từ vua đến quan đều vô cùng lo sợ và lúng túng không biết nên giải quyết ra sao. Giữa lúc đó thì có tàu chiến của Pháp từ Bắc vào báo tin Rivie sẵn sàng trả lại thành Hà Nội một đòn cân não đánh vào tinh thần khiếp nhược chỉ mong cầu hòa của triều đình Huế - vua tôi Tự Đức tưởng rằng tình hình sẽ giống như năm 1874, nên vội cử phái viên đi theo tàu Pháp ra Hà Nội thương lượng. Ra tới Hà Nội, Trần Đình Túc và Nguyễn Hữu Độ một mặt nhờ tiếp xúc trực tiếp với giặc nên thấy rõ âm mưu xâm lược của chúng, mặt khác cũng được chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của tinh thần yêu nước chống Pháp trong nhân dân Bắc Kì, nên đã cho người về tâu với Tự Đức hoặc dốc lực lượng toàn quốc ra đánh đuổi giặc, hoặc phái người sang Pháp và vào Sài Gòn mà thương thuyết trên thế chủ nhân của đất nước. Nhưng Tự Đức trước sau vẫn không cho đánh và bắt họ phải cố thương thuyết với phải viên Pháp ở Hà Nội, dù là với những điều kiện thu thiệt nặng nề. Để thỏa mãn ngay yêu cầu của thực dân, Tự Đức còn ra lệnh cho Hoàng Tá Viêm phải đuổi ngay đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc lên mạn ngược và giải tán các đội binh dũng các tỉnh. Rõ ràng xu hướng chính của triều đình lúc này là hòa nhượng với Pháp bằng bất cứ giá nào, nên một mặt chỉ định cho bọn Trần Đình Túc tiến hành thương thuyết ở Hà Nội, mặt khác để mặc cho tàu chiến của Pháp tự do đi lại, điều tra dò xét nhiều nơi mà không phản kháng. Ngay ở Huế triều đình cũng đã nhận nguyên tắc với đại biểu Pháp là cần làm thêm một bản phụ lục cho Điều ước 1874 trong phụ lục này sẽ ghi thêm chữ “bảo hộ”vào. Trong lúc triều đình hết sức nhượng bộ như vậy thì một số đông quan lại ngoài Bắc không chịu khuất phục đòi đánh Pháp. Hoàng Tá Viêm đã không thi hành lệnh của triều đình, vẫn cương quyết đóng quân tại Sơn Tây để lợi dụng địa hình chuẩn bị chống Pháp. Sau khi Hà Nội thất thủ lần thứ hai, trong triều đình Huế xu hướng cầu viện nhà Thanh càng mạnh hơn lên. Biết rõ ý định đó, thực dân Pháp một mặt tìm cách ngăn cản các phái đoàn của triều đình Huế sang Bắc Kinh, và làm áp lực bắt buộc triều đình Huế phải sớm kí hiệp ước mới xác nhận quyền bảo hộ của Pháp, mặt khác chuẩn bị đưa lực lượng quân sự thật mạnh ra Bắc đế đề phòng trường hợp quân Thanh tràn sang can thiệp. Thấy rõ âm mưu của thưc dân Pháp muốn nuốt hết Bắc Kì, và như vậy tất không khỏi uy hiếp trầm trọng vùng biên giới phía Nam Trung Quốc, từ mùa thu 1882, triều đình nhà Thanh bắt đầu cho quân xâm nhập Bắc Kì,đóng dải dác trên một chiến tuyến dài từ Thái Nguyên,Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn đến Bắc Ninh. Trong lúc đó thì tại Pari (Pháp) và Thiên Tân (Trung Quốc), hai bên Pháp –Thanh đang cùng nhau ráo riết thương lượng. Cuối cùng, hai bên thỏa thuận là Pháp và Thanh sẽ chia đôi Bắc Kì với điều kiện quân Thanh rút 9 khỏi Bắc Kì và Pháp không tăng thêm quân.Nhưng quân Thanh vừa rút lui thì thực dân Pháp ở Sài Gòn đã gửi thêm quân ra Hà Nội. Dã tâm của Pháp muốn độc chiếm Bắc Kì đã lộ rõ. Với lực lượng mới được tăng viện, Rivie lập tức cho quân ra chiếm đóng Hồng Gai (03/1883), khống chế cả mặt biển Bắc Kì và bảo đảm chủ quyền của thực dân trên vùng mỏ. Sở dĩ Rivie cần hành đông gấp như vậy vì y biết rõ triều đình Thanh – (đằng sau nhà Thanh là tư bản Anh) đang xúc tiến thương thuyết với triều đình Huế để xin được thuê mỏ Hồng Gai. Vài ngày sau khi chiếm đóng Hồng Gai, Rivie lại cho tàu chiến chiếm luôn Quảng Yên. Rồi thừa thắng, hắn trực tiếp kéo quân từ Hà Nội xuống đánh chiếm Nam Định. Mờ sáng 27/03, giặc Pháp bắt đầu nổ súng đánh thành. Ở đây, chiến sự cũng diễn ra gần giống như trận Pháp đánh thành Hà Nội (04/1882). II – Nhân dân Bắc Kì chống Pháp chiếm đóng lần thứ hai Phong trào kháng chiến của nhân dân (diepdoan.violet.vn) Trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân Bắc Kì lại một lần nữa đã anh dũng đứng lên chiến đấu. Ngay từ khi quân Pháp nổ súng tấn công, những kinh nghiệm chiến đấu của mười năm về trước tiếp tục được nhân dân ta áp dụng. Tinh thần yêu nước được nhân dân ta phát huy hết khả năng. 10 Tại Hà Nội, dọc sông Hồng nhân dân đã tự tay đốt nhà mình, đốt hết các dãy phố dọc theo sông Hoàng vị mé ngoài thành để phối hợp chiến đấu với đạo quân triều đình do Đề đốc Lê Văn Điếm và án sát Hồ Bá Ôn chỉ huy, tạo thành bức tường lửa làm chậm bước tiến của giặc. Khắp nơi dân chúng nổi dậy đánh trống, mồ, khua chiêng cổ vũ quân dân ta chiến đấu. Nhân dân tiến hành đầu độc binh lính Pháp, cương quyết không bán lương thực cho địch, đốt cháy các kho thuốc súng của chúng tên bờ sông Hồng, các đội dân cũng được thành lập ở các Tỉnh tự động vào làng, bất chấp lệnh của triều đình phải giải tán tình hình đó làm cho địch rất lo sợ. Đã thế hai đạo quân lớn của Hoàng Tá Viêm và Trương Quang Đản cũng đóng chặt ở Sơn Tây và Bắc Ninh, hình thành hai gọng kìm lớn xiết chặt vòng vây xung quanh Hà Nội uy hiếp quân Pháp, nhiều trận đánh đã diễn ra ở đây. Khi Pháp chuẩn bị đánh Nam Định, nhân dân Miền Bắc khắp nơi sôi nổi kháng chiến, đắp cản chặn tàu địch trên sông.Trương Quang Đản đóng quân ở Bắc Ninh cũng xin vua Tự Đức cho Lưu Vĩnh Phúc kéo đội quân cờ đen xuống đóng ở Sơn Tây cùng Hoàng Tá Viêm và xin mộ thêm quân đóng giữ mạn Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên để án ngữ mạn Bắc. Kế hoạch của Trương Quang Đản là khi Pháp đánh Nam Định thì quan quân hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên cùng phối hợp đánh mạnh và Hải Phòng để đỡ đòn cho Nam Định, hai đạo quân Sơn Tây và Bắc Ninh sẽ tiếp ứng, nhưng kế hoạch này không được Tự Đức nghe theo một mực đặt niềm tin vào phái đoàn đi Quảng Châu và Thiên Tân cầu cứu nhà Thanh. Khi nghe tin Nam Định thất thủ, ngày 27/03/1883 triều đình càng lung túng đã cách chức một loạt các quan văn võ lớn nhỏ ngoài Bắc, trong đó có Hoàng Tá Viêm. Chính lúc đó vòng vây của ta xiết chặt quanh Hà Nội, buộc Rivie tức tốc rời Nam Định về Hà Nội .Đêm mùng tám đại bác của quân ta đặt bên kia sông Hồng bắt đầu nhả đạn vào Hà Nội.Trong hai đêm 12,15 quân ta đột kích nhà thờ Hàm Long nơi địch làm căn cứ đóng quân. Trước tình hình bị uy hiếp Rivie hoảng hốt xin viện binh của Hải Phòng, của hạm đội Pháp đóng ở vịnh Hạ Long và của Sài Gòn. Để nới rộng vong vây ngày càng nghẹt thở Rivie đã có lần liều mạng kéo quân qua sông đốt phá các làng ven sông, nhưng không dám đánh lại mà đến chiều lại phải rút về cố thủ ở Đồn Thủy. Đêm đêm đại bác của quân ta từ phía Gia Lâm lại rót qua, có đêm tới 80 phát, gây nên kinh hoàng lớn trong đội quân Pháp chiếm đóng ở Hà Nội. Từ phía Sơn Tây Lưu Vĩnh Phúc cho quân đột nhập thành phố Hà Nội, dán yết thị thách thức Rivie ra đánh nhau trên cánh đồng phủ Hoài Đức. Thừa lúc đêm tối quân ta còn bí mật lẻn vào đốt phá các cơ sở địch ngay trong lòng Hà Nội. Tình hình o ép đó buộc Rivie phải tìm cách nới bớt vòng vây về phía Sơn Tây. Mờ sáng 19/05/1883, y kéo đội quân gồm 550 tên, không kể số phu tải thương, với ba đại bác dã chiến, theo đường Sơn Tây kéo lên phủ Hoài Đức. Mặc dù kế hoạch này của chúng được giữ bí mật nhưng quân ta đã biết trước nên chủ động bố trí kế hoạch tác chiến. Đại quân ta đóng ở Hoài Đức dưới quyền chỉ huy của Hoàng Tá Viêm, lực lượng nòng cốt trong trận đánh này là quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc, mai phục hai bên đường từ Hà Nội ra Cầu Giấy tại đây trận chiến đã diễn ra rất quyết 11 liệt đợi tiến liền chết đúng 5 giờ sáng, cho quân Pháp vừa qua cầu, quân ta nổ súng. Quét địch nhiều ngay từ những phút giao chiến đầu tiên. Địch tiến lui đều khó, chúng đành liều chết xông lên chiếm lĩnh trận địa hai bên đường, bố trí đại bác sau Cầu Giấy để chặn bước tiến của quân ta, rồi lừa quân vào chiếm làng Hạ Yên Khê (Kẻ Cót) sát cạnh đường. Nhưng chúng đã bị quân ta phục kích trong làng Dịch Vọng Trung (Trung thôn) bắn ra tiếp ứng cho hạ Yên Khê buộc địch phải đánh vào hai làng Dịch Vọng Tiền (Tiền thôn) và Dịch Vọng Trung (Trung thôn) để chi bớt mũi tấn công của ta, nhưng vẫn không sao tiến vào được. Giữ lúc hai bên đang ác chiến thì Lưu Vĩnh Phúc đích thân xuất trận và mãnh liệt tấn công địch buộc chúng phải rút lui. Đợi đúng lúc quân Pháp đang xô đẩy nhau chạy qua cầu quân ta nổ súng xung phong tiêu diệt thêm một số tên nữa. Lưu Vĩnh Phúc Quân cờ đen (vi.wikipedia.org) (vi.wikipedia.org) Trận Cầu Giấy lần thứ hai chỉ diễn ra chớp nhoáng trong hai giờ từ 5 giờ sáng đến 7 giờ sáng và kết thúc bằng thảm hại của thực dân Pháp những tên sống sót hoảng sợ bỏ chạy thoát thân, bọn sĩ quan phải xúm lại kéo đại bác. Tinh thần địch tan dã đến nỗi chúng bỏ lại trên cầu cả xác chết lẫn người bị thương, trong đó có cả tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc Kì là Rivie. Một tên trong bọn chúng đã ghi lại tình trạng sụp đổ tinh thần của chúng như sau: “Thực là một cuộc sống kinh khủng đối với một dúm người từng đêm chờ đợi kết liễu cuộc đời”. 12 Quân ta và quân Pháp giao chiến tại Cầu Giấy (5/1883) (vi.wikipedia.org) Với thắng lợi này, quân ta vô cùng phấn khởi mong được tiếp tục kháng chiến. Có thể nói phong trào kháng chiến của nhân dân ta không được triều đình ủng hộ do những lí do nhất định nào đó nhưng với tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc nhân dân ta vẫn một lòng quyết tâm đứng lên chiến đấu đến giây phút cuối cùng đập tan tham vọng của địch khiến chúng nhiều lúc hoang mang lo sợ. Trước khí giới của quân ta mà phải thốt lên rằng: “Người An Nam bắn súng khá”. 13 Cầu Giấy – Hà Nội (vuonlam.us) Sau chiến thắng Cầu Giấy (05/1883), triều đình Huế vẫn tiếp tục đường lối hòa hoãn như trước, hi vọng quân Pháp sẽ rút lui như năm 1873. Song tình thế lúc này đã khác, lợi dụng cái chết của Rivie, chính phủ Pháp đẩy mạnh chiến tranh và khẩn trương gửi viện binh sang Việt Nam. Tiếp đó, quân Pháp đã thông qua một kế hoạch mở cuộc tấn công thẳng vào kinh đô Huế, buộc triều đình Huế đầu hàng: “Nếu được làm hạt giống để mùa sau Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa. Vui gì hơn là người lính đi đầu Trong đêm tối tim ta thành ngọn lửa”. Áng thơ của chiến sĩ Tố Hữu như cháy lên trong ta tinh thần chiến đấu ngoan cường của dân tộc ta trong suốt trừơng kì lịch sử. Mặc dù triều đình đã từng bước đầu hàng giặc luôn tin tưởng vào “lòng tốt” của giặc, khi có điều kiện thì không cùng với nhân dân đứng lên chống giặc mà vẫn tiếp tục đường lối hòa hoãn, tạo điều kiện cho Pháp củng cố lực lượng để tiến đánh kinh thành Huế buộc triều đình đầu hàng thông qua hai bản hiệp ước Hắcmăng (25/08/1883) và hiệp ước Patơnốt (06/06/1884). Hai bản hiệp ước này đã đặt cơ sở lâu dài và chủ yếu quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam. Tuy thái độ của triều đình như vậy, song nhân dân ta vẫn quyết tâm chống thực dân Pháp xâm lược, chống bè lũ cướp nước, bán nước. Không chỉ trong thời kì này (1858 – 1884) mà nó mãi rực cháy cùng năm tháng. 14 III – Quân Pháp tấn công cửa biển Thuận An – Hiệp ước Hắcmăng (1883) và hiệp ước Patơnốt (1884). 1 – Quân Pháp tấn công cửa biển Thận An. Sau chiến thắng Cầu Giấy lần thứ hai, quân Pháp đang ở trong tình trạng chỉ cần những cuộc tập kích nhỏ của quân ta là có thể tiêu diệt hoàn toàn lực lượng ở Hà Nội. Nhưng triều đình Huế không cho quân tấn công vào mà chỉ muốn sử dụng con dường thương thuyết hòa bình để lấy lại Hà Nội. Thái độ chần chừ đó đã làm ảnh hưởng đến tư tưởng của ngay cả những người trong hàng ngũ tướng lĩnh chủ chiến như Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản,... chỉ phòng thủ chứ không mở cuộc tấn công lớn. Trong khi đó thì Pháp đã bước vào thời kì đế quốc chủ nghĩa mạnh về chính trị và quân sự. Ngày 26/05/1883 chớp thời cơ trận Cầu Giấy thất bại, chúng lớn tiếng đòi trả thù buộc dư luận trong và ngoài phải ủng hộ cuộc viễn chinh lớn, gửi thêm quân và chiến hạm vào Việt Nam. Buê được cử làm tổng chỉ huy quân đội tại Bắc Kì Để bù đắp những thiếu hụt lớn vừa qua quân sự và tài chính thực dân Pháp tích cực chuẩn bị lực lượng. Gấp rút củng cố Hà Nội và các tỉnh Hải Phòng, Nam Định thành những căn cứ vững chắc, vừa lo bắt lính ngụy và đánh thêm nhiều thứ thuế. Đồng thời với những trận đánh quy mô ở Bắc Kì, sau khi được tăng viện vào tháng 7, thực dân Pháp chuẩn bị lực lượng cho các cuộc tấn công mới. Bọn thực dân hiếu chiến họp hội nghị quân sự tai Hải Phòng đã quyết định đánh thẳng lên Sơn Tây– trung tâm kháng chiến ngoài bắc và vào Huế. Thành Sơn Tây (sontay.gov.vn) 17/07/1883 được tin vua Tự Đức qua đời và tình hình lục đục của triều đình càng tạo ra những điều kiện cho Pháp thực hiện âm mưu của mình. Ngày 15/08/1883, để dành thế chủ động, Buê đem gần 2000 quân chia làm 3 đạo có trang bị nhiều đại bác và tàu chiến yểm trợ đánh phòng tuyến đường lên Sơn Tây của ta. Nhưng cả ba đạo quân này đều bị quân ta chặn đánh kịch liệt trong hai ngày 15 và 16 cuối cùng phải tháo chạy về Hà Nội . 15 Pháp tấn công Sơn Tây(sontay.gov.vn) Cũng trong ngày 15/08, ngoài việc tấn công phía Sơn Tây, Buê còn phái một đạo quân xuất phát từ Hà Nội kéo xuống đánh chiếm Hải Dương và Quảng Yên. Cuối cùng cao ủy Pháp là Hắcmăng ra lệnh cho Cuốcbê đưa một hạm đội với 600 quân từ Đà Nẵng ra cửa biển Thuận An và uy hiếp triều đình Huế. Hắcmăng (thuvienphutho.net) Sáng ngày 18/08, Cuốcbê đưa tối hậu thư cho vua Hiệp Hòa đòi giao tất cả các pháo đài ở Thuận An trong vòng hai giờ đồng hồ. Trong lúc vua Hiệp Hòa đang do dự đình chiến hay không thì đại bác của thực dân Pháp đã tới tấp tấn công phá hủy hệ thống pháo đài Thuận An. Quân Pháp đổ bộ tấn công đánh chiếm cửa biển Thuận An (diepdoan.violet.vn) 16 Bắt đầu là cuộc đấu pháo giữa pháo đài của ta và tàu chiến của địch, nhưng đạn của ta bắn không tới tàu chiến của địch, còn pháo đài của ta bị thiệt hại nặng nề. Tiếp đến là trận đánh giáp lá cà trên bờ quanh các pháo đài và đường hầm, quân ta chống trả quyết liệt bị chết và bị thương trên 2000 người. Chiều ngày 20/08 quân Pháp bắt đầu đổ bộ và tối hôm đó chiếm được Thuận An. Các quan trấn thủ thành như Lê Sĩ, Lâm Hoành, Nguyễn Trung,... đều hi sinh trong trận chiến đấu. Sau 3 ngày cầm cự ngày 21/08/18833 vua Hiệp Hòa cư sứ giả Nguyễn Văn Tường xuống Thuận An gặp Cuốcbê xin đình chiến. Trước tình hình đó cao ủy Hắcmăng đã gặp triều đình Huế để đặt điều kiện cho điều ước mới. Triều đình cử Nguyễn Trọng Hợp và Trần Đình Túc ra thương thuyết. Một bản hiệp ước mới được Pháp chuẩn bị sẵn với 27 điều khoản được trao cho triều đình Huế và chỉ được trả lời chấp thuận hay không trong vòng 1 ngày. 25/08/1883 đại diện của triều đình đã đồng ý kí với Pháp bản hiệp ước này. 2 - Hiệp ước Hắcmăng (25/08/1883) Lễ kí Hiệp ước Hắcmăng (edu.go.vn) Hiệp ước Hắcmăng còn gọi là hòa ước Quý Mùi được kí kết tại kinh đô Huế giữa đại diện của Pháp là Francois Jules Harmand, đại diện của triều Nguyễn là Trần Đình Túc – Hiệp biện đại học sĩ, và Nguyễn Trọng Hợp – thượng thư bộ lại. Hòa ước có tất cả 27 điều khoản với nội dung là xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ nước Việt Nam. Hòa ước này chính thức đánh dấu thời kì 1883 – 1845, toàn bộ Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Đầu thập niên 1880 tình hình ở Bắc Kì ngày càng rắc rối khi pháp chủ trương xâm lược và gây hấn. Năm 1882 thủ phủ Hà Nội thất thủ Pháp chiếm toàn bộ vùng trung châu Bắc Kì. Các tỉnh Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) được đặt vào tình trạng báo động, một mặt nhà Thanh tăng cường phòng bị biên giới, mặt khác quân Thanh vượt biên giới vào Bắc Kì khi triều 17 đình Huế gửi thư cầu viện. Với danh nghĩa giúp nhà Nguyễn quân Thanh mở cuộc chiến tranh Pháp – Thanh. Trong khi đó quân của triều đình tại các tỉnh Bắc Kì phối hợp với quân Thanh cùng đánh Pháp. Cũng vào thời gian này vua Tự Đức qua đời (17/07/1883) lại không có con nối ngôi, triều đình rối ren quan phụ chính tranh nhau quyền lợi khiến vua Dục Đức ở ngôi có 3 ngày (20 đến 23/07/1883), rồi đến vua Hiệp Hòa ở ngôi có 4 tháng (30/07/1883 – 30/11/1883), rồi cũng bị phế. Vua Hiệp Hòa (hue.vnn.vn) Lợi dụng tình thế này ngày 20/08/1883 quân Pháp tấn công và chiếm lấy Thuận An, khống chế cửa ngõ thủy bộ chính lên kinh đô Huế. Trong hoàn cảnh nguy ngập bị Pháp uy hiếp sát kinh thành triều đình cử Nguyễn Trọng Hợp ra Thuận An để đình chiến với Pháp. Tổng ủy Harmand ra tối hậu thư với nhiều yêu sách ngang ngược và khắc nghiệt với 27 điều khoản và ra lệnh cho triều đình phải trả lời trong 24 giờ đồng hồ nếu không sẽ khai hỏa đánh lên kinh thành. Thư của Hắcmăng đe dọa: “Đế quốc An Nam, hoàng triều cùng các vương công đại thần sẽ tự tuyên án tử hình cho mình, cái tên Việt Nam sẽ bị xóa bỏ trong lịc sử,...” nếu vua quan nhà Nguyễn không chấp nhận toàn bộ những điều khoản đưa ra. Lúc này triều đình Nguyễn đang ở tình thế thất bại nên không thể làm gì hơn nữa ngoài việc chấp nhận bản hiệp ước này mà thôi (25/08/1883). Phản ứng của triều đình Nguyễn Đối với triều đình Huế việc kí hiệp ước không phải là sự quy phục mà chỉ là cách hoãn binh vì ngoài Bắc hai bên còn giao tranh, lại thêm viện quân của nhà Thanh vượt biên giới sang ngày càng đông nên chưa hẳn phải là thua. Ở trong triều đình thì phụ chính Tôn Thất Thuyết bí mật xây dựng phòng thủ Tân Sở nên hòa ước Quý Mùi là cách mua thời gian đợi ngày phản công. Nội dung chi tiết + Triều đình Huế công nhận sự bảo hộ của Pháp. Mặt ngoại giao cũng như việc giao thiệp với các nước ngoài cũng phải có sự ưng thuận của Pháp. + Nam Kì là xứ thuộc địa từ năm 1874 nay được mở rộng gồm cả tỉnh Bình Định và Bình Thuận thuộc Trung Kì. + Pháp có quyền đóng quân ở Đèo Ngang cửa Thuận An. Trung Kì thuộc các tỉnh từ Khánh Hòa ra đến Đèo Ngang thuộc triều đình Huế. Cắt ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh nhập vào Bắc Kì. + Khâm xứ Pháp tại Huế có quyền ra vào tự do yết kiến vua. + Ở Bắc Kì (gồm cả ba tỉnh trên) thì Pháp có quyền đặt công sứ ở đó để kiểm soát quan Việt nhưng đại để việc nội trị không ảnh hưởng. Ngoài ra hiệp ước này còn buộc triều đình Huế triệt hết quân đội ở Bắc Kì. Quân đội do các sĩ quan 18 người Pháp chỉ huy và Pháp được đóng quân ở bất cứ nơi nào cảm thấy cần thiết. + Tất cả các nguồn lợi trong nước đều do Pháp nắm giữ. Tóm lại, với ưu thế về vũ khí và điều kiện tấn công thuận lợi thực dân Pháp đã chiếm được Thuận An trong một thời gian ngắn. Với chiến thắng quân sự này Pháp đã đưa ra bản hiệp ước và được triều đình Huế nhanh chóng chấp nhận. Với bản hiệp ước này về cơ bản Việt Nam đã mất quyền tự chủ trên toàn quốc, thừa nhận sự bảo hộc của Pháp và phản bội vào lòng tin, tinh thần đấu tranh của nhân dân cả nước. 3 - Hiệp ước Patơnốt (06/06/1884) a) Hoàn cảnh Mặc dù triều đình Huế đã kí hiệp ước Hắcmăng (1883), công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam nhưng Pháp vẫn muốn tránh cuộc xung đột với quân Thanh trên chiến trường Bắc Kì. Còn triều đình nhà Thanh tuy vẫn muốn vớt vát chút quyền lợi ở Việt Nam nhưng cũng không giám có hành động quyết liệt. Cuộc thảo luận Pháp Thanh đã dẫn tới việc kí kết hiệp ước Thiên Tân (11/05/1884) gồm 5 khoản đặt cơ sở cho 1 hòa ước lâu dài về sau theo quy ước này: + Quân Thanh rút khỏi Bắc Kì thừa nhận quyền thống trị của Pháp ở Việt Nam. Quân Pháp được tự do buôn bán ở Vân Nam và Lưỡng Quảng. Quân Pháp cam kết giữ nguyên biên giới không đòi chiến phí và sẽ bảo vệ danh dự của quân Thanh. Nội dung Ngày 06/06/1884 chính phủ Pháp cử Patơnốt cùng triều đình Huế kí bản hiệp ước mới, nội dung gồm 17 điều khoản căn bản dựa trên hiệp ước Hắcmăng trước kia nhưng được sửa chữa lại một số điều khoản nhằm xoa dịu sự phản ứng có thể của triều đình và mua chuộc thêm nhiều hơn nữa giai cấp phong kiến Việt Nam đầu hàng. + Triều đình thừa nhận hoàn toàn quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam. Thực dân Pháp chia Việt Nam thành 3 xứ với 3 chế độ cai trị khác nhau nhằm phá vỡ sự thống nhất cổ truyền của dân tộc. Sau khi hiệp ước mới được kí kết với mục đích cắt đứt hoàn toàn và vĩnh viễn mọi quan hệ giữa phong kiến hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Thực dân Pháp còn bắt triều đình Huế nấu chảy chiếc ấn mà phong kiến Trung Quốc cấp cho Việt Nam. Điều ước Pa tơ nốt được chính phủ Pháp thông qua (05/07/1885) thực dân Pháp còn ghép thêm vào điều ước này một quy ước mới nữa về chế độ hầm mỏ ở Bắc Kì và Trung Kì. Đến đây giai cấp phong kiến Việt Nam đã hoàn toàn đầu hàng thực dân Pháp. Nhà nước phong kiến Việt Nam với tư cách một nhà nước độc lập, có chủ quyền đã hoàn toàn sụp đổ. Nước Việt Nam đã trọn vẹn là thuộc địa của thực dân Pháp. 19 IV. KẾT LUẬN Như vậy, sau khi mở cuộc tấn công ra Bắc Kì lần thứ hai, trước thái độ cầu hòa nhu nhược của triều đình đã tạo điều kiện cho Pháp mở rộng cuộc chiến đấu ra các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Với tinh thần yêu nước sâu sắc ý thức dân tộc đã được toàn thể nhân dân ta tiếp thu và ngày càng phát huy cao độ, mặc dù triều đình đã ngăn cản nhưng nhân dân ta đã tự động đánh Pháp với nhiều hình thức nhiều trận đánh làm quân giặc phải khiếp sợ. Chiến thắng Cầu Giấy (19/05/1883) làm nhân dân cả nước vô cùng phấn khởi, lúc này chỉ cần triều đình cùng nhân dân tham gia chống giặc thì sẽ đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi nước ta. Nhưng triều đình vẫn hi vọng chỉ cần thương thuyết thì sẽ chuộc lại phần đất đã mất, từng bước xa rời quần chúng nhân dân tạo thêm thời gian và điều kiện cho Pháp có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng tấn công cửa biển Thuận An - triều đình đi tới đầu hàng hoàn toàn giặc, thông qua hai bản hiệp ước Hăcmăng và Patơnốt đã chính thức xác lập quyền cai trị của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam. Về căn bản, từ nay nước ta đã mất quyền tự chủ trên phạm vi toàn quốc. Triều đình dã chính thức thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp, mọi công việc chính trị, kinh tế, ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp nắm giữ. Tại Huế sẽ đặt chức khâm sứ để thay mặt chính phủ Pháp, nhiều nơi khác đặt chức Công sứ,có quân đội bảo vệ, có quyền thu thuế, … triều đình đã phản bội nhân dân cả nước và từng bước đầu hàng giặc, xa rời quần chúng nhân dân. Không thể không nhắc tới trách nhiệm trong việc để mất nước của triểu đình. Nếu triều đình có nhiều biện pháp cải cách tình hình đất nước trên mọi phương diện, củng cố quốc phòng, có nhiều chính sách tiến bộ phù hợp với tình hình chung và xu thế của thế giới thì đâu dẫn tới tình trạng thiếu hụt ngân sách, kinh tế ngày càng lạc hậu, đời sống nhân dân ta ngày càng khổ cực như vậy? . Nếu triều đình ngay từ đầu đã cùng với nhân dân chống Pháp, đoàn kết trong từng hoàn cảnh, tin vào sức mạnh thực sự của dân tộc và không ngừng cố gắng thì Pháp đâu có cơ hội chiếm các tỉnh Đông Nam Kì, Tây Nam Kì và mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn bộ Việt Nam, tiến tới xác lập quyền cai trị trên toàn lãnh thổ nước ta. Nếu coi việc mất nước là tất yếu thì triều đình Nguyễn cũng không thể chối bỏ được trách nhiệm này. 20 |