Nghiên cứu xây dựng quy trình nuôi trồng nấm Đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris

Chủ nhiệm dự án: CN. Thi Văn Hạt. Đơn vị thực hiện: Trung tâm Ứng dụng phát triển KHCN và Đo lường chất lượng sản phẩm. Thời gian thực hiện: 2016- 2018. Lĩnh vự nghiên cứu: Nông nghiệp.

I. Mục tiêu:

- Tiếp nhận thành công các quy trình công nghệ nuôi trồng nấm đông trùng hạ thảo được chuyển giao.

- Xây dựng mô hình nuôi trồng quả thể nấm đông trùng hạ thảo loài Cordyceps militaris tại tỉnh Lạng Sơn đạt sản phẩm chất lượng cao, hiệu quả kinh tế.

- Áp dụng được quy trình kỹ thuật nuôi trồng quả thể nấm đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris tại tỉnh Lạng Sơn, có khả năng chuyển giao quy trình kỹ thuật cho người dân và các đơn vị sản suất có nhu cầu.

II. Kết quả nghiên cứu:

- Đã đào tạo được 04 cán bộ tiếp nhận thành công quy trình công nghệ nuôi trồng quả thể nấm Đông trùng hạ thảo loài Cordyceps militaris. 

- Đã xây dựng thành công mô hình nuôi trồng quả thể nấm Đông trùng hạ thảo loài Cordyceps militaris tại tỉnh Lạng Sơn quy mô sản xuất 4.616 lọ nuôi, với các thông số trung bình đạt được:

+ Năng suất quả thể trung bình đạt 15,37g/lọ nuôi,  năng suất quả thể nấm thu được từ mô hình đạt 64,7 kg, vượt mức so với kế hoạch đề tài đặt ra là năng suất quả thể trung bình đạt trên 15g/lọ nuôi, mô hình mô hình đạt năng suất 60 kg quả thể nấm Đông trùng hạ thảo tươi.

+ Hàm Lượng chất Adenosin và Cordycepin có trong quả thể nấm đạt trung bình là 2,57 mg/g và 9,65 mg/g, vượt mức so với kế hoạch đề tài đặt ra là hàm lượng chất Adenosin đạt 0,01mg/g, hàm lượng chất Cordycepin đạt từ 9 mg/g.

+ Các chỉ tiêu vi sinh và hàm lượng một số chất không mong muốn  đều nằm trong giới hạn cho phép của Bộ Y tế đối với sản phẩm nấm.

- Nuôi trồng quả thể nấm đông trùng hạ thảo loài Cordyceps militaris trên môi trường sử dụng nguyên liệu sâu chít tại Lạng Sơn cho các kết quả:

+ Khi thay thành phần nhộng tằm trong môi trường tổng hợp bằng thành phần sâu chít Lạng Sơn với lượng như nhau  thì khả năng sinh trưởng, phát triển và năng suất quả thể nấm đông trùng hạ thảo loài Cordyceps militaris là tương tự nhau. Hàm lượng chất Adenosin và chất Cordycepin có trong quả thể nấm khi nuôi trên môi trường sử dụng sâu chít Lạng Sơn lần lượt đạt là 2,81 mg/g và 8,04 mg/g, các chỉ tiêu vi sinh và hàm lượng một số chất không mong muốn  đều nằm trong giới hạn cho phép của Bộ Y tế đối với sản phẩm nấm. Tuy nhiên, hàm lường chất Cordycepin có trong quả thể nấm đông trùng khi nuôi trên nguyên liệu có sử dụng nhộng tằm cao hơn so với khi nuôi trên nguyên liệu sử dụng sâu chít Lạng Sơn. Mặt khác, nguyên liệu sâu chít là loại nguyên liệu đa số chỉ có các tỉnh miền núi phía bắc, chỉ có thèo mùa vụ nên giá cả khá cao và rất khó chủ động trong việc chủ động nuôi trồng nấm quanh năm, do đó, nhóm thực hiện đề tài khuyến cáo là nên sử dụng nguyên liệu nhộng tằm làm nguyên liệu để sản xuất và nuôi trồng quả thể nấm đông trùng hạ thảo là biện pháp tối ưu và cho hiệu quả.

- Đã tiến hành phân lập, thuần hóa và giữ giống nấm đông trùng hạ thảo loài Cordyceps militaris từ nguồn quả thể được nuôi trồng tại Lạng Sơn đạt tiêu chuẩn giống.

- Đã tổ chức một cuộc hội thảo tại Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Lạng Sơn với 30 người tham gia để đánh giá hiệu quả mô hình nuôi trồng quả thể nấm Đông trùng hạ thảo Cordyceps militaris được nuôi trồng tại tỉnh Lạng Sơn.

III. Tổng kinh phí thực hiện:

- 639.270.000 đồng từ nguồn ngân sách sự nghiệp khoa học tỉnh.

Nguồn tin: Theo Báo cáo Đề tài

Download full-text PDFRead full-text

Đông trùng hạ thảo hiện nay có các loại: Trên xác côn trùng (thu hái trong tự nhiên và nhân tạo) và không trên xác côn trùng (lên men). Loại thứ nhất thu hái trong tự nhiên, hiện rất hiếm và đắt. Loại thứ hai nuôi cấy nhân tạo trong môi trường tự nhiên theo một quy trình riêng có thể sản xuất đại trà và đây là hướng mà Trung Quốc và Hàn Quốc đã và đang làm lâu nay. Còn loại thứ ba nuôi cấy bằng phương pháp lên men được thực hiện trong phòng thí nghiệm với những thiết bị hiện đại.

Khác với nấm Cordyceps sinensis với sản lượng rất ít và chỉ mọc trong tự nhiên, nấm Cordyceps militaris có thể được nuôi trồng trong điều kiện nhân tạo.

Hiện nay, nhiều loài nấm thuộc chi Cordyceps được nuôi trồng trên quy mô công nghiệp để tinh chế các chất có dược tính. Các sản phẩm thuốc và thực phẩm chức năng từ nấm Cordyceps militaris chiếm thị trường rất lớn trên thế giới.

Do giá trị dược liệu, giá trị kinh tế cao và tính khả thi của việc nuôi nấm Cordyceps militaris ở quy mô lớn, việc phát triển các nghiên cứu về nuôi trồng nấm Cordyceps militaris nhằm tăng quy mô sản xuất, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và chuyển giao công nghệ cho các đơn vị sản xuất để đem lại lợi ích kinh tế cho địa phương là hết sức cần thiết. Xác định khu vực thích hợp và nuôi trồng thành công Đông trùng hạ thảo trên tằm dâu tại các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu không chỉ mang lại lợi ích kinh tế (giảm được giá thành cho phù hợp với người sử dụng, tăng GDP cho địa phương, đặc biệt là ổn định thu nhập cho người dân tái định cư), mà còn có giá trị khoa học (bổ sung nguồn gen mới, quý cho khu vực) đồng thời mở rộng vùng nguyên dược liệu có giá trị cho khu vực, góp phần đảm bảo an ninh xã hội.

Với tất cả các lí do trên, Phạm Văn Nhã cùng các đồng nghiệp đến từ trường Đại học Tây Bắc đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu nuôi trồng thử nghiệm Đông trùng hạ thảo trên tằm dâu tại 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu”. Đề tài đóng vai trò hết sức cần thiết, đóng góp vào sự phát triển của khu vực Tây Bắc.

Sau đây là một số kết quả đáng chú ý mà dự án của nhóm tác giả đã thu được:

(1) Đã xác định được tính thích nghi của Đông trùng hạ thảo C. militaris trên tằm dâu (nhộng tằm dâu) tại các địa điểm có điều kiện tự nhiên như độ cao từ 800 m trở lên, nhiệt độ trung bình năm 20 - 25 độ C, độ ẩm 70 - 80%; cụ thể là 4 địa điểm (Mường É, Co Mạ - Thuận Châu - Sơn La; Tỏa Tình - Tuần Giáo - Điện Biên; Sơn Bình - Tam Đường - Lai Châu) và các địa điểm có điều kiện tương đương.

(2) Đã xây dựng được 3 quy trình nuôi trồng Đông trùng hạ thảo C. militaris với chủng NBRC 100741 trên tằm dâu ở các quy mô khác nhau:

- Quy mô phòng thí nghiệm gồm 6 bước (1- Nuôi cấy và bảo quản giống nấm C. militaris; 2- Tạo nguồn giống nấm C. militaris; 3- Cây giống lên giá thể nhộng tằm khử trùng hoặc bột nhộng tằm bổ sung gạo lứt, cao nấm men, pepton; 4- Tạo hệ sợi trong điều kiện nhiệt độ 20-25 độ C, độ ẩm 80-90%; 5- Tạo thể quả trong điều kiện nhiệt độ 20-25 độ C, độ ẩm 80-90%, ánh sáng đèn trắng của đèn compact có cường độ 7001000 lx, thời gian chiếu sáng 12 giờ; 6- Thu hoạch khi đạt kích thước 7-8 cm, đầu nhọn và bảo quản bằng sấy thăng hoa, tránh ánh sáng).

- Quy mô phòng pilot gồm 7 bước (1- Tạo nguồn giống nấm C. militaris; 2- Cấy giống lên giá thể bột nhộng tằm bổ sung gạo lứt, cao nấm men, pepton; 3- Tạo hệ sợi trong điều kiện nhiệt độ 20-25oC, độ ẩm 80-90%; 4- Tạo thể quả trong điều kiện nhiệt độ 20-25oC, độ ẩm 80-90%, ánh sáng đèn trắng của đèn compact có cường độ 7001000 lx, thời gian chiếu sáng 12 giờ; từ bước 1-4 diễn ra trong PTN; 5- Vận chuyển tới các pilot ở các địa phương; 6- Duy trì sự sinh trưởng của thể quả; 7- Thu hoạch khi đạt kích thước 7-8 cm, đầu nhọn và bảo quản bằng sấy ở 40oC hoặc sấy thăng hoa, tránh ánh sáng).

- Quy mô phòng hộ gia đình gồm 7 bước (1- Tạo nguồn giống nấm C. militaris; 2- Cây giống lên giá thể bột nhộng tằm bổ sung gạo lứt, cao nấm men, pepton; 3- Tạo hệ sợi trong điều kiện nhiệt độ 20-25oC, độ ẩm 80-90%; 4- Tạo thể quả trong điều kiện nhiệt độ 20-25oC, độ ẩm 80-90%, ánh sáng đèn trắng của đèn compact có cường độ 700-1000 lx, thời gian chiếu sáng 12 giờ; từ bước 1-4 diễn ra trong PTN; 5- Vận chuyển tới các nhà nuôi ở các địa phương có điều kiện tự nhiên thích hợp được lựa chọn; 6- Duy trì sự sinh trưởng của thể quả (tháng 3-11: sử dụng nhiệt độ tự nhiên); 7- Thu hoạch khi đạt kích thước 7-8 cm, đầu nhọn và bảo quản bằng sấy ở 40oC hoặc sấy thăng hoa, tránh ánh sáng).

Sản phẩm thu được từ các quy trình được xác định có thành phần hoạt chất trung bình là 0,46 mg/g adenosin, 10,56 mg/g cordycepin, thành phần có giá trị dinh dưỡng là 78,76 mg/g amino acid tự do tổng số trong thể quả và 153,535 mg/g trong hệ sợi, acid béo không no trên 70% tổng số acid béo, chủ yếu là linoleic acid.

(3) Trong 3 tỉnh được lựa chọn, hiệu quả kinh tế từ nuôi Đông trùng hạ thảo C. militaris tại tỉnh Lai Châu cao hơn Điện Biên và Sơn La (từ 174.000 đến 203.000 đồng/bình/2 tháng). Khả năng nhận thức, áp dụng mô hình pilot và hộ gia đình của người dân tại tỉnh Sơn La và Lai Châu tương đương nhau và cao hơn so với tỉnh Điện Biên.


*Có thể tìm đọc toàn văn báo cáo kết quả nghiên cứu (Mã số 13425) tại Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia

Video liên quan

Chủ đề