Ngành dịch vụ vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng kinh tế động lực của vùng Tây Nam Bộ, gồm 4 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và Cà Mau. Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm này đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 16 tháng 4 năm 2009.[1] Tính đến năm 2011, vùng kinh tế này có diện tích tự nhiên là 2 triệu ha, dân số trên 8,2 triệu người, chiếm khoảng 1/2 dân số của vùng ĐBSCL.[2] Toàn vùng rộng 20.003 km² chiếm 6% diện tích cả nước, chiếm 21,4% diện tích các vùng kinh tế trọng điểm với dân số năm 2019 khoảng 17,2 triệu người bằng 7,9% dân số cả nước và bằng 15,7% dân số các vùng kinh tế trọng điểm. Đây là vùng có nền kinh tế lớn thứ 4 cả nước.

Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long là tên gọi khu vực phát triển kinh tế động lực ở miền Tây Nam Bộ Việt Nam, gồm các thành phố: Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá và Cà Mau. Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm này đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 16 tháng 4 năm 2009 bằng Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009.[3]

Theo Quyết định này, đến năm 2020, vùng kinh tế trọng điểm này sẽ là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông thủy sản của cả nước. Ngoài ra, vùng kinh tế này còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Vùng có vị trí địa kinh tế quan trọng, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và giao thương với khu vực. Nằm ở cực của Tổ quốc, tiếp giáp với Campuchia thông qua vịnh Thái Lan; giáp với biển Đông với bờ biển dài. Đây là điều kiện thuận lợi phát triển giao lưu thương mại và du lịch với khu vực.

Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, vùng kinh tế trọng điểm nói riêng, là một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu ở Đông Nam Á và thế giới, là vùng sản xuất lương thực, nuôi trồng và đánh bắt thủy, hải sản và vùng cây ăn trái nhiệt đới rộng lớn. Điều kiện thuận lợi để sản xuất gạo, thủy sản cho tiêu dùng và xuất khẩu.

Tài nguyên khoáng sản và tài nguyên nhân văn của vùng khá phong phú, phục vụ tốt cho phát triển kinh tế và du lịch. Nhờ có tài nguyên về dầu khí, vùng đã và sẽ là trung tâm năng lượng lớn của cả nước với ba trung tâm điện lực: Ô Môn, Cà Mau, Kiên Lương với tổng công suất khoảng 9.000 - 9.400 MW và cung cấp khí đốt từ các mỏ khí Tây Nam. Ngoài ra, còn có đá vôi ở khu vực: Hà Tiên, Kiên Lương (Kiên Giang); đá Andezit, granit (An Giang)... Những di tích lịch sử, văn hóa, phong cảnh đẹp phân bố đều trên toàn địa bàn, tạo cho vùng tiềm năng lớn trong phát triển kinh tế du lịch.

Hệ thống đô thị trong vùng khá phát triển, trong đó có thành phố Cần Thơ là thành phố trực thuộc Trung ương. Cơ sở hạ tầng đã từng bước hoàn thiện, đã, đang và sẽ tạo sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thu hút lực lượng lao động từ vùng nông thôn tới làm việc, tạo cục diện mới cho tăng trưởng kinh tế và giao thương quốc tế.

Theo đề án đến năm 2020, vùng kinh tế trọng điểm này sẽ là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản, đóng góp lớn vào xuất khẩu nông thủy sản của cả nước. Ngoài ra, vùng kinh tế này còn đóng vai trò quan trọng trong chuyển giao công nghệ sinh học, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, thành phố đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) thành phố Long Xuyên (tỉnh An Giang) và Thành phố Cần Thơ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của vùng, với vị trí và tiềm năng du lịch thì Phú Quốc đang là đầu tàu của vùng trong phát triển ngành dịch vụ chất lượng cao.

Xem thêmSửa đổi

  • Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ
  • Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ
  • Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
  • Khu kinh tế Phú Quốc - Nam An Thới
  • Khu kinh tế Năm Căn.
  • Hành lang kinh tế ven biển Vịnh Thái Lan

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt đề án thành lập Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long.
  2. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2016.
  3. ^ “QUYẾT ĐỊNH 1581/QĐ-TTg: PHÊ DUYỆT QUY HOẠCH XÂY DỰNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ĐẾN NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050”. thuvienphapluat.vn. ngày 9 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2021.

Thu Hiền/TTXVN 16:39' - 26/05/2022

BNEWS Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển. Đồng thời, là một trong những đồng bằng lớn nhất, phì nhiêu nhất của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.

Ngày 26/5, tại thành phố Cần Thơ, Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam chi nhánh Cần Thơ (VCCI Cần Thơ) và Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức diễn đàn "Hoàn thiện chuỗi dịch vụ logistics cho nông sản Đồng bằng sông Cửu Long". Diễn đàn có sự tham gia của Nguyễn Thành Phong, Phó Trưởng Ban kinh tế Trung ương và lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo 13 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long, lãnh đạo các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp logistics hàng đầu, cũng như các doanh nghiệp nông nghiệp lớn của vùng Đồng bằng sông Cửu Long...

*Điểm nghẽn logistics


Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển. Đồng thời, là một trong những đồng bằng lớn nhất, phì nhiêu nhất của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.

Cùng đó, vùng này là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thuỷ hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước; đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, gần 65% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng, 60% lượng cá xuất khẩu và gần 70% các loại trái cây của cả nước.

Đồng bằng sông Cửu Long cũng là khu vực có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và nhiều vườn cây. Sản phẩm nông sản là những sản phẩm truyền thống chủ lực của Đồng bằng sông Cửu Long. Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), hàng năm, Đồng bằng sông Cửu Long có nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu khoảng 18 triệu tấn. Tuy nhiên, trên thực tế, Đồng bằng sông Cửu Long lại đang là khu vực có chi phí logistics cao nhất, chiếm đến 30% giá thành sản phẩm, mâu thuẫn với đóng góp về hàng hoá của vùng. Nguyên nhân chính của điểm nghẽn này được các chuyên gia đánh giá là do hệ thống logistics tại Đồng bằng sông Cửu Long còn thiếu liên kết và đồng bộ; trong đó, hệ thống cảng biển còn thiếu, nhất là cảng nước sâu cho tàu vận chuyển container xuất khẩu. Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics Việt Nam (VLI), mặc dù, Đồng bằng sông Cửu Long có đủ các loại hình vận tải đường sông, đường biển, đường bộ và hàng không nhưng hệ thống cho logistics khu vực này lại thiếu tính liên kết đồng bộ, cơ sở hạ tầng không đáp ứng nhu cầu thực tế.

Hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long chưa có cảng biển quy mô lớn, chủ yếu là cảng sông nhỏ, thiếu cảng nước sâu cho tàu vận chuyển container xuất khẩu. Hệ thống kênh rạch dày đặc nhưng đặc trưng luồng lạch khác biệt dẫn tới vận tải thủy nội địa hạn chế phương tiện, không vận dụng được tối đa tải trọng cho phép. Các sà lan cũng không thể vận tải tối đa tải trọng cho phép do hạn chế chiều cao tĩnh không của những cây cầu phục vụ giao thông đường bộ, trọng tải sà lan chỉ ở mức từ 1.500-3.500 tấn.Bên cạnh đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn thiếu các trung tâm logistics trọng điểm và các hệ thống trung tâm vệ tinh, thiếu bãi container rỗng, hệ thống kho ở các cảng, đơn vị kiểm định vệ sinh an toàn thực phẩm, chiếu xạ đạt chuẩn... Theo thống kê của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), 13 tỉnh Đồng bằng hiện chỉ có 1.461 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, chiếm khoảng 4.39% số lượng doanh nghiệp logistics của cả nước; trong đó, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp rất hạn chế, chủ yếu là các doanh nghiệp nông nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nông nghiệp tự cung cấp hạ tầng logistics cho sản phẩm của mình, điều này làm gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, giảm sức cạnh tranh của nông sản Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và nông sản Việt nói chung. Do những "điểm nghẽn" về logistics nên hàng hóa xuất khẩu của vùng Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu trung chuyển qua các cảng miền Đông như Cát Lái (Tp. Hồ Chí Minh), Cái Mép-Thị Vải (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu)… dẫn tới phí dịch vụ, lưu kho bãi, thời gian chờ đợi đều tăng, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh hàng hóa nông sản của Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và nông sản Việt nói chung. Theo ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, những hạn chế trên khiến thị trường logistics tại Đồng bằng sông Cửu Long thiếu sức hấp dẫn, thiếu sự cạnh tranh của những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp. Mặc dù, Đồng bằng sông Cửu Long là trung tâm lớn trong sản xuất nông nghiệp của cả nước nhưng dịch vụ logistics cho nông sản đang là nút thắt cản trở sự tăng trưởng kinh tế của vùng, cần có những giải pháp kịp thời để cởi nút thắt này.

*Cần thiết phát triển chuỗi logistics

Phó Trưởng Ban kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong cho rằng, sự xuất hiện của những hạt lúa, quả xoài, trái bưởi... của Đồng bằng sông Cửu Long trên kệ của các siêu thị lớn trên thế giới chính là những đại sứ thương hiệu đầu tiên cho các sản phẩm Việt Nam xâm nhập thị trường thế giới. Mở rộng sự hiện diện của sản phẩm Đồng bằng sông Cửu Long tất yếu đòi hỏi phải phát triển hệ thống logistics cho nông sản vùng một cách tương xứng.

Để phát triển logistics trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu hiện nay cần phải xây dựng được các trung tâm logistics lớn, các doanh nghiệp logistics lớn đủ tiềm lực để khép kín hệ sinh thái logistics với giải pháp tích hợp đầu cuối từ vận tải quốc tế bằng đường biển sang logistics nội địa với hệ thống kho bãi, môi giới hải quan, công nghệ vận tải đường bộ, qua đó giúp tiết kiệm được chi phí nhờ quy mô. Dịch vụ logistics không chỉ nằm ở kho, vận, giao, nhận mà còn bao gồm tất cả các dịch vụ cần thiết hỗ trợ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân. Tại diễn đàn, đồng hành với các địa phương, doanh nghiệp và nhà đầu tư cùng bàn thảo những giải pháp cụ thể để phát triển ngành logistics Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn mới, hoàn thiện chuỗi dịch vụ logistics và kết nối cơ hội đầu tư. Các doanh nghiệp logistics và doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cùng chia sẻ những kiến thức, thông tin, theo sát các diễn biến thị trường, tìm kiếm những giải pháp cụ thể để thu hút doanh nghiệp logistics, phát triển ngành logistics cho Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn mới; giảm chi phí logistics, hoàn thiện chuỗi dịch vụ logistics chủ động cho phát triển nông nghiệp vùng này. Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), cần hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ logistics như: đẩy mạnh đầu tư, tận dụng lợi thế sẵn có của phương thức vận tải đường thủy; cải tạo, nâng cấp các luồng tàu biển chính trong khu vực. Bên cạnh đó, phát triển cảng biển gắn với các trung tâm sản xuất hàng hóa, kêu gọi đầu tư cảng ngoài khơi để đảm nhận vai trò cản cửa ngõ, đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trực tiếp cho vùng. Ngoài ra, đẩy mạnh phát triển những trung tâm logistics phục vụ hàng nông sản với những dịch vụ chủ yếu như: vận tải, kho hàng, bảo quản hàng hóa và các dịch vụ giá trị gia tăng. Nhận định muốn cắt giảm chi phí cho nông sản bằng cách liên kết ổn định sản lượng hàng hóa và logistics, ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An (Fohla) cho rằng, tập trung tăng cường liên kết vùng, tạo điều kiện thông thương hàng hóa nông sản là vấn đề cấp bách, để giúp kinh tế vùng phát triển nhanh hơn bằng lợi thế vốn có. Theo đó, cần sớm có các phương án, chính sách và mô hình hiệu quả, kết nối chuỗi cung ứng toàn diện cho nông sản Việt Nam từ sản xuất - thu hoạch cho đến thông quan - xuất khẩu, hướng tới tối ưu hóa chi phí logistics, tăng lợi thế cạnh tranh cho nông sản, tạo đầu ra bền vững cho nông sản.

Việc xây dựng, phát triển chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics tại Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu là rất cần thiết, nhằm kết nối vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhanh nhất, chi phí thấp hơn. Các trung tâm logistics hoạt động tốt sẽ giảm thiểu chi phí đầu vào nhằm tăng giá trị hàng hóa đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của vùng Đồng bằng sông Cửu Long./.

Video liên quan

Chủ đề