Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai nghĩa là gì

       Kiều nói với em bằng tiếng nói khác. Ngôn ngữ của nàng lúc này không còn cái mạch lạc, khúc chiết của lí trí nữa mà thuần là của tình cảm và có cả ảo giác. Càng nói, Kiều càng xót xa cho duyên phận bất hanh của mình. Nàng thấy rõ là mình mệnh bạc, tình mình mất đi và tất cả đã thành quá khứ.

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên!

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

       Đã động đến tương lai chắc chắn là mù mịt, Kiều không còn giữ được sự yên lòng trong phút giây trước đó. Như người lội nước hụt chân rớt xuống vực sâu. Kiều chới với không biết bám víu vào đâu. Nàng tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng nên vợ nên chồng, còn mình chỉ là một mảnh hồn oan vật vờ theo ngọn gió hiu hiu trên ngọn cỏ lá cây, nhưng vẫn còn vướng chặt với tình riêng, vấn vương với tiếng tơ trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa và vẫn còn mang nặng lời thề, lời nguyền nát thân bồ liễu để đền nghì trúc mai cho người. Nghĩ đến đây, Thúy Kiều tha thiết dặn em hãy rưới xin giọt nước cho người thác oan.

        Tất cả những điều ấy có mâu thuẫn với nhau không?

        Trên kia, Thúy Kiều đã chẳng nói là nếu được Thúy Vân giúp cho thì dù thịt nát xương mòn, nàng vẫn ngậm cười chín suối là gì? Nghĩa là trả được món nợ tình, nàng sẽ hết giày vò vì đã lo cho người yêu chu tất. Thế mà chì sau giây lát tưởng tượng, nàng đã trở lại với nỗi xót xa, tuyệt vọng còn nặng nề hơn trước. Chút yên lòng đã bay đâu mất.

       Đúng là có mâu thuẫn nhưng không phải trước sau hoàn toàn chỉ có một vấn đề. Trước, nàng đau khổ vì người. Nay, lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Nàng chới với trước tương lai mù mịt, oan nghiệt. Nàng không còn ở trạng thái tỉnh táo bình thường mà như nửa mê nửa tình, nửa phần là người sống, nửa phần đã là hồn ma. Tuy vẫn đối thoại với Vân nhưng lời Kiều đã phảng phất giống như lời nói từ cõi bên kia vọng về.

      Khi đã trao duyên cho Thúy Vân, tức là đã quyết định dứt tình với Kim Trọng, Kiều thấy hạnh phúc của mình đến đây là chấm dứt nên lời lẽ của nàng chuyển hẳn sang giọng thương thân. Nghĩ đến tương lai, Kiều tưởng tượng ra cái chết và cảnh oan hồn mình sẽ tìm về theo ngọn gió. Giọng thơ cũng bất chợt thay đổi. Hình ảnh, âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định (mai sau, bao giờ), không khí  linh thiêng (đốt lò hương, so tơ phím hình ảnh phất phơ, ma mị (ngọn cỏ lá cây — hiu hiu gió)... tất cả đều nói lên rằng Kiều đang sống trong tâm trạng khổ đau và càng khổ đau gấp bội.

      Nghĩ đến tương lai thê thảm, Kiều đau đớn tột cùng. Nàng quên hết xung quanh, chỉ còn nức nở khóc cho mình, khóc cho mối tình đầu đẹp đẽ là thế mà sao ngắn ngủi:

Bây giờ trâm gãy, gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

      Đó là tiếng khóc thương cho số phận bất hạnh, là tiếng kêu đứt ruột cho mối tình đầu dang dở của Thúy Kiều.

      Từ chỗ nói với em, Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu, từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc than. Điều ấy thể hiện sự chuyển biến của tâm trạng Thúy Kiều mà nỗi đau cứ tăng lên mãi, đau đớn cho phận bạc như vôi, càng đau đớn do phận bạc nên buộc phải phụ tình người yêu:

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

     Theo đà nửa tình nửa mê, đang nói chuyện với Vân, Kiều bỗng nói với mình, nói với Kim Trọng trong tâm tưởng về sự dở dang duyên phận. Đúng là cảnh trâm gãy bình tan, ta duyên ngắn ngủi. Đúng là phận bạc như vôi và nàng đành phải chấp nhận cảnh nước chảy hoa trôi lỡ làng mà trái tim như tan ra từng mảnh. Nàng đành chịu tội với chàng Kim, và gửi vọng theo chàng muôn nghìn cái lạy. Đau đớn, xót xa đến mức Kiều phải thốt lên:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

       Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định một lần nữa mặc cảm có tội của Kiều Nghĩa là nàng phủ nhận tất cả những gì đã nói với Vân, những gì đã lo cho chàng Kim, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảng khắc trên kia. Nghĩa là nàng tuy có đau thêm cho mình nhưng vẫn cứ một mực đau cho người, vì người. Nỗi đau khống giảm mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Nỗi đau đã lên đến tột đỉnh, quá sức chịu đựng của thể xác:

Cạn lời hồn ngất máu say

Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng.

       Đoạn thơ trên miêu tả một cơn khủng hoảng, một trận sóng gió tơi bời trong lòng người con gái tội nghiệp Thúy Kiều. Nàng đau khổ, quằn quại đâu phải vì bản thần mình? Tất cả trái tim yêu thương nàng dành cho người yêu. Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết chừng nào! Thương người yêu đằm thắm sâu xa, mong muốn cho người yêu được hạnh phúc, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hi sinh, tấm lòng ấy đă gây xúc động thật sự trong lòng người đọc. Đó cũng là nét sáng ngời trong phẩm giá của Thúy Kiều, khiến cho hình tượng khả ái của nàng sống mãi với thời gian.

Tài liệu hướng dẫn phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên gồm nội dung gợi ý cách làm, lập dàn ý chi tiết và tham khảo một số bài văn mẫu hay phân tích nội dung 14 câu giữa của bài Trao duyên (trích Truyện Kiều – Nguyễn Du).

Hướng dẫn phân tích 14 câu thơ giữa bài Trao duyên

Đề bài: Em hãy phân tích 14 câu giữa của bài Trao duyên (Trích đoạn “Chiếc vành với bức tờ mây … Rưới xin giọt nước cho người thác oan“) để làm rõ tâm trạng của Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân.

Dàn ý Phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên (Chuẩn)

1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích Trao duyên

2. Thân bài:

* Hoàn cảnh trao duyên: – Cha và em bị bắt vì bị tên bán tơ lừa, Kiều phải bán mình để chuộc cha và em – Tình nghĩa với Kim Trọng sâu sắc, Kiều phải tìm cách trả nợ tình cho Kim Trọng – Nhờ Thúy Vân là em thay mình trả nghĩa tình cho chàng Kim

* Tâm trạng Thúy Kiều khi trao kỉ vật cho em – Những kỉ vật thiêng liêng gắn với tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều và chàng Kim: chiếc vành, bức tờ mây. – Trao kỉ vật nhưng lòng vẫn luyến tiếc, không quên được kỉ niệm – Đau xót vì đoạn tình dang dở, sự giằng xé trong đau đớn

* Lời dặn dò của Thúy Kiều với em – Kiều dự cảm về một tương lai u ám, tăm tối, hàng loạt các hình ảnh gợi về cái chết: hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan. – Sự đau đớn, đầy tuyệt vọng và tấm lòng thủy chung một lòng với tình yêu của Thúy Kiều. – Kiều dặn dò Vân hãy đền ơn đáp nghĩa Kim Trọng.

* Đặc sắc nghệ thuật – Bút pháp khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật – Ngôn từ điêu luyện, ngôn ngữ độc thoại sinh động

3. Kết bài:

Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của 14 câu thơ. Nêu cảm nhận của em về 14 câu thơ

4. Sơ đồ tư duy phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai nghĩa là gì

Để làm được bài văn này tốt nhất các em có thể tham khảo phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên để cùng cảm nhận nỗi đau khi tình yêu không được vẹn toàn của Kiều trong giây phút trao kỉ vật lại cho em!

Top 3 bài văn hay phân tích 14 câu giữa bài Trao duyên

Phân tích 14 câu giữa Trao duyên bài số 1

Nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du người ta nhớ ngay đến Truyện Kiều, một thiên truyện trở thành kiệt tác của văn học Việt Nam. Trao duyên là một trích đoạn trong tác phẩm này, trong tổng thể toàn tác phẩm, đoạn trích này có một vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Riêng 14 câu thơ giữa đoạn trích không chỉ thể hiện rõ lời nhờ cậy tha thiết và tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều khi trao duyên mà còn thấy được tấm lòng, tài năng của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm, tâm lý nhân vật.

Tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng tưởng chừng như sẽ được hạnh phúc bởi tình cảm tha thiết mặn nồng lại sâu nặng. Thế nhưng biến cố gia đình đã khiến đoạn tình đó đứt ngang chia lìa. Để có thể chuộc cha và em đang bị bắt, Kiều chỉ đành bán mình cho tên Mà Giám Sinh, đoạn trích Trao duyên diễn ra khi sự việc bán mình của Kiều đã rồi. Bản thân trở thành món hàng hóa mua bán trao đổi, không còn được sống với cuộc sống của chính mình, Kiều càng đau đớn hơn vì tình yêu tan vỡ. Đến đây Kiều đành phải trao duyên cho em gái mình là Thúy Vân, nhờ cậy em trả nghĩa ơn tình cho Kim Trọng. Trong khi nói chuyện cùng với Vân, trong lòng Kiều như đang sống lại với những kỉ niệm tình yêu nồng thắm với chàng Kim, nàng sống trong hồi ức với nhiều kỉ vật:

“Chiếc vành với bức tờ mây Duyên này thì giữ vật này của chung… …Mất người còn chút của tin Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Những sự kiện trong đêm thề nguyện thiêng liêng của hai người như “phím đàn” là cảnh Kiều ngồi đàn cho Kim Trọng nghe, và “mảnh hương nguyền” là khi Kim Trọng cho thêm hương vào trong lò “Đốt lò hương ấy so tơ phím này”. Có thể thấy, trong tâm hồn Kiều khi ấy là sức sống mãnh liệt của tình yêu thủy chung, sâu sắc. Duyên tình nguyện giữ trong lòng không thể chia sẻ chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cùng với những kỉ vật làm của chung của ba người. Thúy Kiều trao đi những kỉ vật tình yêu cho em gái nhưng nội tâm đang giằng xé trong đau đớn, tình yêu của nàng càng mãnh liệt và sâu nặng bao nhiêu thì giây phút ấy nàng càng cay đắng và xót xa bấy nhiêu. Vậy nên Kiều đã chẳng còn nghĩ gì đến quãng đời phía sau của mình, sau khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Kiều đã liên tưởng đến cái chết:

“Trông ra ngọn cỏ lá cây, Thấy hiu hiu gió thì hay chị về Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời, Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Một loạt các từ ngữ đề cập đến cái chết mà Kiều đã nói ra như “thấy hiu hiu gió thì hay chị về”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “dạ đài”, “người thác oan”. Trao đi đoạn duyên tình với chàng Kim nàng Kiều cảm thấy cuộc đời mình đến đây đã thấm câu “Hồng nhan bạc phận”, cảm thấy nửa đời về sau từ giây phút bán mình cho Mã Giám Sinh đã là dấu chấm hết. Nàng cảm thấy sự tồn tại là trống trải, vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, không chỉ mường tượng ra cái chết mà nàng nhận định đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệt không thể siêu thoát được vì còn vương nợ dương gian. Nàng “xin rưới giọt nước” để linh hồn đơn độc, đau khổ của nàng được siêu thoát.

Thúy Kiều đang nói chuyện với Thúy Vân nhưng thực ra cũng là đang độc thoại với chính mình, những lời tâm sự, dặn dò của Kiều cũng chính là tiếng nói thương xót cho thân phận của một người con gái tha thiết với tình yêu nhưng không thể thay đổi số phận nghiệt ngã. Chữ hiếu đã buộc nàng Kiều phải lựa chọn hy sinh tình yêu, lý trí của Kiều nhận thức được phải nhờ em gái trả nghĩa. Tuy đã nhờ cậy em nhưng bước đường này khiến Kiều đau đớn tột cùng, chỉ biết than thân trách phận, xót xa cay đắng chứ không hề được thanh thản cõi lòng.

Có thể thấy Thúy Kiều là một người con gái mang thân phận đau khổ nhưng nhân cách sáng ngời, trong tâm hồn Kiều không có sự phân chia lí trí hay tình cảm, nhân cách hay thân phận mà hòa quyện chặt chẽ với nhau. Nhờ có bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật tài hoa của Nguyễn Du cùng với ngôn từ độc thoại sinh động mà ta cảm thấy Thúy Kiều sống động và chân thực hơn, gần gũi tự nhiên chứ không hẳn là một tấm gương đạo lí.

Phân tích 14 câu giữa Trao duyên bài số 2

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo nên kiệt tác ”Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao Duyên” trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nếu như ở những câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp, Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.

Khi tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra tươi đẹp và đằm thắm thì thình lình tai biến lại dồn đến. Sau khi thu xếp mọi việc bán mình để cứu cha và em, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời khỏi nhà. Đêm ấy, Kiều không đành lòng với tình cảnh dang dở cùng Kim Trọng nên cuối cùng, sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều đem từng kỉ vật trao tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái:

”Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Bạn đang xem: Phân tích 14 câu giữa của bài Trao duyên (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu “chiếc vành”, ”bức tờ mây” rồi đến ”phím đàn”, ”mảnh hương nguyền” cho Thúy Vân. Kiều đưa cùng một lúc nhưng là đưa từng món một. Mỗi món đều gắn với một kỉ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình nồng nàn. Tưởng như Thúy Kiều vừa trao vừa ngập ngừng ngắm nghía lại từng kỉ vật, nhớ lại từng kỉ niệm với nỗi lòng nuối tiếc khôn nguôi cho mối tình tươi thắm ngày nào. Với Vân, có thế đó là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một trời ký ức, là nhân chứng cho một tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm… gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân, nàng căn dặn em ”Duyên này thì giữ vật này của chung”.

”Duyên này” là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều kể như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỉ vật này thì xin em hãy coi là ”của chung” bởi còn có một phần là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn bình tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi có người thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt Kiều phải ”lỗi thề” nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ để có thể nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ được. Đầy xót xa sầu tủi, trong đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi.

Những tưởng rằng trao xong ”duyên” là lòng nhẹ bẫng không còn vướng bận, con đường phía trước sẽ không còn gì níu kéo nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo, đau đớn. Rõ ràng, lí trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như đọng lại ở câu thơ “dù em nên vợ nên chồng” – Kiều tự thấy mình đáng thương, mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại. ”Mất người còn chút của tin” Kiều chỉ có thể trao duyên còn tình nàng vẫn không thể trao, nàng không thanh thản, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng dùng dằng, gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Nàng đã mất bao công sức để thuyết phục em nhưng chính lúc em chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn.

Nhưng có điều đặc biệt nằm ở chữ ”giữ” và ”của chung”. ”Giữ” không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ”giữ” hộ. Còn chữ ”của chung” lại thể hiện tâm lí là Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho em. Những chữ đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định Thúy Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nấc chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, khiến người đọc cảm thấy đau lòng. Đó cũng là tài năng miêu tả tâm lí độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du

Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả đã thành quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một mai sau mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ cứ hiện ra và rõ nét dần

”Mai sau dù có bao giờ 

Đốt lò hương ấy so tơ phím này 

Trông ra ngọn cỏ lá cây 

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về 

Hồn còn mang nặng lời thề 

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, một hơi thơ khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của Thúy Kiều với Kim Trọng mà sao lời lẽ bất chợt trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cái chết: âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ”mai sau”, ”bao giờ”, không khí linh thiêng ”đốt lò hương”, ”so tơ phím”, hình ảnh phất phơ, ma mị ”ngọn cỏ lá cây”, ”hiu hiu gió”,… bắt đầu từ đây Kiều mới thực sự cảm nhận được cái bi kịch của đời mình, bi kịch của sự mất mát, bi kịch của nỗi cô đơn. Nàng cảm thấy mình thật đáng thương. Tâm thức đang chìm dần trong nỗi đau khôn nguôi.

Nàng tưởng tượng đến cảnh sum họp của Trọng – Vân, còn mình chỉ là linh hồn ”xương trắng quê người” vật vờ cô độc, bất hạnh nhưng vẫn ”mang nặng lời thề”, vẫn khát khao mong muốn được theo làn gió nhẹ ”hiu hiu” trên ”ngọn cỏ lá cây” để trở về cõi thế gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao cho em, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nổi chàng Kim, còn mang nặng lời thề trăm năm gắn bó. Thế mới biết nàng có tình yêu thủy chung, mãnh liệt đến mức nào. Nàng trở nên cô đơn, tuyệt vọng, dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết dặn em:

”Dạ đài cách mặt khuất lời 

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Nay lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc. ”Dạ Đài” là nơi âm phủ tăm tối, trong cảnh ngộ ”cách mặt khuất lời” linh hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, tưởng nhớ của những người yêu thương nên chỉ xin Trọng một ”chén nước” để làm phép tẩy oan. Điều đó chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Hồn của nàng còn ‘mang nặng lời thề’ nên dù có chết đi cũng chẳng thể siêu thoát. Nàng đau đớn, sợ hãi trước tương lai mù mịt…Thế mới thật sự là giằng xé, thật sự là bi kịch.

Dưới ngòi bút tài hoa sắc sảo của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái nhạy cảm, vị tha và giàu lòng yêu thương. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, khắc họa sinh động, sâu sắc và đầy xúc cảm tâm trạng của Thúy Kiều khi tình yêu tan vỡ, nỗi đau đớn của người con gái bất hạnh này

Đoạn trích là những dòng thơ thể hiện bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao quý của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc nhưng người đau khổ nhất vẫn là nàng. Nhờ thế mà đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối ới những đau khổ và khát vọng hạnh phúc, tình yêu của con người.

Phân tích 14 câu giữa Trao duyên bài số 3

Có thể nói Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng ấy của ông được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm “Truyện Kiều”, tiêu biểu nhất là ở đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích này đã thể hiện những tâm trạng, cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi cậy nhờ Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” với Kim Trọng. Và nó thể hiện rõ nét hơn ở 14 câu giữa của bài Trao khi Kiều trao kỉ vật và dặn dò Thúy Vân.

Như ta thấy, tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng đang ở giai đoạn đẹp nhất thì bỗng phải chia lìa vì Kiều bán mình cứu cha và em. Hai người đã có một cuộc thề nguyền đầy thiêng liêng và lãng mạn nhưng trong hoàn cảnh gia đình gặp gia biến, phận làm con Kiều lựa chọn chữ hiếu để báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.

Và nàng trao lại mối tình duyên cho Thúy Vân mà trong lòng ngổn ngang những tâm trạng, cảm xúc. Trao lại thứ gì đó thuộc về vật chất thì còn dễ hình dung, đong đếm nhưng Thúy Kiều lại trao duyên, có mấy ai định hình được thứ tình cảm này?

Những kỉ vật của tình yêu như chiếc vòng đeo tay và tờ giấy ghi lời thề nguyền của hai người Thúy Kiều đều đem trao lại để Thúy Vân giữ:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

“Chiếc vành – Tờ mây” là vật thề ước, là sự chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng- Thúy Kiều. Có hai vật đó Kiều mới có thể đường hoàng bên chàng Kim đến “đầu bạc răng long”. Nhưng mất nó đồng nghĩa Kiều với Kim không còn là gì cũng như tình yêu sẽ đổ vỡ không thể hàn gắn. Bởi vậy nên mỗi kỉ vật trao đi như từng mảnh tình yêu cuối cùng rời khỏi tay Kiều. Giọng điệu nghe ra bình thường như vẫn có tiếng nấc nghẹn ngào sau từng câu câu chữ. Trao đi “duyên này…vật này” cho Vân nhưng lại kết bằng hai chữ “của chung”.

Tình yêu với Kiều là sự sống, là hơi thở nên đâu nói bỏ là dứt được. Nguyễn Du cuối cùng vẫn để kiều trở lại là người con gái yếu đuối nằm trong dòng xoáy tâm lí thường tình, khi mất đi thứ gì càng quan trọng với mình thì càng ý thức mạnh mẽ về giá trị thực của nó. Cho nên “của chung” mới vang lên trong Kiều với bao nhiêu giằng xé, mâu thuẫn. Dường như lý trí nàng đã quyết định dứt bỏ nhưng trái tim thì không thể tuân theo. Giống như kỉ vật đã trao nhưng vẫn níu kéo tình yêu, kỉ niệm cho riêng mình.

Nhưng cuộc đời bể dâu với những “sóng gió bất kì” đã khiến Kiều rơi vào bi kịch của sự tuyệt vọng do chính mình tạo ra khi nhìn vào phía trước vẫn hoàn hảo như vậy, chỉ thiếu bóng mình.

“Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Như vậy, nghĩa cho Kim Trọng đã trả, Vân đã có hạnh phúc cho mình, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản vì hạnh phúc cuộc đời nàng là chàng Kim đã thuộc về người khác. Tương lai đã không có chỗ cho Kiều. Nàng cô độc, bơ vơ bên lề hạnh phúc. Nàng sẽ chẳng còn lại gì, thân “bạc mệnh” này chỉ mong chờ vào “chút của tin” cùng quá khứ xưa để được tưởng nhớ không bị lãng quên. Hiện tại vẫn còn đây “chút của tin”, nhưng đó chỉ còn là của “ngày xưa”, là vật gợi lại kí ức trong quá khứ của Kiều, còn mai sau sẽ là của Vân. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim Kiều. Lúc này, dường như nhớ về kỉ niệm tình yêu ấm áp “phím đàn với mảnh hương nguyền” kia lại càng khiến Kiều đau đớn hơn.

Dấn thân sâu vào nỗi tuyệt vọng, Kiều cảm thấy tương lai sống hay chết cũng không mấy khác biệt:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Cho dù Thúy Kiều có “thịt nát xương mòn” thì cũng mong rằng Thúy Vân và Kim Trọng không quên mình. Nàng còn chỉ cho Thúy Vân biết dấu hiệu để nhận ra khi mình trở về: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Một con người nặng tình nặng nghĩa như Thúy Kiều không thể lãng quên lời thề của mình với chàng Kim nhanh như vậy được. Ngay cả khi là một linh hồn chốn cửu tuyền thì nàng vẫn “mang nặng lời thề”. Đó là lời thề thủy chung son sắt trọn đời bên nhau cùng Kim Trọng. Lời thề thủy chung ấy nàng sẽ khắc cốt ghi tâm cả cuộc đời không quên. Thế giới cõi âm và thế giới ở trần gian “cách mặt khuất lời” nên Thúy Kiều chỉ xin Thúy Vân “rưới xin giọt nước” cho linh hồn oan khuất của mình. Thúy Kiều đang còn sống mà tâm trí thì nghĩ về cái chết – cái chết oan khuất của một con người mệnh bạc.

Qua đây ta thấy hậu quả mà xã hội xưa đã đày đọa con người ta đến đường cùng, cướp đi quyền yêu và hạnh phúc, khiến cho một cô gái “xuân xanh” như Kiều lại bế tắc nghĩ đến cái chết. Nàng vùng vẫy vọng tuyệt vọng, muốn biết tại sao mình lại phải hy sinh thân mình, trao duyên, chịu đựng giằng xé vì một lỗi lầm không phải của ai cả. Sự không cam lòng ấy lại chẳng thể chia sẻ với ai, không ai thấu hiểu nên càng bế tắc.

Cả cuộc đời, Kiều vẫn luôn sống trong sự trăn trở với những câu hỏi xem mình làm vậy có đúng hay không. Và ngòi bút nhân đạo Nguyễn Du đã nhìn thấy sự khốn khổ đó của con người trong xã hội cũ và để sự tự ý thức về cuộc đời, số phận, phẩm chất lần đầu tiên được bộc lộ rõ ràng, quyết liệt như thế. Nhà thơ đã lên tiếng che chở cho nhu cầu hạnh phúc cơ bản, vốn có của con người.

Trên đây là văn mẫu phân tích 14 câu giữa của bài trao duyên (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du), các em cũng đừng quên tham khảo văn mẫu lớp 10 chi tiết theo chương trình học nữa em nhé!

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT thành Phố Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường THPT Sóc Trăng (thptsoctrang.edu.vn)