Lượng giá trị của hàng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa là gì

Giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa.

Lượng lao động của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó và tính bằng thời gian lao động.

Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một hàng hóa nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề khác nhau… làm cho thời gian lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó là khác nhau, tức là mức hao phí lao động cá biệt khác nhau.

Nhưng lượng giá trị của hàng hóa không do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà do thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa nào đó trong điều kiện bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

Vậy, thực chất, thời gian lao động xã hội cần thiết là mức hao phí lao động xã hội trung bình (thời gian lao động xã hội trung bình) để sản xuất ra hàng hóa. Thời gian lao động xã hội cần thiết có thể thay đổi. Do đó, lượng giá trị của hàng hóa cũng thay đổi.

Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới lượng giá trị của hàng hóa, gồm:

(i) Thứ nhất, đó là năng suất lao động.

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Nó được đo bằng số sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên tức là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm xuống, tức là giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm và ngược lại.

Vậy, giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Mặt khác, năng suất lao động lai phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, trình độ trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, quy mô sản xuất… nên để tăng năng suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.

(ii) Thứ hai, đó là cường độ lao động.

Cường độ lao động phản ánh mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hóa là không đổi vì thực chất tăng cường độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động.

Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động. Chính vì vậy mà tăng cường độ lao động không có ý nghĩa tích cực với sự phát triển kinh tế bằng việc tăng năng suất lao động.

(iii) Thứ ba là mức độ phức tạp của lao động.

Theo đó, ta có thể chia lao động thành hai loại là lao động giản đơn và lao động phức tạp.

Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.

Còn lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể thực hiện được.

Trong cùng một thời gian lao động thì lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân lên.

Trong quá trình trao đổi mua bán, lao động phức tạp được quy đổi thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.

Hàng hóa lưu thông trên thị trường đều có giá trị được định giá riêng, mỗi hàng hóa sẽ có lượng giá trị khác nhau và có nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. Vậy lượng giá trị hàng hóa là gì, các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa ra sao. Để hiểu thêm về các vấn đề lượng giá trị hàng hóa, hãy cùng tìm hiểu cùng bài viết dưới đây.

Lượng giá trị của hàng hóa các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa là gì

Luật sư tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.6568

1. Lượng giá trị của hàng hóa là gì?

– Lượng giá trị của hàng hóa:

Trong kinh tế học, số lượng cung ứng mô tả số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà các nhà cung cấp sẽ sản xuất và bán ở một mức giá thị trường nhất định. Lượng cung khác với lượng cung thực tế (tức là tổng cung) do sự thay đổi giá ảnh hưởng đến lượng cung mà nhà sản xuất thực sự đưa vào thị trường. Cung thay đổi như thế nào để đáp ứng với những thay đổi của giá được gọi là hệ số co giãn của cung theo giá.

– Lượng giá trị của hàng hóa là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được cung cấp để bán ở một mức giá nhất định. Trong thị trường tự do, giá cao hơn có xu hướng dẫn đến lượng cung cao hơn và ngược lại. Số lượng cung ứng khác với tổng cung và thường nhạy cảm với giá cả.

Ở mức giá cao hơn, lượng cung sẽ gần bằng tổng cung, trong khi ở mức giá thấp hơn, lượng cung sẽ ít hơn nhiều so với tổng cung. Số lượng cung có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm độ co giãn của cung và cầu, sự điều tiết của chính phủ và những thay đổi trong chi phí đầu vào.

– Đặc điểm của Lượng giá trị của hàng hóa:

Số lượng cung cấp nhạy cảm với giá trong giới hạn. Trong thị trường tự do, giá cả thường cao hơn dẫn đến lượng cung cao hơn và ngược lại. Tuy nhiên, tổng cung hiện tại của thành phẩm đóng vai trò như một giới hạn, vì sẽ có thời điểm mà giá cả tăng đến mức nó sẽ khuyến khích số lượng sản xuất trong tương lai tăng lên. Trong những trường hợp như thế này, nhu cầu còn lại đối với một sản phẩm hoặc dịch vụ thường dẫn đến việc đầu tư thêm vào việc sản xuất ngày càng tăng của hàng hóa hoặc dịch vụ đó.

Trong trường hợp giá giảm, khả năng giảm lượng cung bị hạn chế bởi một số yếu tố khác nhau tùy thuộc vào hàng hóa hoặc dịch vụ. Một là nhu cầu tiền mặt hoạt động của nhà cung cấp. Có nhiều tình huống mà nhà cung cấp có thể buộc phải từ bỏ lợi nhuận hoặc thậm chí bán lỗ vì yêu cầu về dòng tiền. Điều này thường thấy ở các thị trường hàng hóa nơi các thùng dầu hoặc bao bì lợn phải được chuyển đi vì mức sản xuất không thể nhanh chóng giảm xuống. Cũng có một giới hạn thực tế về số lượng hàng hóa có thể được lưu trữ và thời gian trong khi chờ đợi một môi trường định giá tốt hơn.

– Số lượng cung cấp theo điều kiện thị trường thông thường: Lượng cung tối ưu là lượng đáp ứng hoàn toàn nhu cầu hiện tại ở mức giá hiện hành. Để xác định số lượng này, các đường cung và cầu đã biết được vẽ trên cùng một đồ thị. Trên đồ thị cung và cầu, số lượng nằm trên trục x và cầu trên trục y. Đường cung dốc lên vì các nhà sản xuất sẵn sàng cung cấp nhiều hàng hóa hơn với giá cao hơn. Đường cầu dốc xuống vì người tiêu dùng yêu cầu ít hàng hóa hơn khi giá tăng.

Giá và lượng cân bằng là nơi hai đường cong cắt nhau. Điểm cân bằng cho thấy điểm giá mà số lượng mà người sản xuất sẵn sàng cung cấp bằng với số lượng mà người tiêu dùng sẵn sàng mua. Đây là lượng cung cân bằng của thị trường. Nếu một nhà cung cấp cung cấp một số lượng thấp hơn, nó sẽ mất đi lợi nhuận tiềm năng. Nếu nó cung cấp một số lượng lớn hơn, không phải tất cả hàng hoá mà nó cung cấp sẽ bán được.

2. Lượng giá trị của hàng hóa tiếng anh là gì?

Lượng giá trị của hàng hóa tiếng anh là Quantity Supplied.

3. Các nhân tố ảnh hưởng:

Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa như sau:

– Yếu tố chính tác động đến đường cung – công nghệ, chi phí sản xuất và giá cả của các hàng hóa khác:

Cải tiến công nghệ có thể giúp thúc đẩy nguồn cung, làm cho quy trình hiệu quả hơn. Những cải tiến này làm dịch chuyển đường cung sang phải – tăng số lượng có thể được sản xuất ở một mức giá nhất định. Bây giờ, nếu công nghệ không được cải thiện và xấu đi theo thời gian thì hoạt động sản xuất có thể bị ảnh hưởng, buộc đường cung dịch chuyển sang trái.

– Chi phí sản xuất: Khi chi phí sản xuất một sản phẩm tăng lên, với tất cả những thứ khác bằng nhau, thì đường cung sẽ dịch chuyển sang phải (ít hơn sẽ có thể được sản xuất có lãi ở một mức giá nhất định). Do đó, sự thay đổi của chi phí sản xuất và giá đầu vào gây ra sự dịch chuyển ngược lại trong cung. Khi chi phí sản xuất tăng, cung giảm và ngược lại. Ví dụ về chi phí sản xuất bao gồm tiền lương và chi phí sản xuất chung. Chi phí chung và lao động giảm đẩy đường cung sang phải (tăng cung) vì nó trở nên rẻ hơn để sản xuất hàng hóa.

– Giá hàng hóa khác: Giá của hàng hóa hoặc dịch vụ khác có thể ảnh hưởng đến đường cung. Có hai loại hàng hóa khác – sản phẩm chung và sản phẩm thay thế của nhà sản xuất. Sản phẩm chung là sản phẩm được sản xuất cùng nhau. Sản phẩm thay thế của nhà sản xuất là sản phẩm thay thế có thể được tạo ra bằng cách sử dụng cùng một nguồn lực.

Các sản phẩm chung, chẳng hạn, đối với một công ty chăn nuôi chỉ đạo là da và thịt bò. Các sản phẩm này được sản xuất cùng nhau. Có mối quan hệ trực tiếp giữa giá của một hàng hóa và việc cung cấp sản phẩm chung của nó. Nếu giá da tăng lên, các chủ trang trại tăng thêm chỉ đạo, điều này làm tăng nguồn cung thịt bò (sản phẩm chung của da).

Bây giờ, để thay thế nhà sản xuất, nhà sản xuất có thể sản xuất hàng hóa này hay hàng hóa khác. Hãy xem xét một người nông dân có thể đậu nành hoặc ngô. Nếu giá ngô tăng, nông dân sẽ trồng nhiều ngô hơn, làm giảm nguồn cung đậu tương. Do đó, mối quan hệ nghịch đảo tồn tại trước giá cả hàng hóa và nguồn cung của người sản xuất thay thế.

– Lực lượng thị trường và số lượng cung cấp: Lực lượng thị trường thường được coi là cách tốt nhất để đảm bảo lượng cung là tối ưu, vì tất cả những người tham gia thị trường đều có thể nhận được tín hiệu giá và điều chỉnh kỳ vọng của họ. Điều đó nói lên rằng, một số hàng hóa hoặc dịch vụ có số lượng cung cấp của chúng do chính phủ hoặc cơ quan chính phủ quy định hoặc chịu ảnh hưởng.

Về lý thuyết, điều này sẽ hoạt động tốt miễn là cơ quan thiết lập giá có khả năng đọc tốt nhu cầu thực tế. Thật không may, các biện pháp kiểm soát giá có thể trừng phạt các nhà cung cấp và người tiêu dùng khi họ không được đặt ở mức giá xấp xỉ mức cân bằng thị trường. Nếu giá trần được đặt quá thấp, các nhà cung cấp buộc phải cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ có thể không trả lại chi phí sản xuất bao gồm cả lợi nhuận thông thường]. Điều này có thể dẫn đến thua lỗ và ít nhà sản xuất hơn. Nếu giá sàn được thiết lập quá cao, đặc biệt là đối với hàng hóa quan trọng, người tiêu dùng buộc phải sử dụng thu nhập nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ.

Trong hầu hết các trường hợp, nhà cung cấp muốn tính giá cao và bán lượng hàng lớn để tối đa hóa lợi nhuận. Trong khi các nhà cung cấp thường có thể kiểm soát số lượng hàng hóa có sẵn trên thị trường, họ không kiểm soát được nhu cầu về hàng hóa với các mức giá khác nhau. Miễn là các lực lượng thị trường được phép hoạt động tự do mà không cần quy định hoặc kiểm soát độc quyền bởi các nhà cung cấp, người tiêu dùng chia sẻ quyền kiểm soát cách hàng hóa bán ở mức giá nhất định.

Người tiêu dùng mong muốn được thoả mãn nhu cầu về sản phẩm với giá thấp nhất có thể. Nếu hàng hóa có thể thay thế được hoặc là hàng xa xỉ, thì người tiêu dùng có thể hạn chế mua hoặc tìm kiếm các lựa chọn thay thế. Sự căng thẳng năng động này trong thị trường tự do đảm bảo rằng hầu hết hàng hóa được thông quan với giá cạnh tranh.

– Ví dụ về số lượng cung cấp: Hãy xem xét một nhà sản xuất ô tô — Green’s Auto Sales — bán ô tô. Các đối thủ cạnh tranh của nhà sản xuất ô tô đã tăng giá dẫn đến những tháng mùa hè. Một chiếc ô tô trung bình trên thị trường của họ hiện được bán với giá 25.000 đô la so với giá bán trung bình trước đây là 20.000 đô la.

Green’s quyết định tăng nguồn cung cấp ô tô để thúc đẩy lợi nhuận. Dẫn đầu là những tháng mùa hè, công ty đã bán được 100 chiếc ô tô mỗi tháng, thu về 2 triệu đô la doanh thu. Chi phí để sản xuất và bán mỗi chiếc xe là 15.000 đô la, khiến lợi nhuận ròng của Green là 500.000 đô la.

Với giá bán trung bình lên đến 25.000 đô la, lợi nhuận ròng mới mỗi tháng là 1 triệu đô la. Do đó, việc nâng cao số lượng cung cấp ô tô sẽ làm tăng lợi nhuận của Green.

Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của Luật Dương Gia về các vấn đề liên quan đến lượng giá trị hàng hóa cũng như các vấn đề liên quan khác.