Lê đình dương là ai

17:55, 26/07/2013 (GMT+7)

Lê Đình Dương thuộc thế hệ trí thức trẻ tân học đầu tiên được chế độ thực dân đào tạo, ưu đãi, với hy vọng sẽ có một lớp người vong bản hết lòng phục vụ chế độ. Nhưng ông đã từ chối tất cả để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc.

Chân dung và mộ Lê Đình Dương (Điện Bàn, Quảng Nam).

Lê Đình Dương sinh năm 1894 tại làng La Kham, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, (nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn), tỉnh Quảng Nam trong một gia đình quyền quý. Thân phụ của ông là cụ Lê Đình Đỉnh đỗ cử nhân năm 1870, là người uyên bác được triều đình tín nhiệm cử ra thay thế Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh sau sự cố năm 1882, đã từng trải qua các chức vụ quan trọng như Thượng thư Bộ Binh, Đông các điện Đại học sĩ.

Từ nhỏ hai anh em ông (Lê Đình Dương và Lê Đình Thám) được học chữ Hán với thân phụ nên đều làu thông kinh sách, nhưng nhận thấy Nho học đến thời suy tàn lại được sự khai sáng của tinh thần Duy tân với việc kêu gọi học chữ Quốc ngữ và theo cái học thực dụng nên cả hai đã bỏ Nho học để theo Tân học.

Hai anh em ông đã theo học tại Trường Pháp-Việt Hội An rồi trường Quốc học Huế, sau đó thi vào Trường Cao đẳng Y khoa Hà Nội. Khi học ở Huế hai anh em ông là những học sinh xuất sắc được Khâm sứ Trung Kỳ Charles khen ngợi nhiều lần. Hai anh em ông - đặc biệt là Lê Đình Thám - rất giỏi toán, chuyên giải những bài toán khó mà nhiều khi các thầy cô giáo người Pháp ở trường vẫn không giải được. Vì vậy hai ông được các học sinh và cả các thầy cô giáo gọi bằng “thầy của tôi”, có lần phấn khích quá họ đã kiệu hai ông chạy quanh trường.

Năm 1915, ông tốt nghiệp á khoa tại Trường Cao đẳng Y khoa Hà Nội và được bổ về làm việc tại Khoa Mắt Bệnh viện Hội An. Vốn được tiêm nhiễm tinh thần cách mạng thông qua các phong trào Duy tân, kháng thuế ở quê nhà, khi học ở Hà Nội, Lê Đình Dương đã tiếp thu thêm tinh thần Duy tân Nhật Bản và Tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên, nên ông quyết tham gia Việt Nam Quang phục hội để đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.

Trong cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân năm 1916 ông được cử giữ chức Tổng trấn  Nam Ngãi, kiêm cố vấn về Ngoại giao cho phong trào. Cuộc khởi nghĩa bất thành. Vua Duy Tân cùng Phụ hoàng Thành Thái bị đày sang đảo Réunion. Các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu, Phạm Hữu Khánh bị xử chém ở An Hòa, Huế, ngày 17-5-1916.

Lê Đình Dương bị bắt ngay trong đêm khởi nghĩa, giải giam ở nhà lao Hội An. Ông đã nhận toàn bộ trách nhiệm về mình, cương quyết không khai cho một ai, thẳng thắng yêu cầu “Sát kỳ tội khôi” (Chỉ giết người lãnh đạo), để chặn đứng mưu hại đến nhiều người và để bảo đảm tối đa an toàn cho các đồng chí. Tuy nhiên do một số người phản bội nên người Pháp đã khám phá ra nhiều tài liệu và chứng cứ liên quan đến phong trào. Ở Quảng Nam, Phan Thành Tài cùng một thủ lĩnh đồng bào dân tộc tên Uthey bị chém ở cầu Chợ Củi (Điện Bàn), nhiều người khác bị đày đi Lao Bảo, Côn Sơn, Buôn Ma Thuột.

Lê Đình Dương cũng bị kêu án tử hình nhưng vì là con của đại quan triều đình lại là người học giỏi có tiếng thời đó nên Khâm sứ Trung Kỳ ra lệnh giải về Huế cho y xét hỏi. Chuyện kể, Lê Đình Dương đã làm cho tên thực dân này phải xúc động nên y đã can thiệp giảm án cho ông từ tử hình xuống còn 20 năm khổ sai biệt xứ và đày đi Buôn Ma Thuột. Dưới đây là nội dung buổi hỏi cung được Nguyễn Đắc Xuân ghi lại trong Những bí ẩn về cựu hoàng Duy Tân, tr. 92, 93:

“Khâm sứ Charles gằn giọng, tức tối hỏi: 

“Tại sao, anh lại phản bội nước Pháp? - Nước đã nuôi dạy anh em nhà anh ăn học thành tài?” 

Ông trịnh trọng đáp: 

“Thưa Ngài, tôi rất lấy làm tiếc, song cũng như ngài và những người yêu nước khác, tôi có bổn phận thiết yếu là đặt quyền lợi và danh dự của Tổ quốc tôi lên trên hết mọi sự. Nếu ngài nghĩ kỹ lại một chút thì ngài không thể lấy một nguyên cớ gì mà phiền trách tôi được, vì lẽ mấy chục triệu người dân Pháp bị mất hai tỉnh Alsace và Lorraine về tay người Đức mà còn tha thiết đau xót thay (!), huống chi, chúng tôi đây, dân Việt Nam thì mất cả nước, từ Nam chí Bắc, mà ngài bảo chúng tôi cúi đầu mà chịu, thì chúng tôi chịu làm sao được (!?)…”. 

Khâm sứ Charles xúc động, lặng người (!)… Ra lệnh cho đưa ông trở về!”.

Lê Đình Dương bị đày đi Buôn Ma Thuột, một người anh em chú bác ruột của ông là Lê Đình Quát được chính quyền ưu ái cho đi theo để giúp đỡ ông, người này đã hỏi ông về động cơ tham gia khởi nghĩa và được nghe ông thổ lộ: “...Hãy nhìn lên đức vua, với thân chín bệ mà Ngài đâu có quản gì (!?)… Tất cả đều hướng về cho Quốc dân đại nghĩa… Thế mà, chúng ta là con dân đất Việt, há lại không dám góp phần hy sinh nhỏ bé cho dân cho nước hay sao?”.  

Tại Buôn Ma Thuột, người Pháp muốn khai thác chuyên môn của ông nên đưa ông làm phụ tá cho viên y tá trưởng của nhà thương thị xã. Với công việc này dù là một tù nhân ông cũng đã giúp đỡ, cứu sống được nhiều người cả Kinh lẫn dân tộc ít người. Nhưng một thời gian sau, không chịu đựng nổi sự hà khắc mà thực dân giành cho một người tù cũng như sự dã man của chế độ thực dân mà ông phải chứng kiến qua các hành động của viên Công sứ Sabatier nên ông đã uống độc dược tự tử năm 1919, khi mới vừa 26 tuổi. Ông để lại người vợ trẻ và đứa con gái mới lên ba (vợ ông là cháu nội cụ Hoàng Diệu và cháu ngoại cụ Phạm Phú Thứ).         

LÊ THÍ

Một chí sĩ người Quảng được giao nhiệm vụ thuyết phục viên đại tá Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Trung kỳ phải ủng hộ cuộc nổi dậy của tổ chức Việt Nam quang phục hội. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, song người sĩ phu trẻ tuổi này đã chinh phục được viên đại tá kỳ cựu. Đó là Lê Đình Dương.

Lê Đình Dương.

Lê Đình Dương (1893), người làng Đông Mỹ, tổng Khương Thượng , huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, nay thuộc xã Điện Quang, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là con trai của Thượng thư Bộ binh -Tổng đốc Hà An, (tức Hà Nội - Hưng Yên) Lê Đình Đĩnh, mẹ là Phan Thị Hiệu. Lê Đình Dương là một chí sĩ thời cận đại nổi danh về chí khí yêu nước thiết tha. Đầu năm 1915, ông tốt nghiệp y sĩ khóa đầu tiên tại Trường Cao đẳng Y khoa Đông Dương Hà Nội, sau đó được bổ nhiệm làm Giám đốc Bệnh viện Hội An. Các anh em ruột của Lê Đình Dương cũng đều đỗ đạt ngành y như các bác sĩ Lê Đình Thám, Lê Đình Kiền, Lê Đình Củng và Lê Đình Quy.

Tháng 9-1915, Lê Đình Dương tự nguyện tham gia vào Việt Nam Quang phục hội, một tổ chức chính trị do nhà yêu nước Phan Bội Châu khởi xướng và thành lập từ tháng 2-1912 tại Quảng Đông, Trung Quốc. Sau một thời gian hoạt động, tổ chức này đã gầy dựng thêm được khá nhiều tổ chức cơ sở khắp các địa bàn cả nước, trong đó Lê Đình Dương gia nhập Việt Nam Quang phục hội của tỉnh Quảng Ngãi, cùng với các ông Lê Ngung, Nguyễn Súy đứng mũi, chịu sào để lãnh đạo phong trào kháng Pháp và tay sai ở nơi đây.

Tham gia tổ chức yêu nước này được chẳng bao lâu thì cuối năm 1915, chí sĩ Thái Phiên triệu tập các nhà lãnh đạo Việt Nam quang phục hội ở các tỉnh Trung kỳ về họp Đại hội lần thứ nhất tại Huế để thảo luận, bàn bạc, chuẩn bị lực lượng, vũ khí chờ thời cơ nổi dậy bạo động. Lúc này Trần Cao Vân cũng vừa hết hạn tù từ côn đảo trở về cùng dự họp. Sau mấy ngày bàn tính, hội nghị quyết định tạm hoãn cuộc khởi nghĩa để tăng cường thêm lực lượng, đồng thời giao Trần Cao Vân tìm cách vận động vua Duy Tân cùng tham gia với Việt Nam Quang phục hội khởi nghĩa. Đến tháng 2-1916, cũng tại Huế, Đại hội lần thứ hai của Việt Nam Quang phục hội được tiến hành và thống nhất đi tới mục tiêu là nổi dậy đánh úp quân thuộc địa Pháp, khôi phục chủ quyền của đất nước. Cũng tại hội nghị này đã chọn ra người cử sang Thái Lan để vận động đại sứ Đức, qua đó nhờ chính phủ Đức giúp đỡ vũ khí, cử Lê Đình Dương bí mật tiếp cận, thương thuyết với viên trung tá người Pháp gốc Đức là Harmaudes đang chỉ huy liên đoàn lính lê dương Pháp đồn Mang Cá hỗ trợ để Việt Nam Quang phục hội khởi nghĩa.

Sở dĩ Lê Đình Dương được giao nhiệm vụ này bởi vì ông là người đã được tổ chức giao giữ chức Tổng trấn Nam Ngãi kiêm cố vấn đặc trách ngoại giao trước khi cuộc khởi nghĩa diễn ra. Biết đây là công việc cực kỳ khó khăn, phức tạp, không thể một mình làm được nên Lê Đình Dương đã nhờ cậy một vị linh mục yêu nước cùng tham gia trong Việt Nam Quang phục hội làm "cầu nối" để được gần gũi với trung tá Harmudes. Thế rồi tuy ở Quảng Nam, Đà Nẵng nhưng Lê Đình Dương liên tục bí mật vượt đèo Hải Vân ra Huế để gặp Harmaudes và vị trung tá gốc Đức này hứa khi nào cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội nổ ra thì sẽ cho binh lính hưởng ứng. Bên cạnh đó, Lê Đình Dương còn vận động được một số người Việt dưới quyền của Harmaudes như Đoàn Văn Còn, Nguyễn Đình Trứ, Hà Lai, Phạm Thanh Chương sẽ chỉ huy công phá trấn Bình Đài khi thời cơ đến. Ít lâu sau, trung tá Harmaudes được thăng hàm đại tá với chức Tổng chỉ huy quân đội toàn miền Trung. Harmaudes đã tạo cớ đi phát lương cho binh sĩ để ngầm cổ vũ binh lính người Việt hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội...

Tại địa bàn Quảng Nam, Lê Đình Dương cùng với các ông Phan Thành Tài, Trương Bá Huy, Đỗ Tự tích cực vận động nên lực lượng khởi nghĩa đông đúc và mạnh hơn các địa phương khác. Chỉ tính riêng phủ Tam Kỳ đến trước ngày khởi nghĩa đã có 440 phục quốc quân, tân binh. Bên cạnh đó còn vận động thêm đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng rừng núi Phú Túc, Bà Nà (Hòa Vang), Nước Hai (Trà My) chung tay xây dựng các khu căn cứ.

Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quang phục hội được vua Duy Tân đồng ý chọn đêm mồng 1 tháng 4 năm Bính Thìn, tức ngày 3-5- 1916, song tên công sứ ở Quảng Ngãi phát hiện liền mật điện cho Tòa Khâm sứ Trung kỳ tại Huế. Một phương án phản khởi nghĩa được chúng triển khai nhanh chóng, Khâm sứ Trung kỳ Eugène Charles ra lệnh hạ sát ngay đại tá Harmaudes, 2.500 lính ở các trại chuẩn bị tòng chinh sang Pháp, một lực lượng dự bị sẽ nổi dậy ủng hộ cuộc khởi nghĩa đều được lệnh án binh bất động và bị tước sạch vũ khí đưa vào kho cất giữ. Tuy không nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng dân, binh ở phủ Tam Kỳ, Quảng Nam vẫn nổi dậy bao vây Tòa đại lý Pháp và Phủ đường Tam Kỳ, phá kho đạn, song các tên đại lý Pháp và tri phủ đều bỏ trốn. Tại Huế, vua Duy Tân và các nhà lãnh đạo Việt Nam Quang phục hội Thái Phiên, Trần Cao Vân, Lê Đình Dương... đều sa vào tay giặc, cuộc khởi nghĩa thất bại. Lê Đình Dương được đưa vào giam ở Khánh Hòa, bị chúng tra tấn, nhục hình cực kỳ tàn bạo, song ông vẫn giữ vững chí khí kiên cường của một nhà yêu nước chân chính. Không khai thác được gì, quân giặc đày ông lên nhà lao Buôn Ma Thuột. Quyết không chịu chốn lao tù của thực dân, Lê Đình Dương đã uống độc dược, hy sinh năm 1919, mới 26 tuổi.

Cuộc đời và thời gian tham gia nghĩa hội ái quốc của Lê Đình Dương tuy ngắn ngủi, song tên tuổi của ông luôn ngời sáng như một vì sao về tinh thần đấu tranh giải phóng giang sơn, đất nước. Tại địa bàn quận Hải Châu, Đà Nẵng một con đường rộng 9 mét, dài 930 mét từ đường Trần Phú giáp với đường Ông Ích Khiêm đã từ lâu mang tên Lê Đình Dương.

THÁI MỸ

Video liên quan

Chủ đề