Lấy ví dụ về vật chất trong triết học

Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ đại, dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải là bất biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển.

Vật chất (theo Lê nin) là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh và nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

* Định nghĩa ngắn gọn nhưng giải đáp đầy đủ hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng, chống lại tất cả các quan điểm sai lầm về vật chất, về mối quan hê giữa vật chất và ý thức của Chủ nghĩa duy tâm, chống thuyết bất khả tri và thuyết hòa nghị, khắc phục tính máy móc, siêu hình trong quan niệm về vật chất của Chủ nghĩa duy vật trước Mác;

* Định nghĩa nêu lên tính khái quát phổ biến rất cao của phạm trù vật chất, nó bao gồm tất cả những gì tồn tại khách quan;

* Định nghĩa giúp chúng ta tìm được yếu tố vật chất trong lĩnh vực xã hội đó là tồn tại xã hội

* Định nghĩa vạch ra cho khoa học con đường vô tâm đi sâu nghiên cứu Thế giới, tìm ra phương pháp cải tạo Thế giới ngày càng có hiệu quả.

Ví dụ:

Hỡi Cô tát nước bên đường,

Sao Cô múc Ánh trăng vàng đổ đi.

Ánh trăng vàng là Vật chất, vì:

1. Nhìn thấy (được đem lại cho con người trong cảm giác);

2. Nhớ lại và tả lại cho người khác (được cảm giác của con người chép lại, chụp lại, phản ánh);

3. Nó vẫn tồn tại dù không có Cô tát nước hay bất kỳ ai (nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác).

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật chất và mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác quan tâm với nhiều quan điểm khác nhau và luôn diển ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong suốt lịch sử của triết học.

Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức con người.

Lênin – người đã bảo vệ và phát triển Triết học Mác đã nêu ra định nghĩa về Vật chất. Định nghĩa này thể hiện mấy nội dung sau:

* Vật chất là một phạm trù triết học: Đó là một phạm trù rộng và khái quát nhất, không thể hiểu theo nghĩa hẹp như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống hàng ngày.

* Thuộc tính cơ bản nhất của vật chất là "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", đó cũng chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất và cái gì không phải là vật chất.

* Thực tại khách quan đem lại cho con người trong cảm giác "tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". Điều đó khẳng định "thực tại khách quan" (vật chất) là cái có trước (tính thứ nhất). Còn "cảm giác", (ý thức) là cái có sau (tính thứ hai). Vật chất tồn tại không lệ thuộc vào ý thức.

* "Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh". Điều đó nói lên "thực tại khách quan" (vật chất) được biểu hiện thông qua các dạng cụ thể bằng "cảm giác" (ý thức) con người có thể nhận thức được. Và "thực tại khách quan" (vật chất) chính là nguồn gốc nội dung của "cảm giác" (ý thức).

* Khẳng định thế giới thực chất khách quan là vô cùng, vô tận luôn vận động và phát triển không ngừng, nên đã có tác động cổ vũ, động viên các nhà khoa học đi nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những thuộc tính mới và những qui luật hoạt động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng vật chất của nhân loại.

* Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử xã hội. Chủ nghĩa duy vật biên chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.

* Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan qui định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật bình thường quan niệm.

* Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, củng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.

* Tính năng động sáng tạo của ý thức thể hiện ở việc con người thu nhận thông tin, cải biến thông tin trên cơ sở cái đã có, ý thức sẽ tạo ra tri thức mới về vật chất. Ý thức có thể tiên đoán, tiên liệu tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thiết khoa học. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

* Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Quá trình ấy diển ra ở 3 mặt: sự trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh, mô hình hoá đối tượng trong tư duy hình ảnh tinh thần và chuyển vào mô hình hoá từ tư duy ra hiện thực khách quan hay gọi là hiện thực hoá mô hình tư duy - đây là giai đoạn cải tạo hiện thực khách quan. Chủ nghĩa duy vật biện chứng còn cho rằng ý thức không phải là hiện tượng tự nhiên thuần tuý mà còn gọi là hiện tượng xã hội ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan. Đây chính là bản chất xã hội của ý thức.

* Quan điểm Mác xit cho rằng vật chất quyết định ý thức, ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc của con người. Bộ óc con người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

* Nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động và thực tiễn của xã hội.

* Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thể hiện mấy quan điểm sau:

  • Vật chất quyết định ý thức, vật chất quyết định nội dung ý thức. Cả ý thức thông thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Những ước mơ phong tục, tập quán, thói quen nầy nẩy sinh trên những điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiễn xã hội – lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiền đề về kinh tế chính trị xã hội, về khoa học tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng, văn hoá nhân loại cùng với thiên tài của Các Mác và Ăngghen.
  • Do thực tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó cũng luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết định ý thức. Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất. Với tính độc lập tương đối của mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người.
  • Sự tác động trở lại theo hai hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm thậm chí phá hoại sự phát triển bình thường của sự vật.
  • Vai trò của ý thức là ở chỗ nó chỉ đạo hoạt động của con người, hình thành mục tiêu, kế hoạch, ý chí biện pháp hoạt động của từng người. Cho nên trong điều kiện khách quan nhất định ý thức – tư tưởng trở thành nhân tố quan trọng có tác dụng quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại.
  • Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất thoát ly điều kiện khách quan mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có phản ánh đúng qui luật khách quan để cải tạo thế giới một cách chủ động sáng tạo và có hiệu quả. "Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan" - Lênin.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là gì? Nó có ý nghĩa như thế nào trong thực tiễn? Nếu có những thắc mắc này hãy cùng Luật Hùng Sơn phân tích thông qua các ví dụ trong bài viết dưới đây.

Hiểu rõ khái niệm vật chất và ý thức là gì?

Vật chất là gì?

Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại; chụp lại; phản ánh và không lệ thuộc vào cảm giác.

  • Lênin đòi hỏi phân biệt vật chất với với tư cách là một phạm trù triết học, nó chỉ ra tất cả những gì tác động đến ý thức của chúng ta, giúp hiểu biết các hiện tượng.
  • Vật chất là hiện thực khách quan, tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người.

Ý thức là gì?

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tuy nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ não con người thì tự nhiên trở thành ý thức. Mặt khác, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới, do nhu cầu cải tạo giới tính tự nhiên của con người quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động. Do đó, ý thức … là cái vật chất đ­ược đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.

Tính sáng tạo của ý thức được biểu hiện rất phong phú. Trên cơ sở những gì đã có, ý thức có thể tạo ra những hiểu biết mới về sự vật, có thể hình dung ra những gì không có trong thực tế. Ý thức có thể dự đoán, đoán trước được tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, hoang đường, những lý thuyết khoa học và lý thuyết rất trừu tượng và có tính khái quát cao.

Tuy nhiên, tính sáng tạo ra ý thức là sự sáng tạo ra sự phản ánh, vì ý thức bao giờ cũng chỉ là sự phản ánh tồn tại.

Ý thức là sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển xã hội nên mang bản chất xã hội.

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất có trước còn ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức quyết định ý thức,ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

Vật chất quyết định ý thức

Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng: Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, bởi vì:

Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý thức do vật chất quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.

Các yếu tố cấu thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức là bản thân thế giới khách quan hoặc các dạng tồn tại của vật chất đều khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.

Ví dụ 1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì hoạt động ý thức cũng bị rối loạn.

Ví dụ 2: Ở Việt Nam, nhận thức của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba về công nghệ thông tin còn rất yếu. Nguyên nhân là do thiếu máy móc cũng như thiếu đội ngũ giảng viên. Nhưng nếu đáp ứng được vấn đề hạ tầng thì trình độ tin học của học sinh tiểu học, cấp hai, cấp ba của sẽ tốt hơn rất nhiều. Điều này đã khẳng định điều kiện vật chất như vậy thì ý thức cũng như vậy.

Ý thức tác động lại vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn

Trong mối quan hệ với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại đối với vật chất thông qua các hoạt động thực tiễn của con người. Bởi vì ý thức chính là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức chính là nói đến vai trò của con người. Bản thân ý thức không trực tiếp làm thay đổi bất cứ điều gì trong hiện thực khách quan.

Mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, vì vậy vai trò của ý thức không phải là trực tiếp tạo ra hay làm thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người những hiểu biết về hiện thực khách quan, trên cơ sở đó con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, các biện pháp, công cụ, phương tiện … để thực hiện mục tiêu của mình.

Sự trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai hướng:

  • Tích cực: Ý thức có thể trở thành động lực thúc đẩy vật chất phát triển.
  • Tiêu cực: Ý thức có thể là lực cản phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất khi ý thức phản ánh không đúng, làm sai lệch các quy luật vận động khách quan của vật chất.

Như vậy, bằng cách định hướng hoạt động của con người, ý thức có thể quyết định hành động của con người, hoạt động thực tế của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại …

Ví dụ 1. Hiểu được tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở nhiệt độ hơn 10000C, người ta tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất thép đủ kích cỡ chứ không phải bằng phương pháp thủ công cổ xưa.

Ví dụ 2. Từ nhận thức đúng đắn về thực tế kinh tế đất nước. Từ sau Đại hội VI, đảng ta chuyển nền kinh tế từ tự cung, quan liêu sang nền kinh tế thị trường, để sau gần 30 năm bộ mặt nước ta đã thay đổi hẳn.

Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức

Mọi hoạt động đều phải xuất phát từ quy luật khách quan

Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phải phát huy tính năng động chủ quan của mình.

  • Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, tôn trọng các quy luật tự nhiên và xã hội…
  • Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của mình;
  • Không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.

Phát huy tính năng động, tích cực của ý thức

Để xã hội ngày càng phát triển thì phải phát huy tối đa vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của nhân tố con người, nhận thức đúng quy luật khách quan.

  • Phải biết dựa trên quy luật khách quan để xác định mục tiêu, kế hoạch; biết tìm ra và vận dụng các phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu để ra một cách tối ưu.
  • Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.

Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong cuộc sống

Trong kinh tế và chính trị

Vận dụng của ĐCS Việt Nam vào sự nghiệp đổi mới – Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, kinh nghiệm những thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm quan trọng đó là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.

Trong việc xây dựng nền kinh tế mới

Hiện nay, người dân hiểu và tiếp thu những nghiên cứu, đúc kết từ phân tích của nhà khoa học, nhà triết học vào thực tiễn cuộc sống. Sau đó áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nó là cơ sở để con người phản ứng với thực tại vật chất thông qua những nhận thức cụ thể. Có những thứ tồn tại trong thực tế cuộc sống cần phải có sự cải tạo của con người mới có ích cho nhiều việc.

Từ sự hiện diện của vật chất trên thế giới này, con người nhận thức đúng, thậm chí thay đổi và tác động trở lại một cách sáng tạo. Làm cho vật chất đó sinh ra các vật thể, đồ vật, sinh vật, thực vật, …. đa dạng hơn hoặc nếu chủ thể coi đó là vật có hại thì sẽ tìm cách kìm hãm sự phát triển của nó và loại bỏ nó khỏi thế giới loài người.

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chủ trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân và công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Ví dụ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong thực tiễn

Bởi vì, ý thức có tính độc lập tương đối, tính năng động sáng tạo có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con người, vì vậy cùng với việc xuất phát từ hiện thực khách quan, cần phát huy tính năng động chủ quan, tức là phát huy mặt tích cực của ý thức, hạn chế mặt tiêu cực của ý thức.

Ví dụ 1: Trước khi thực hiện một trận đánh chúng ta làm quyết tâm thư; thực hiện tự phê bình và phê bình; rút ra các nhược điểm để tiến bộ, khắc phục những mặt tiêu cực. Thực hiện giáo dục nhận thức thông qua các phong trào, thực tiễn tư tưởng cục bộ địa phương và đạo đức giả.

Hay, giữa vật chất và ý thức chỉ có những mặt đối lập tuyệt đối trong phạm vi nhận thức luận. Bên ngoài lĩnh vực đó, sự phân biệt là tương đối. Vì vậy một chính sách đúng đắn là cơ sở để kết hợp hai điều này.

Ví dụ 2: Thực hiện giáo dục chính trị tư tưởng gắn với đề cao lợi ích vật chất như: Đạt danh hiệu thi đua; khen thưởng.

Hy vọng với những thông tin Luật Hùng Sơn cung cấp đã giúp bạn hiểu rõ mỗi quan hệ giữ vật chất và ý thức cũng như ý nghĩa của vật chất, ý thức trong thực tiễn. Nếu có thắc mắc gì vui lòng liên hệ số tổng đài tư vấn 1900 6518 để được giải đáp.