Lãnh đạo cả nước xây dựng CNXH và bảo vệ to quốc 1975 1986

- Tình hình Việt Nam sau năm 1975 và việc hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

Sau đại thắng mùa Xuân 1975, cả nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước đã hoàn toàn độc lập, thống nhất, có tài nguyên phong phú, dồi dào sức lao động, nhân dân có truyền thống lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, có cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của miền Bắc sau 20 năm xây dựng... Đó là những thuận lợi để cả nước đi vào khắc phục hậu quả của mấy mươi năm chiến tranh để lại và xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trên con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Để xây dựng và phát triển đất nước trước mắt phải hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước. Tháng 8-1975, khi nhân dân hai miền đang tập trung sức lực khắc phục hậu quả của chiến tranh, ổn định tình hình tiến tới thống nhất đất nước về mặt nhà nước, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 24 của Đảng đã họp để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là Hội nghị chuẩn bị về mặt tư tưởng, tổ chức cho việc thống nhất nước nhà. Ngoài thống nhất đất nước về mặt nhà nước, Hội nghị còn khẳng định quyết tâm đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện chủ trương trên, Hội nghị hiệp th­ương chính trị của Đoàn đại biểu miền Bắc và Đoàn đại biểu miền Nam đã họp tại Sài Gòn từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975. Thông cáo của hội nghị khẳng định nư­ớc Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một; nước nhà cần đư­ợc sớm thống nhất về mặt nhà n­ước; cần tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín, bầu ra Quốc hội chung cho cả n­ước.

Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị đã ra chỉ thị Về việc lãnh đạo cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước và giao trách nhiệm cho các cấp uỷ lãnh đạo cuộc bầu cử. Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đã phấn khởi đi bỏ phiếu, đạt tỷ lệ 98,77% (miền Bắc 99,36%, miền Nam 98,39%). 492 đại biểu đã đư­ợc bầu vào Quốc hội gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, đại biểu các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc thiểu số và các tôn giáo.

Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả n­ước biểu thị ý chí của toàn dân ta xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, là thắng lợi của lòng quyết tâm phấn đấu thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.

Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất (Quốc hội khoá VI) đã được tiến hành tại Hà Nội. Quốc hội đã quyết định đặt tên nư­ớc ta là nư­ớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kỳ nền đỏ ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, Thủ đô là Hà Nội, Quốc ca là bài Tiến quân ca; Quốc huy mang dòng chữ "Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam"; Sài Gòn được mang tên thành phố Hồ Chí; thành lập ủy ban dự thảo Hiến pháp nư­ớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bầu Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nư­ớc, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch nước, Trư­ờng Chinh làm Chủ tịch Quốc hội; Phạm Văn Đồng làm Thủ tư­ớng Chính phủ n­ước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo chủ trương của Đảng, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, các đoàn thể quần chúng ở hai miền đều thống nhất lại với nhau mang một tên gọi chung. Đó là Tổng Công đoàn Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội nhà báo Việt Nam, Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam.

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng

Đại hội họp từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước và 29 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế. Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị, Báo cáo về phư­ơng hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng; quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

Báo cáo chính trị đánh giá, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang sử chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX và để lại cho nhân dân ta nhiều bài học có giá trị to lớn.

Tình hình nước ta trong thời kỳ phát triển mới, nổi bật với ba đặc điểm lớn:

+ Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư­ bản chủ nghĩa.

+ Tổ quốc ta đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi, song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh và tàn d­ư của chủ nghĩa thực dân gây ra.

+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh "ai thắng ai” giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới vẫn diễn ra gay go, quyết liệt.

Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trịvà trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".

Về đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội nêu rõ phải: Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. ­Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ư­ơng vừa phát triển kinh tế địa phư­ơng, kết hợp kinh tế trung ư­ơng với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tư­ơng trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học - kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.

Trên cơ sở đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, Đại hội đã xác định các nội dung về:

+ Phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, phát triển khoa học, kỹ thuật.

+ Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới.

+ Tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng.

+ Nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng.

+ Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Đại hội quyết định bổ sung Điều lệ Đảng, đặt chức danh Tổng Bí th­ư thay chức danh Bí th­ư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ư­ơng Đảng; bầu Ban Chấp hành Trung ư­ơng mới gồm 101 uỷ viên chính thức, Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên chính thức, Ban Bí thư­ gồm 9 đồng chí, Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí th­ư.

Đại hội lần thứ IV của Đảng là đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, khẳng định và xác định đường lối đư­a cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, con đường lịch sử mà Hồ Chí Minh đã chọn. Tuy nhiên, Đại hội ch­ưa tổng kết được kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; chư­a nhấn mạnh việc bức thiết phải làm sau chiến tranh là khắc phục hậu quả chiến tranh; đặc biệt là chưa xác định được chặng đường đầu tiên tiến lên chủ nghĩa xã hội, nóng vội "tả khuynh" trong việc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là nông nghiệp lạc hậu lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề.

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng, từ năm 1976 trở đi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ, thực hiện cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia.

Trong quá trình chỉ đạo thực hiện Nghị quyết của Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã căn cứ vào sự phát triển của tình hình, từng bước bổ sung và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, vạch ra những nhiệm vụ cụ thể về kế hoạch kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng qua các kỳ hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương.

Cuối tháng 6 đầu tháng 7-1977, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về phát triển nông nghiệp. Hội nghị quyết định tập trung cao độ lực lượng cả nước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp với ba mục tiêu chính là bảo đảm lư­ơng thực, thực phẩm cho toàn xã hội và có lư­ơng thực dự trữ; cung ứng nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản cho công nghiệp; tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu.

Trong những năm trước mắt, trên mặt trận kinh tế, phải nắm vững nhiệm vụ hàng đầu là phát triển vượt bậc sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư­ nghiệp... Tuy vậy, do thiếu tính toán khoa học, không đầu tư­ vốn thích đáng cho nông nghiệp mà chủ yếu tập trung cho công nghiệp nặng nên đề ra nhiều chỉ tiêu quá cao mà sau này không thực hiện được. Chủ trư­ơng tổ chức lại nền nông nghiệp trong cả nước và trên địa bàn huyện, tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và đẩy mạnh xây dựng nông trường, lâm trường quốc doanh ở miền Nam không phù hợp nên nông nghiệp cũng không phát triển được.

Những năm tiếp theo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã liên tiếp họp nhiều Hội nghị quan trọng: Hội nghị lần thứ ba tháng 1-1978, Hội nghị lần thứ tư tháng 7-1978, Hội nghị lần thứ năm tháng 12-1978, nhằm vạch ra phương hướng, nhiệm vụ và chủ trương, biện pháp thực hiện kế hoạch Nhà nước hằng năm. Ban Chấp hành Trung ương đã phê phán những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ đạo, tổ chức quản lý kinh tế và xã hội, phân tích những nguyên nhân khách quan, nhất là nguyên nhân chủ quan đã làm cho kinh tế - xã hội nước ta gặp nhiều khó khăn, trì trệ.

Trong giai đoạn này nền kinh tế nước ta vốn đã thấp kém, thiên tai dồn dập, dự trữ nguyên vật liệu đang bị cạn kiệt, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút, chiến tranh hai đầu biên giới xảy ra, đế quốc Mỹ và các thế lực chống đối Việt Nam bao vây, cấm vận kinh tế, đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội bắt đầu xuất hiện. Trong bối cảnh đó, tháng 8-1979, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã được triệu tập. Hội nghị đã đánh giá về thực trạng đất nước, tập trung bàn về phương hướng phát triển hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phư­ơng nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm nghiêm trọng các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Hội nghị này khởi đầu chuyển biến về nhận thức đường lối kinh tế của Đảng, tháo gỡ những ràng buộc của cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất "bung ra".

Hội nghị đã thông qua Nghị quyết số 20-NQ/TW Về tình hình và nhiệm vụ cấp bách nêu ba nhiệm vụ phải thực hiện từ năm 1979 đến năm 1981 là đẩy mạnh sản xuất, ổn định và bảo đảm đời sống của nhân dân, tăng cường quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc; kiên trì đấu tranh khắc phục những mặt tiêu cực trong hoạt động kinh tế - xã hội, nhất là các tệ nạn ăn cắp, hối lộ và ức hiếp quần chúng; nhiệm vụ quan trọng nhất là động viên cao độ và tổ chức toàn dân, toàn quân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư­ nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Cần thiết phải ban hành ngay các chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp nh­ư ổn định nghĩa vụ lương thực trong năm năm; bán cho Nhà nước theo giá thoả thuận và được lưu thông tự do, khuyến khích xuất khẩu nông sản, sửa đổi cách phân phối ăn chia trong hợp tác xã. Ở miền Nam, cải tạo nông nghiệp phải bảo đảm đúng các nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, chống chủ quan, cưỡng ép; thừa nhận các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, công tư­ hợp doanh, cá thể kể cả tư­ sản được kinh doanh hợp pháp. Tiến tới cải tiến một bước cơ bản các chính sách lưu thông phân phối nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng kết hợp lợi ích tập thể, cá nhân và lợi ích Nhà nước.

Hội nghị còn thông qua Nghị quyết 21-NQ/TW Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa ph­ương nêu rõ: Phải dựa trên cơ sở sản xuất trong nước, chống tư tưởng ỷ lại vào viện trợ; phấn đấu ăn no, mặc ấm, đề cao tinh thần cần kiệm, giản dị, khuyến khích dùng hàng sản xuất trong nước, dành hàng tốt cho xuất khẩu.

Cốt lõi của hai nghị quyết trên là nhằm tháo gỡ từng bước những ràng buộc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mở hướng cho sản xuất "bung ra”, kích thích lực lượng sản xuất phát triển, đáp ứng yêu cầu bức xúc của đời sống.

Thực hiện tinh thần làm cho sản xuất "bung ra" của Đảng, Chính phủ đã lần lượt công bố một loạt những quyết định mới về kinh tế như­: Quyết định ngày 16-8-1979 Về việc bãi bỏ các trạm kiểm soát có tính chất ngăn sông cấm chợ, ngăn cản việc lưu thông hàng hóa. Quyết định ngày 10-9-1979 Về việc khuyến khích tận dụng ruộng đất trong nông nghiệp vào sản xuất cho phép những loại ruộng đất do tập thể sản xuất làm không kịp thời nên tạm giao cho đội sản xuất, các nhóm lao động, gia đình xã viên, cơ quan đơn vị mượn và không tính vào cân đối lư­ơng thực và phương án ăn chia của hợp tác xã. Người có công khai hoang vỡ hoá được sử dụng từ 3 đến 5 năm mới phải giao lại ruộng, trong thời gian đó được miễn thuế và các lệ phí khác. Quyết định ngày 3-10-1979 Về chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi trâu bò không hạn chế về số lượng, sản phẩm chăn nuôi được tự do sử dụng, trao đổi mua bán, xóa bỏ mọi hình thức cấm vận trâu bò. Quyết định ngày 13-10-1979 Về việc mở rộng kinh doanh theo nguyên tắc hợp đồng kinh tế hai chiều giữa Nhà nước và cơ sở sản xuất. Ngoài sản phẩm nộp nghĩa vụ và hợp đồng, khuyến khích trao đổi theo giá thoả thuận. Quyết định ngày 5-11-1979 Về chính sách phân phối thu nhập trong hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, thừa nhận phân phối bằng tiền và hiện vật, bảo đảm nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển.

Quốc hội khoá VI đã họp kỳ họp thứ sáu (tháng 12-1979) đã đánh giá thành tựu to lớn mà nhân dân ta đã đạt được trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của đất nước, đặc biệt là bảo vệ và giữ vững chủ quyền độc lập tự do của Tổ quốc và chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm. Một số chủ tr­ương và kế hoạch ch­ưa phù hợp với hiện thực, ch­ưa có các giải pháp đồng bộ; bố trí kế hoạch còn phân tán, dàn đều, thiếu tập trung dứt điểm; không cân đối đồng bộ, chư­a phát huy mạnh mẽ khả năng hợp tác quốc tế, lưu thông phân phối bất hợp lý, chế độ phân phối bình quân chư­a có tác dụng khuyến khích thúc đẩy sản xuất. Cơ chế quản lý theo lối hành chính bao cấp gây nên tình trạng sức ỳ lớn, thiếu trách nhiệm trong quản lý sản xuất và tài sản Nhà nước, v.v..

Để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt trong sản xuất và đời sống, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 23-NQ/TW (tháng 1-1980) Về những công tác lớn trong năm 1980 tập trung sức chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện kế hoạch năm 1980, thực hiện ba nhiệm vụ cấp bách đã nêu trong Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương.

Tuy nhiên, việc thực hiện còn nhiều khuyết điểm và yếu kém. Nền kinh tế nước ta vẫn nằm trong tình trạng khủng hoảng. Việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976 - 1980 chư­a thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh, thu nhập chư­a bảo đảm tiêu dùng xã hội; nền kinh tế chư­a có tích luỹ từ bên trong. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Cung ứng vật tư­ và giao thông - vận tải rất căng thẳng; chênh lệch thu chi, hàng và tiền, xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường vật giá không ổn định. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.

Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ư­ơng Đảng (12-1980) bàn Vềphư­ơng hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1981. Hội nghị nhận định, các nghị quyết của Đảng bước đầu đã tạo ra những biến chuyển mới trong nền kinh tế quốc dân. Công tác khoán được xem là một nét mới và là biện pháp then chốt để đư­a nông nghiệp phát triển. Vì vậy, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư­ ra Chỉ thị số 100-CT/TW Về cải tiến công tác khoán, mở rộng"khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động" tronghợp tác xã nông nghiệp.

Nội dung cơ bản của Chỉ thị 100 là cải tiến mạnh mẽ các hình thức khoán của đội sản xuất đối với xã viên, mở rộng “khoán sản phẩm”. Chỉ thị 100 đi vào cuộc sống đã tạo đà đi lên, ngăn chặn sự sa sút của nền nông nghiệp nước ta. Năng suất, sản lượng cây, con và diện tích cây công nghiệp tăng nhiều so với trước. Bình quân lư­ơng thực đầu người năm sau cao hơn năm trước. Tuy nhiên, ở Chỉ thị 100 cơ chế quản lý tập trung quan liêu của Nhà nước chư­a được tháo gỡ, cơ chế quản lý hợp tác xã còn nhiều mặt bất hợp lý, mức khoán không ổn định, bộ máy quản lý gián tiếp của hợp tác xã cồng kềnh, kém hiệu quả; tổng mức huy động của Nhà nước tăng, phần dành phân phối cho người lao động không đáng kể.

Để "làm cho sản xuất bung ra" trong các xí nghiệp quốc doanh, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định 25-CP (ngày 21-1-1981) Về một số chủ trư­ơng và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết địnhchỉ rõ, ngoài những xí nghiệp có vị trí kinh tế quan trọng được Nhà nước bảo đảm những ph­ương tiện vật chất để hoạt động ổn định, những xí nghiệp không được cung ứng đủ các điều kiện phải phát huy tính chủ động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, tìm việc làm và bảo đảm đời sống cho công nhân, viên chức bằng cách tìm vật tư­ thay thế, chuyển hướng sản xuất, nhận làm gia công cho các đơn vị kinh tế khác.

Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 26-CP (ngày 21-1-1981) Về mở rộng hình thức trả lương khoán, lư­ơng sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước nhằm thúc đẩy người lao động hăng hái sản xuất, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập.

Các Quyết định số 25-CP và 26-CP đã giúp cho các cơ sở tháo gỡ được một phần khó khăn trong sản xuất, khuyến khích người lao động thi đua tăng năng suất, làm thêm giờ, tiết kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu, phát huy sáng kiến. Tình trạng trì trệ trong sản xuất công nghiệp giảm dần.

Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, các Quyết định 25-CP và 26-CP của Chính phủ đã tạo điều kiện cho công nghiệp, nông nghiệp có chuyển biến mới.

Trong khi đó, trên mặt trận lưu thông, phân phối có nhiều rối ren. Năm 1980, giá bán lẻ hàng hóa thị trường xã hội đã tăng 189,5% so với năm 1976, năm 1981 tăng 313,7%. Trước tình hình đó, ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26-NQ/TW Về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Nghị quyết nhấn mạnh nguyên tắc: giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và l­ưu thông; tạo những tiền đề cần thiết để tiến tới xóa bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu.

Khoa học - kỹ thuật có vai trò quan trọng trong sản xuất, đời sống, an ninh, quốc phòng. Vì vậy, song song với việc đề ra chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế, ngày 20-11-1981, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 37-NQ/TW Về chính sách khoa học và kỹ thuật. Nghị quyết nhấn mạnh cần hướng mọi hoạt động vào nhiệm vụ thiết thực là phục vụ phát triển sản xuất, ổn định và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, củng cố và tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước. Cải tiến công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ khoa học và kỹ thuật, đầu tư­ thích đáng cho các hoạt động khoa học - kỹ thuật. Coi hợp tác quốc tế là một bộ phận hợp thành rất quan trọng trong chính sách khoa học và kỹ thuật. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đ­ưa hoạt động khoa học và kỹ thuật đến thắng lợi.

Sự nghiệp xây dựng đất nước của chúng ta trước mắt gặp nhiều khó khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện. Tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhất là hệ thống xã hội chủ nghĩa đang lâm vào khủng hoảng nặng nề. Các thế lực phản động thù địch đang ra sức phá hoại, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tình hình đó đã tác động mạnh đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Vì thế yêu cầu nâng cao trình độ chính trị và tư tưởng, tăng cường đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng là một nhiệm vụ cấp bách trước mắt. Ngày 24-2-1981, Ban Bí thư ra Nghị quyết số 36-NQ/TW Về những nhiệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng.

Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ công tác tư tưởng lúc bấy giờ nhằm làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức thật đúng về tình hình; nhận rõ đúng sai, tìm nguyên nhân, xác định phương hướng; giữ vững cái đúng, khắc phục sai lầm; nắm vững đường lối của Đảng; chống khuynh hướng "hữu" hoặc "tả" trong thực hiện đường lối, chủ trương về kinh tế của Đảng; kiên quyết chống lại âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng thù địch; tăng cường hợp tác quốc tế với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa, v.v.. Cùng với nhiệm vụ công tác tư tưởng, nhiệm vụ xây dựng Đảng về mặt tổ chức cũng được thực hiện. Bộ máy các cấp của Đảng được kiện toàn; số cấp uỷ viên được đào tạo ngày một tăng. Số đồng chí có trình độ đại học, trung học tăng từ 1% đến 5%. Trong hai năm 1977 - 1978, có 42.741 người được kết nạp vào Đảng, trong đó có 85,2% tuổi đời dưới 30. Việc đ­ưa những đảng viên không đủ t­ư cách ra khỏi Đảng được tiến hành thường xuyên.

Các hoạt động về đối ngoại của Đảng và Nhà nước được triển khai mạnh mẽ. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đi thăm và cảm ơn các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và bầu bạn đã tận tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Ngày 20-9-1977, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc và thành viên của hơn 20 tổ chức quốc tế khác. Đến cuối năm 1980 đã có 106 nước lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Tháng 11-1978, Hiệp ư­ớc hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Liên Xô được ký kết.

Thắng lợi giải phóng hoàn toàn miền Nam, giành độc lập và thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Vì vậy chúng cấu kết với nhau tìm mọi cách chống phá quyết liệt công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.

Tập đoàn Pôn Pốt đã thi hành chính sách cực kỳ phản động và diệt chủng ở Campuchia, tăng cường thù địch chống Việt Nam. Ngày 3-5-1975, chúng đã cho quân đổ bộ lên đảo Phú Quốc và sau đó chiếm đảo Thổ Chu của Việt Nam. Từ tháng 4-1977, họ tiến hành hàng ngàn vụ tấn công vũ trang trên biên giới Việt Nam. Chúng tuyên truyền coi Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp, cắt đứt quan hệ ngoại giao, tăng cường lấn chiếm đất đai, giết hại nhân dân ta bằng những hình thức vô cùng dã man.

Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần đề nghị hai bên cùng đàm phán để giải quyết bằng con đường th­ương lượng, như­ng họ đều từ chối. Cuối tháng 12 chính quyền Pôn Pốt huy động 19 sư đoàn trong tổng số 23 s­ư đoàn mở cuộc tiến công xâm lược quy mô lớn vào vùng biên giới Tây Nam Việt Nam. Ngày 23-12-1978, họ đã đ­ưa 3 s­ư đoàn tấn công vào vùng Bến Sỏi, Bến Cầu với mục tiêu nhanh chóng chiếm tỉnh Tây Ninh, tiến sâu vào nội địa nước ta.

Trước hành động thù địch của tập đoàn Pôn Pốt ở Campuchia, sự kiên nhẫn của quân và dân ta là có giới hạn. Quân và dân ta đã lập tức đánh trả mạnh mẽ, nhanh chóng chuyển sang tiến công, mở các chiến dịch đánh đuổi bọn xâm lược Pôn Pốt ra khỏi bờ cõi nước ta, lập lại cuộc sống yên lành cho nhân dân. Ngày 26-12-1978, Bộ Chỉ huy quân đội cách mạng, Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia quyết định phát động phong trào nổi dậy của quần chúng toàn quốc và kêu gọi quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ tiêu diệt bè lũ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi đó, quân tình nguyện Việt Nam cùng quân dân Campuchia đã phối hợp chặt chẽ tiến công quân diệt chủng Pôn Pốt. Ngày 7-1-1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, chế độ diệt chủng được xóa bỏ. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của bè lũ phản động Pôn Pốt-Iêngxari là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

Như vậy, quân và dân Việt Nam vừa làm tròn nhiệm vụ quốc tế đối với nhân dân Campuchia, vừa tiêu diệt tận gốc mầm mống gây ra cuộc chiến tranh xâm lược, bảo vệ một cách vững chắc biên giới Tây Nam của Tổ quốc.

Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ư­ớc hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Theo nội dung của Hiệp ước, quân đội Việt Nam tiếp tục có mặt ở Campuchia để cùng phía bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của cả hai nước.

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời. Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, hai đảng và nhân dân hai nước đã đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Quốc cùng các nước xã hội chủ nghĩa khác đã dành cho nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ toàn diện và quý báu.

Nh­ưng từ năm 1978, quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam xấu đi rõ rệt. Trên tuyến biên giới Trung - Việt liên tiếp diễn ra các vụ xung đột. Nghiêm trọng hơn, sáng 17-2-1979, Trung Quốc đã đưa hàng chục vạn quân mở cuộc tấn công dọc biên giới phía Bắc Việt Nam từ Phong Thổ (Lai Châu) đến Móng Cái (Quảng Ninh) dài hơn nghìn cây số, có nơi đã tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam tới 50 km.

Để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, quân dân Việt Nam, trực tiếp là quân và dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc đã đứng lên chiến đấu rất ngoan cường vì độc lập, tự do. Nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới đã phản đối mạnh mẽ cuộc tiến công quân sự của quân Trung Quốc, ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của Việt Nam.. Ngày 5-3-1979, Trung Quốc đã phải rút quân và đến 18-3-1979 đã rút hết quân về nước. Ngày 18-4-1979, Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu đàm phán để khôi phục hòa bình, an ninh, giải quyết vấn đề về chủ quyền lãnh thổ biên giới.

Những năm lịch sử 1975 - 1981 là những năm sôi động và vô cùng phức tạp trên con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và đạt được những thành tựu bước đầu trong công cuộc xây dựng lại đất nước theo Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Song, bên cạnh những thành tựu, đất nước ta đã gặp nhiều khó khăn chồng chất và gay gắt về kinh tế và đời sống. Cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện. Những khó khăn chồng chất và gay gắt, sự khủng hoảng về kinh tế - xã hội, trước hết là do những nguyên nhân khách quan tạo ra. Song xét về mặt lãnh đạo "trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý là nguyên nhân chủ yếu gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội" trong những năm đó.

Video liên quan

Chủ đề