Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945Ngày đăng: 18/08/2021 Show
In bài Gửi Xem với cở chữ : A- A A+vai-tro-cua-chu-tich-ho-chi-minh-trong-cach-mang-thang-tam-nam- (Cổng TTĐT AG) -Chiến thắng của Đồng minh trước phe phát xít trong năm 1945 đã tạo thời cơ để Việt Nam giành độc lập. Tuy nhiên, cần có sự chuẩn bị từ trước thì mới có đủ lực lượng để đón nhận thời cơ này. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tính toán một cách kỹ lưỡng và chu toàn ngay sau khi Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau 30 năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài (1911 - 1941).
Cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi trước Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” (1927), Người nhấn mạnh: “cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước” Để cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi, tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, Người đã chỉ rõ: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Người cũng nói rõ thêm, Đảng cách mạng sẽ có nhiệm vụ “trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức, vô sản giai cấp ở mọi nơi”. Nhận định và nắm bắt thời cơ Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Làm cách mạng phải biết dựa vào thời cơ và phải nhìn chung phong trào mọi nơi, mọi chốn mới chiến thắng”. Vì việc nhận định đúng thời cơ và nắm bắt thời cơ để giành độc lập dân tộc là vô cùng quan trọng. Ngày 22/6/1940, Pháp mất nước vào tay phát xít Đức. Nắm được tin này, tại Côn Minh (Trung Quốc), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập cuộc họp Ban Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Người phân tích: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”. Chuẩn bị cho việc giành độc lập Năm 1941, sau khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị được tổ chức và phát triển. Tiếp đó, thực hiện chỉ thị của Người, ngày 4/6/1945, khu giải phóng Việt Bắc được thành lập bao gồm hai căn cứ lớn trên địa bàn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc ngoại vi tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái. Tân Trào được chọn là Thủ đô lâm thời của Khu giải phóng. Với 1 triệu người gồm nhiều dân tộc khác nhau, khu giải phóng đã thực sự là “hình ảnh nước Việt Nam mới”, cùng với hệ thống các chiến khu trong cả nước tạo thành hậu phương và bàn đạp cho thế trận Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945. Việt Minh hợp tác với phe Đồng minh chống phát xít Tháng 10/1944, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Ðồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), tuy thời cơ đã xuất hiện, song Đảng vẫn chưa quyết định phát lệnh Tổng khởi nghĩa, bởi do cuộc đảo chính diễn ra quá nhanh, các tầng lớp đứng giữa chưa ngả hẳn về cách mạng, đội tiên phong còn đang lúng túng về chuẩn bị khởi nghĩa. Trong Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, có một đoạn đề cập như sau: “Dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc tổng khởi nghĩa của ta; vì như thế là ỷ lại vào người và tự bó tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”. Trong Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Người khẳng định: “Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh Ngay trong đêm 13/8/1945, nắm chắc quân đội Nhật sẽ đầu hàng Đồng minh vì Liên Xô đã tham gia tấn công Nhật, Ủy ban Khởi nghĩa ra Quân lệnh số 1. Về nhiệm vụ của Quân giải phóng Việt Nam, Quân lệnh số 1 (13/8/1945) ghi rõ: “Dưới mệnh lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, các bạn hãy tập trung lực lượng, kíp đánh vào các đô thị và trong trận của quân địch; đánh chẹn các đường rút lui của chúng, tước võ khí của chúng! Đạp qua muôn trùng trở lực các bạn hãy kiên quyết tiến!”. Quân lệnh số 1 còn kêu gọi nhân dân toàn quốc: “Dưới mệnh lệnh của Uỷ ban Khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù”. Tiếp đó, ngày 16 và 17/8/1945 (khi Nhật Bản đã đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945), Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào, tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng. Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa (18/8/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Điều này là do Người đã học tập sâu sắc lời dạy của V.I.Lênin: “Lịch sử sẽ không tha thứ cho những người cách mạng hôm nay có thể chiến thắng (và nhất định sẽ thắng lợi hôm nay) mà lại để chậm trễ, vì nếu đợi đến ngày mai thì không khéo sẽ mất nhiều, không khéo lại bị mất tất cả... Lịch sử tất cả các cuộc cách mạng đã chứng minh điều đó. Và những người cách mạng sẽ phạm một tội ác vô cùng lớn, nếu họ bỏ lỡ mất thời cơ”. Trong Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát diễn biến Cách mạng Tháng Tám: “Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà” .Về nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đó là thắng lợi của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ của giai cấp công nhân, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Đó là thắng lợi của đường lối đoàn kết toàn dân, sử dụng bạo lực cách mạng để lật đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến. Đó là sự tài tình, sáng tạo của Đảng trong việc tạo thời cơ, nắm vững thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước”. Giáo sư William J.Duiker, nhà sử học nổi tiếng của Mỹ, thì bổ sung thêm với nhận định: “Chỉ riêng các điều kiện khách quan thì không làm nên một cuộc cách mạng, và ở đây công lao thuộc về những người Cộng sản. Họ đã có thể chớp lấy thời cơ được mở ra vô cùng thuận lợi vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh... Chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương sở hữu ý thức về sự kịp thời và thấu hiểu được sự tinh tế có tính chiến lược của hoàn cảnh để vùng lên đúng lúc”./. H.B (tổng hợp) VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TỪ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8 (5/1941) ĐẾN THẮNG LỢI CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (1945)Thứ tư - 31/07/2019 19:45 87 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam đã lập nên nhiều kỳ tích. Cách mang Tháng Tám năm 1945 là một sự kiện quan trọng, tạo bước ngoặt trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và chấm dứt chế độ quân chủ hàng nghìn năm trên đất nước ta. Thành công của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân mà trước hết thuộc về sự lãnh đạo của Đảng. Trong quá trình chuẩn bị Cách mạng Tháng Tám 1945, Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng diễn ra tháng 5/1941, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc có vai trò và ý nghĩa đặc biệt to lớn. Bài viết này phân tích rõ vai trò của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong Hội nghị Trung ương 8, từ đó cho thấy tầm vóc trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Người giúp cho Đảng kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đưa cách mạng Việt Nam phát triển phù hợp với quỹ đạo vận động của thời đại. Khả năng thâu tóm được những thời cơ, vận hội, kịp thời điều chỉnh, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược một cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi để tạo bước ngoặt quyết định thắng lợi cách mạng là bài học kinh nghiệm để Đảng ta hôm nay tiếp tục quán triệt và vận dụng trong công cuộc đổi mới. Sau 30 năm ra nước ngoài tìm đường cứu nước, đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về nước. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về đến Cao Bằng rồi nhanh chóng bắt tay xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng tại đây. Sau một thời gian chuẩn bị, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương do Nguyễn Ái Quốc chủ trì được triệu tập tại Pác Bó (Hà Quảng - Cao Bằng), từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941. Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên cùng một số đại biểu của Xứ uỷ Trung Kỳ, Bắc Kỳ và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Phân tích tình hình thế giới, Hội nghị nhận định: chiến tranh thế giới đang lan rộng, phát xít Đức đang ráo riết chuẩn bị đánh Liên Xô, phát xít Nhật sắp gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương. Chiến tranh sẽ làm cho các nước đế quốc suy yếu, phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển nhanh chóng, Liên Xô nhất định chiến thắng và cách mạng nhiều nước nhân đó mà thắng lợi. "Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công" (1). Phân tích tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định: từ khi Nhật nhảy vào xâm chiếm, Pháp đầu hàng Nhật, mọi hoạt động kinh tế ở Đông Dương đều bị chiến tranh hoá, tất cả bộ máy cai trị đều bị phát xít hoá. Chính sách phản động đó của Pháp - Nhật càng làm cho mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông Dương với chủ nghĩa đế quốc xâm lược thêm sâu sắc. "Các dân tộc Đông Dương hiện nay bị dưới hai tầng áp bức bóc lột của giặc Pháp - Nhật. Ách áp bức ấy quá nặng nề, các dân tộc Đông Dương không thể nào chịu được. Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng" (2). Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương cuối năm 1940 đầu năm 1941 là hệ quả của ách thống trị tàn bạo đó. Trên cơ sở nhận định tình hình, Hội nghị xác định: "Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật"(3). "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc… nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc"(4). Như vậy, nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết nhất của cách mạng Đông Dương. Nhiệm vụ trước hết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải giành cho được độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, căn cứ vào đặc điểm Đông Dương, hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc không phải chung trên toàn Đông Dương mà trong phạm vi từng nước, để "làm sao đánh thức được tinh thần dân tộc xưa nay trong nhân dân (hơn hết là dân tộc Việt Nam)". Đây là cơ sở cho sự đổi mới hình thức tên gọi Mặt trận dân tộc thống nhất để "có tính dân tộc hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn". Để tập hợp được mọi người Việt Nam yêu nước, tranh thủ các lực lượng cách mạng chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chủ yếu của dân tộc là phát xít Nhật-Pháp, hội nghị đã quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh; tạm gác khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày”; đề ra chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo; giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Phân tích những điều kiện khách quan và chủ quan, hội nghị cho rằng "Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang", chủ trương thành lập, phát triển và tăng cường lãnh đạo các tổ chức vũ trang và nửa vũ trang; chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị nêu rõ: "ta phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù, nghĩa là nay mai đây cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và cuộc kháng chiến của nhân dân Tàu xoay ra hoàn toàn cho cuộc cách mạng Đông Dương thắng lợi thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn". Như vậy, vấn đề khởi nghĩa vũ trang đã có những dự kiến bước đầu trong các Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939); Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940), sự đúc rút kinh nghiệm Xô viết Nghệ - Tĩnh, các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Đô Lương đến Hội nghị này được hoàn chỉnh từ những dự đoán xu thế phát triển của tình hình thế giới và trong nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị khẳng định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi. Đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện thời. Hội nghị cũng đặc biệt nhấn mạnh đến sự đoàn kết ba dân tộc ở Đông Dương trong một chiến lược chống kẻ thù chung Pháp - Nhật và tay sai, giành độc lập ở từng dân tộc, coi đó là vấn đề sống còn của ba dân tộc. "Những dân tộc sống ở Đông Dương đều chịu dưới ách thống trị của giặc Pháp - Nhật, cho nên muốn đánh đuổi chúng nó không chỉ dân tộc này hay dân tộc kia mà đủ, mà phải có một lực lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đông Dương họp lại" (5). Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, "ta phải thi hành đúng chính sách "dân tộc tự quyết" cho dân tộc Đông Dương" (6). Vấn đề xây dựng Đảng được đặc biệt chú trọng. Hội nghị chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn về công vận, nông vận, binh vận...; tăng thêm thành phần vô sản trong Đảng, lấy việc vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong tổ chức quần chúng của Đảng, làm cho phong trào công nhân lên cao và tiên phong cho các phong trào khác. Đảng bộ miền Nam, đảng bộ miền Trung phải giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở Campuchia, Lào,... nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc đi đến toàn thắng. Hội nghị công bố một số văn kiện quan trọng như Chương trình Việt Minh, Điều lệ của Nông dân cứu quốc, Điều lệ của du kích cứu quốc, lời kêu gọi nhân dân bản xứ trong tình hình mới, văn kiện về vấn đề Đảng... Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã kiện toàn ban lãnh đạo của Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư, bầu Ban Thường vụ gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt. Chế độ làm việc của Ban Chấp hành Trung ương theo nguyên tắc: nêu cao tinh thần trách nhiệm; đoàn kết, nhất trí; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; phê bình và tự phê bình. Ngay sau hội nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã ra Lời kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi đế quốc Nhật-Pháp. Rõ ràng, nghị quyết của hội nghị lần thứ 8 đã đánh dấu bước tiến mới trong tư duy cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, phát triển, hoàn chỉnh những chủ trương được đề ra ở Hội nghị Trung ương 6 (tháng 11/1939) và Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11/1940). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) đã phát triển sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa, tiến hành công cuộc giải phóng dân tộc như nước ta; có tác dụng quyết định trong việc vận động toàn Đảng, toàn dân tích cực chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Sau Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng, theo chỉ thị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, vấn đề “Nam tiến” được thực hiện khẩn trương. Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ đánh thông hai con đường Cao Bằng - Lạng Sơn và Cao Bằng - Bắc Cạn - Thái Nguyên để giữ vững liên lạc với Thường vụ Trung ương Đảng, tạo điều kiện phát triển các cơ sở chính trị và lực lượng vũ trang cách mạng. Năm 1944, phong trào cách mạng ở Việt Nam phát triển khá mạnh. Trên cơ sở các lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, thực hiện chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Trong khi chú trọng xây dựng lực lượng chính trị và quân sự, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước khẳng định thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần và động viên các đoàn thể, đảng phái ra sức chuẩn bị để họp Toàn quốc Đại biểu hội nghị. Bức thư của Người có đoạn: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!” Đúng như nhận định của Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng từ hội nghị Trung ương 8, phát xít Nhật và thực dân Pháp nhất định loại trừ nhau, ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương. Từ ngày 9 đến 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng ở Đình Bảng (Bắc Ninh), ra Bản chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, xác định thời cơ Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, kẻ thù chính của dân tộc là phát xít Nhật và bọn tay sai; phát động phong trào chống Nhật, cứu nước. Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) trực tiếp chỉ đạo cách mạng trong cả nước. Người chỉ thị thành lập Khu giải phóng ở Việt Bắc, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Quân Giải phóng và đề ra “10 chính sách” với mục đích đánh đuổi bọn phát xít và bè lũ tay sai, chăm lo đời sống và mang lại các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Khu giải phóng. Lúc này, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức, Ý đã đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh. Quân Nhật vô cùng hoang mang, dao động; phong trào cách mạng cả nước sôi sục. Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng quyết định Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc. Người nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Hội nghị Toàn quốc của Đảng (họp từ ngày 13 đến 15/8/1945) ra quyết định Tổng khởi nghĩa. Tiếp theo đó, Quốc dân Đại hội họp ngày 16/8/1945, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, thể hiện sự đoàn kết toàn dân, đã nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng thời quy định Quốc kỳ và Quốc ca của nước Việt Nam mới. Từ Quốc dân Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi Tổng khởi nghĩa. Theo lời kêu gọi của Người, toàn dân ta đã nhất tề đứng dậy làm Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào trở về Hà Nội. Người chủ tọa các cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, quyết định các vấn đề đối nội và đối ngoại trong tình hình mới; xác định trước hết, phải sớm ra bản Tuyên ngôn độc lập và ra mắt Chính phủ lâm thời. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố trước quốc dân và thế giới về quyền độc lập và tự do của đất nước và dân tộc Việt Nam. Như vậy, từ tư tưởng và định hướng của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941), Cách mạng Tháng Tám đã thành công, mở ra một trang mới cho dân tộc và lịch sử nước nhà. Có thể nói, với sự có mặt và chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1941 đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị đã phân tích sâu sắc mâu thuẫn chủ yếu của xã hội và vạch ra những sách lược cụ thể, sát hợp nhằm giải quyết mục tiêu chiến lược số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc. Trên cơ sở đó mà có những chủ trương sáng tạo như thành lập mặt trận Việt Minh, xúc tiến khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 đã góp phần bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta. Lật giở lại những trang Lịch sử Đảng, chúng ta lại càng thấy rõ tầm vóc và ảnh hưởng to lớn của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh. Tinh hoa trí tuệ trong tư tưởng và năng lực lãnh đạo của Người đã giúp cho Đảng ta kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đưa cách mạng Việt Nam phát triển phù hợp với quỹ đạo vận động của thời đại, đồng thời có khả năng thâu tóm được những thời cơ, vận hội quý báu để tạo bước ngoặt quyết định thắng lợi của cách mạng. Bài học kinh nghiệm để Đảng ta hôm nay tiếp tục quán triệt và vận dụng chính là phát huy năng lực lãnh đạo, kịp thời điều chỉnh, chuyển hướng chỉ đạo chiến lược một cách linh hoạt, sáng tạo khi tình hình thay đổi. Kỷ niệm 77 năm ngày Bác Hồ về nước (28/01/1941 - 28/01/2018), những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người và những bài học rút ra từ những năm tháng lịch sử cần được học tập và vận dụng một cách nghiêm túc, sáng tạo vào thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.,. ------------------ Chú thích (1), (2), (3). Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.122. (4). Sđd tr. 114. (5). Sđd tr.113 (6). Sđd tr. 129 Tài liệu tham khảo Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Đảng cộng sản Việt Nam, (2000),Văn kiện Đảng toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 7 Võ Nguyên Giáp (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Lê Đức Hoàng Nguyễn Thị Bình Minh , Hoạt động cách mạng của Bác Hồ ở Quảng Tây với thắng lợi Cách mạng tháng tám năm 1945, Khoa Sử, Đại học Vinh, trang thông tin KH&CN Nghệ An số 11/2012. Tác giả bài viết: TS. Nguyễn Thị Hoàn, Khoa Lý luận Chính trị - ĐH KTQD và TS. Lê Thị Lý, Khoa Lý luận Chính trị - Đại học KTKTCN Nguồn tin: Tham luận tại Hội thảo Khoa học kỷ niệm 77 năm Bác Hồ về nước: 28/01/1941 - /28/01/2018 Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://nukeviet.vn là vi phạm bản quyền Bác Hồ với thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám(ĐCSVN) – Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.
Sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về Tổ quốc trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi đến thành công; với tầm nhìn xa trông rộng, nắm bắt được tình hình thế giới, đánh giá đúng thời cơ cách mạng, Người cùng Trung ương Đảng đã xây dựng lực lượng và lãnh đạo quân, dân cả nước tiến hành thắng lợi Cách mạng tháng Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra trang sử vẻ vang chói lọi nhất cho dân tộc Việt Nam. Tháng 8/1945, phát xít Đức đầu hàng đồng minh, ở Đông Dương, quân Nhật hoảng loạn, phong trào cách mạng cả nước sôi sục, những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, Bác Hồ đã khẳng định, lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu cũng phải giành cho được độc lập. Với tư duy chiến lược, nhãn quan chính trị nhạy bén và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn phong phú, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nắm chắc thời cơ cách mạng, kịp thời đề ra chủ trương, kế hoạch Tổng khởi nghĩa, kêu gọi sự đoàn kết nhất trí của toàn dân tộc để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ngày 13/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào quyết định phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước trước khi quân Đồng Minh vào Đông Dương. Ngay đêm hôm đó, Uỷ ban Chỉ huy lâm thời Khu giải phóng đã hạ lệnh khởi nghĩa và phát đi “Quân lệnh số 1” kêu gọi đồng bào cả nước đứng dậy tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 16/8/1945, Đại hội Đại biểu Quốc dân (tức Quốc dân Đại hội Tân Trào) tiến hành họp và phát động Tổng khởi nghĩa vũ trang, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, trong đó điểm đầu tiên là phải “giành chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên nền tảng hoàn toàn độc lập”; Đại hội quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng; chọn bài Tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử Cách mạng Việt Nam, phát động khởi nghĩa giành chính quyền một cách nhanh nhất, khẩn trương nhất, để cả đất nước Việt Nam đứng lên tự làm chủ vận mệnh của mình và đất nước mình. Thành công của Đại hội cho thấy sự sáng tạo độc đáo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền ngay trong tiến trình đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc bằng hình thức tổ chức Quốc dân Đại hội để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945. Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa với lời hiệu triệu: "Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến; toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành độc lập. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên". Sáng ngày 19/8/1945, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mít tinh. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu Ủy ban quân sự Cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mít tinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm Phủ Khâm sai, trại lính bảo an và các cơ sở của Chính phủ bù nhìn. Từ Hà Nội, làn sóng Cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi. Cách mạng tháng Tám là sự kiện vĩ đại trong lịch sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của Cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối Cách mạng đúng đắn của Đảng ta: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, Nhật; lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã giành thắng lợi hoàn toàn; Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng chục vạn nhân dân, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người nhấn mạnh: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!” Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những thắng lợi nổi bật nhất, vĩ đại nhất của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta. Mùa thu Tháng Tám năm 1945 đã đi vào lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi, mở ra một trang sử mới, trang sử hào hùng nhất suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Phát huy những giá trị của Cách mạng tháng Tám và sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, nhân dân ta sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách, chiến thắng dịch COVID-19, cũng như thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra. Trong những ngày mùa Thu lịch sử này, kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhân dân Việt Nam lại hướng về Quảng trường Ba Đình lịch sử để bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhớ về Bác muôn vàn kính yêu, chúng ta càng tự hào về những năm tháng hào hùng của mùa Thu năm 1945. Tinh thần Cách mạng Tháng Tám sẽ còn mãi tỏa sáng, là nguồn sức mạnh to lớn của thời đại mới, là động lực và chỉ dẫn quan trọng cho sự nghiệp đổi mới, phát huy ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”./. Một số hình ảnh ngày Cách mạnh Tháng Tám năm 1945 tại Hà Nội.
Khắc Trường (tổng hợp tư liệu)
Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc lựa chọn thời cơ trong cách mạng tháng tám năm 194519/08/2021 16:14:41 CH Vào lúc 14 giờ ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, tại vườn hoa Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể Nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, là dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chớp thời cơ chiến lược “ngàn năm có một”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất” giành chính quyền trong cả nước. Việc dự báo đúng thời cơ, nhận định đúng thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là vô cùng quan trọng, góp phần rất lớn, quyết định đến sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngược dòng lịch sử, ngay từ khi còn bị giam cầm trong các nhà tù của Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh đã luôn thức được vấn đề thời cơ trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm Nhật ký trong tù, Người đã viết: “Thác lộ, song xa dã một dụng,/ Phùng thời, nhất tốt khả thành công”; dịch nghĩa: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,/ Gặp thời, một tốt cũng thành công”. Tháng 6/1940, được tin Pháp đầu hàng Đức, Nguyễn Ái Quốc lúc này đang ở Côn Minh, Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp Cơ quan ở nước ngoài của Đảng để phân tích tình hình và chuẩn bị kế hoạch hành động. Người đã phân tích và dự báo: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”. Sau cuộc họp này, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ thị cho Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đến Quý Dương để cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đi Quế Lâm, tìm cách về nước. Cuối tháng 6/1940, Nguyễn Ái Quốc đáp máy bay đi Trùng Khánh để gặp Chu Ân Lai trao đổi về thời cuộc. Cuối tháng 9/1940, Người đã đưa ra một nhận định cực kỳ quan trọng: “Đồng minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập”. Ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba lên đường về nước, đến ngày 8/02/1941, Người đã đặt chân tới cột mốc 108 trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc, trở về nước sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài. Từ ngày 10-19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám để phân tích tình hình thế giới đang bị tác động sâu sắc bởi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Người dự báo: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của các mạng Đông Dương, không biết chớp thời cơ thì vạn năm cũng không đòi lại được. “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”. Vào dịp tết Nguyên đán Nhậm Ngọ năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đã cho xuất bản tác phẩmLịch sử nước ta. Đây là một bài diễn ca gồm 236 câu lục bát kể lại lịch sử nước ta từ thời vua Hùng dựng nước đến năm 1942, ca ngợi truyền thống yêu nước, bất khuất, đoàn kết của Nhân dân ta. Cuối tác phẩm, Hồ Chí Minh đã đưa ra dự báo thiên tài: Năm 1945 - Việt Nam độc lập”. Đặc biệt, nhằm tập hợp, quy tụ các lực lượng, cá nhân yêu nước trên toàn quốc cùng thực hiện các mục tiêu chung là giành lại độc lập dân tộc, thực hiện tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, theo chủ trương của Hồ Chí Minh, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ra đời. Chương trình Việt Minh nêu rõ: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, chiến đấu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phát xít Nhật, giành quyền độc lập cho nước Việt Nam… lập chính phủ Nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do Quốc dân Đại hội cử lên, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc kỳ…”. Ngày 25/10/1941, Việt Minh ra bản Tuyên ngôn: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn…”. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, công tác xây dựng lực lượng cách mạng, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền đã diễn ra sôi nổi trong toàn quốc. Phong trào xây dựng các đoàn thể cứu quốc, như Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc… diễn ra sôi nổi từ cuối năm 1941 ở cả nông thôn và thành thị. Song song với việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc, tổ chức Mặt trận Việt Minh, việc xây dựng các căn cứ địa cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Người, khu căn cứ địa Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên đã phát triển mạnh mẽ và trở thành khu giải phóng Việt Bắc. Hồ Chí Minh cũng chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12/1944. Đến giữa năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, lực lượng cách mạng trên toàn quốc đã phát triển vượt bậc, sẵn sàng cho thời cơ đến. 21 giờ 30 phút ngày 9/03/1945, Nhật đồng loạt tấn công Pháp trên toàn Đông Dương, bắt sống Toàn quyền Decoux và các sĩ quan cáo cấp tại Sài Gòn, đến chiều ngày 10/03, quân Pháp đầu hàng Nhật. Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp ở Đình Bảng. Hội nghị đã đưa ra Chỉ thịNhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản Chỉ thị nêu rõ: “Ngay bây giờ phát động chiến tranh du kích, chiếm căn cứ, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng minh một cách tích cực”. Tháng 5/1945, sau khi phát xít Italia, phát xít Đức bị đánh bại ở châu Âu, phát xít Nhật hoàn toàn bị cô lập và đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Tiếp đến, ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ trong vòng một tuần lễ, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt đạo quân Quan Đông - đạo quân tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Nhật, giải phóng vùng Đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Trước đó nhằm gây sức ép với Chính phủ Nhật và phô trương sức mạnh vũ khí hạt nhân, trong hai ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật là Hirôsima vàNagazaki làm hàng chục vạn người chết và để lại những hậu quả nặng nề kéo dài. 12 giờ ngày 15/8/1945, Đài phát thanh Tôkiô của Nhật Bản phát đi lời tuyên bố của Nhật hoàng “chấp nhận bản Tuyên bố chung của các cường quốc - Tuyên bố Pốtx-đam”. Nước Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng. Quân đội Nhật đang đồn trú tại các quốc gia khác ở nguyên vị trí chờ quân Đồng minh đến giải giáp. Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Thông tin từ nước Nhật, khiến quân đội Nhật đang đóng ở Việt Nam hoang mang, rệu rã; Chính phủ thân Nhật bị lung lay cực điểm. Ngay từ ngày 12/8, Hồ Chí Minh đã biết được thông tin về khả năng đầu hàng của quân Nhật, đồng thời Người cũng nắm rõ tinh thần cách mạng sôi sục của quần chúng Nhân dân. Ngày 13/8/1945, Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ đã ra thông báo khẩn: “Thời kỳ tiền khởi nghĩa đã hết, chúng ta đứng trong tình thế trực tiếp khởi nghĩa”. Hồ Chí Minh nhận rõ thời cơ tổng khởi nghĩa đã chính thức xuất hiện và thời cơ này chỉ tồn tại trong khoảng hai mươi ngày, từ ngày 15-8/1945 (Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh) đến ngày 5-9/1945 (quân đồng minh kéo vào nước ta để giải giáp quân Nhật). Và Người đã khẩn trương chỉ đạo Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng (ngày 14 đến 15/8) và Đại hội quốc dân (ngày 16 đến 17/8) tại Tân Trào, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam - Chính phủ lâm thời sau khi cách mạng thắng lợi. Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng (ngày 14 đến 15/8) đã khẳng định: “cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”, cách mạng Việt Nam lúc này đang trong “tình thế vô cùng khẩn cấp”. Ngày 17/8/1945, trước đình Tân Trào, thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước…”. Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Hỡi đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trể. Tiến lên! Tiến lên! Dười lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên. Đáp lời kêu gọi của Người và Trung ương Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 - 28/8/1945), toàn thể Nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến đồng bằng, hải đảo… đều nhất loạt đứng lên tổ chức khởi nghĩa, lập ra chính quyền Nhân dân, làm nên cuộc khởi nghĩa trong toàn quốc thành công rực rỡ. Tại Hà Tĩnh, từ ngày 17/8, Nhân dân các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc, dưới sự lãnh đạo của lực lượng tự vệ đã chiếm huyện lỵ, lập chính quyền Nhân dân. Ngày 18/8, quần chúng Nhân dân và lực lượng vũ trang tiến về thị xã, chiếm các công sở, buộc lính bảo an giao nộp vũ khí, chính quyền cách mạng được thành lập và ra mắt ngay trong cuộc mít tinh của quần chúng. Cùng với Quảng Nam, Mỹ Tho, Bắc Giang và Hải Dương, Hà Tĩnh là một trong năm địa phương giành chính quyền về tay Nhân dân sớm nhất trong cả nước. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn đã khẳng định: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa… Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập”. Sau này, khi đánh giá về cuộc cách mạng thánh Tám năm 1945, Tổng bí thư Trường Chinh đã viết: “Cách mạng tháng tám là kết quả của 80 năm đấu tranh không ngừng của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó cũng là một biến cố lịch sử vĩ đại của nước ta từ khi Quang Trung đuổi quân xâm lược Mãn Thanh (1789) đến nay”. Nhà sử học người Pháp Charees Fourniau cũng cho rằng: “Cách mạng tháng Tám là tiêu điểm của thế kỷ XX”. 76 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử trọng đại của Cách mạng tháng Tám 1945. Nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945vẫn luôn là bài học cực kỳ quý báu cho cả hiện tại và tương lai. Bài học này hiện vẫn đang được Đảng và Nhân dân ta kế thừa, phát huy, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng đất nước. Dù trong hoàn cảnh nào, có khó khăn đến đâu nhưng nếu biết đoàn kết, tập hợp sức mạnh của Nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì mọi nhiệm vụ cách mạng đều sẽ thành công./. Nguồn bài viết: Tùng Lĩnh
Chưa có ý kiến nào, bạn hãy là người đầu tiên gửi ý kiến cho bài viết này. Gửi ý kiến
Vai trò của Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945Được đăng: Chủ nhật, 13 Tháng 8 2017 20:27Lượt xem: 10494(TGAG)- Để có được sự thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, ngoài những yếu tố khách quan và chủ quan, phải đề cập đến vai trò lãnh đạo tài tình của Hồ Chí Minh. Có thể nói, trong Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã tỏa sáng với đức độ, tài năng, mưu lược với sự chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, lực lượng... suốt thời gian dài. Thứ nhất, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Bước sang năm 1945, tình hình thế giới càng có nhiều thay đổi quan trọng, tháng 02 năm 1945, với tư cách là người đại diện cho Mặt trận Việt Minh, Hồ Chí Minh sang Côn Minh, cùng đi với Người có trung úy Sao (Shaw), người được Việt Minh cứu. Ngày 29/3/1945, Hồ Chí Minh gặp Tướng Sênôn. Tướng Sênôn cám ơn Việt Minh đã cứu thoát Sao, hứa sẽ giúp đỡ vũ khí, thuốc men, điện đài cho Việt Nam và huấn luyện cho người của Việt Minh biết sử dụng các thứ đó. Ngay sau đó, Hồ Chí Minh đi Bách Sắc, tìm gặp Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Người lựa chọn một số chiến sĩ của các nhóm Việt Minh hoạt động ở đây để cuối tháng 4 năm 1945 cùng Người về nước. Với chuyến trở lại Côn Minh lần này, Hồ Chí Minh đã mang về một số thuốc men, cùng lời hứa của Tướng Sênôn, đồng thời giới thiệu hình ảnh, tầm ảnh hưởng, sự lớn mạnh và cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Việt Minh, nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của quân Đồng minh đối với cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc của nhân dân ta. Thứ hai, chớp thời cơ chín muồi để tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân Ngày 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, tạo điều kiện khách quan để Đảng ta phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi điều kiện cho phép. Vì vậy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp và ra chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12/3/1945). Ngày 15/3/1945, Tổng bộ Việt Minh phát Hịch kháng Nhật cứu nước. Từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ họp tại Hiệp Hoà (Bắc Giang) nhận định: Tình thế đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này, đồng thời “quyết định phát triển lực lượng vũ trang, thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng 7 chiến khu trong cả nước và “phải đánh thông liên lạc giữa các chiến khu Bắc Kỳ và Trung, Nam Kỳ”. Phong trào cách mạng trong cả nước dâng cao theo đúng tinh thần chỉ thị của Đảng. Cuộc khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận thắng lợi đã giải phóng được nhiều vùng, nhất là ở Việt Bắc. Thứ ba, những quyết sách chiến lược sáng suốt của Hồ Chí Minh sau khi về nước để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Để có thể kịp chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước, đầu tháng 5/1945, Hồ Chí Minh quyết định chuyển đại bản doanh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, ngày 04/6/1945, Khu giải phóng được thành lập. Đây thực sự là căn cứ địa vững chắc về mọi mặt để làm bàn đạp tiến lên giải phóng toàn quốc. Đến giữa tháng 8/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước, khởi nghĩa từng phần đã cuồn cuộn dâng lên từ Bắc đến Nam. Trong khi đó, quân Đồng minh đã đánh bại quân đội phát xít Nhật. Ngày 14/8/1945, vua Nhật tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, tê liệt. Còn thực dân Pháp thì ráo riết quay trở lại xâm lược Đông Dương. Thời cơ tổng khởi nghĩa chín muồi, đã đến lúc nhân dân ta vùng dậy giành quyền độc lập của mình. Trước cơ hội có một không hai ấy, tại Tân Trào, Thủ đô lâm thời của nước Việt Nam mới, Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến 15/8/1945, quyết định Đảng phải “kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”, “thống nhất tổ chức... thống nhất chính trị... phát triển và củng cố Đảng”, “thi hành 10 chính sách lớn Việt Minh”, phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào tước vũ khí quân đội Nhật. Thứ tư, Hồ Chí Minh với việc triệu tập Quốc dân Đại hội - tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời của chế độ cộng hòa dân chủ ở nước ta: Tiếp theo Hội nghị toàn quốc của Đảng, chiều ngày 16 và ngày 17/8/1945, Quốc dân Đại hội đại biểu đã họp tại Tân Trào. 1- Đại hội tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh. 2- Đại hội kêu gọi nhân dân cả nước, đoàn kết để thi hành Mười chính sách của Việt Minh và hiệu triệu toàn dân vùng lên đấu tranh để giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập. 3- Đại hội cử ra Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch với một Uỷ ban Thường trực gồm 5 người - tức Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tạo cơ sở pháp lý cho sự ra đời một chính phủ hợp pháp do nhân dân cử ra. Quyết định triệu tập Quốc dân Đại hội trong thời điểm lịch sử quan trọng này là một sáng tạo tài tình, thể hiện sự nhạy bén trước thời cuộc của Hồ Chí Minh. Đánh giá sự kiện này, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa là một Quốc hội lâm thời, hay một tiền Quốc hội bởi vì cách mạng chưa thành công. Quốc dân Đại hội tạo căn cứ pháp lý cho sự ra đời chế độ cộng hoà dân chủ của nước ta, cho một Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khi cách mạng đã thành công”. Thứ năm, với sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Ngay sau Quốc dân Đại hội, ngày 18/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới là cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Thực hiện quyết định của Đảng và của Quốc dân Đại hội Tân Trào, chớp đúng thời cơ, toàn dân ta đã đứng lên khởi nghĩa giành lấy chính quyền từ tay phát xít Nhật. Ngày 19/8, Tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội, ngày 23/8 ở Huế, và ngày 25/8 ở Sài Gòn. Trong một thời gian ngắn, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước đã thành công, Chính quyền cách mạng đã về tay nhân dân. Trước khi quân Đồng minh kéo vào, chính quyền cách mạng từ trung ương đến địa phương đã được thiết lập, thay thế cho chính quyền của phát xít Nhật và tay sai. Khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 là sự vùng vậy của toàn dân. Sức mạnh làm nên thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa - khởi nghĩa dân tộc là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, được rèn luyện, hun đúc qua ba cuộc tổng diễn tập (1930-1931), (1936-1939) và (1939-1945) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người có vai trò lớn nhất trong việc khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 26/8/1945, Người mở phiên họp đầu tiên với Ban Thường vụ Trung ương Đảng để thảo luận các vấn đề quan trọng. Tại số nhà 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập và tranh thủ ý kiến của các đồng chí lãnh đạo Đảng. Sau những ngày chuẩn bị khẩn trương, một cuộc mít tinh lớn của nhân dân Hà Nội đã diễn ra tại Quảng Trường Ba Đình chiều ngày 02/9/1945. Trong buổi lễ long trọng đó, Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thật sự đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. P.TTCTTG _________ Nguồn: BTGTW
|