Hemoglobin dược đo như thế nào

Thiếu máu là sự giảm số lượng tế bào hồng cầu (RBC, được đo bằng số lượng hồng cầu, hematocrit hoặc hàm lượng hemoglobin trong hồng cầu). Ở nam giới, thiếu máu được định nghĩa là hemoglobin < 14 g/dL (140 g/L), hematocrit < 42% (< 0,42), hoặc RBC < 4,5 triệu/mcL (< 4,5 × 1012/L). Ở nữ giới, hemoglobin < 12 g/dL (120 g/L), hematocrit < 37% (< 0,37), hoặc RBC < 4 triệu/mcL (< 4 × 10 12/L) được xem là thiếu máu. Đối với trẻ sơ sinh, các giá trị bình thường khác nhau theo độ tuổi, đòi hỏi phải sử dụng các bảng liên quan đến tuổi tác (xem bảng Giá trị cụ thể theo tuổi của Hemoglobin và Hematocrit Giá trị theo tuổi cho Hemoglobin và Hematocrit
Hemoglobin dược đo như thế nào
).

Thiếu máu thường được phát hiện dựa trên bệnh sử và thăm khám. Các triệu chứng và dấu hiệu phổ biến của thiếu máu bao gồm

  • Mệt mỏi nói chung

  • Yếu

  • Khó thở khi gắng sức

  • Da nhợt

Sau hỏi bệnh và khám thực thể cần thực hiện các xét nghiệm máu ngoại vi. Chẩn đoán phân biệt (và nguyên nhân của thiếu máu) có thể dựa trên kết quả của xét nghiệm.

Bệnh sử sẽ cho biết

  • Các yếu tố nguy cơ đặc biệt của thiếu máu

  • Triệu chứng của thiếu máu

  • Các triệu chứng phản ánh rối loạn gây thiếu máu

Các triệu chứng của bệnh thiếu máu không nhạy cảm cũng không đặc hiệu và không giúp phân biệt giữa các loại bệnh thiếu máu não. Các triệu chứng thiếu máu không đặc trưng cho từng loại thiếu máu do đó khó phân biệt từng loại. Các triệu chứng nhìn chung rõ rệt hơn ở những bệnh nhân có chức năng tim phổi hạn chế hoặc nếu thiếu máu tốc độ rất nhanh.

Các triệu chứng như yếu, mệt mỏi, buồn ngủ, đau thắt ngực, ngất và khó thở khi gắng sức có thể cho thấy thiếu máu. Có thể có biểu hiện chóng mặt, hoa mắt, nhức đầu, ù tai rụng tóc, mất kinh, mất ham muốn tình dục. Suy tim hoặc sốc có thể xẩy ra ở những bệnh nhân bị thiếu oxy mô nghiêm trọng hoặc giảm thể tích tuần hoàn.

Cần khám thực thể toàn thân. Dấu hiệu thiếu máu không đặc trưng, tuy nhiên da xanh thường gặp khi thiếu máu nặng.

Dấu hiệu của nguyên nhân thường có giá trị chẩn đoán chính xác hơn dấu hiệu của thiếu máu. Phân heme dương tính xác định xuất huyết tiêu hóa Tổng quan về chảy máu đường tiêu hóa Chảy máu từ đường tiêu hoá có thể gặp ở bất kì vị trí nào của ống tiêu hoá từ miệng đến hậu môn, máu có thể nhìn thấy hoặc không. Biểu hiện phụ thuộc vào vị trí và mức độ nặng của chảy máu.... đọc thêm . Sốc Sốc Sốc là tình trạng suy giảm tưới máu cơ quan với kết quả là rối loạn chức năng tế bào và tử vong. Cơ chế có thể làm giảm khối lượng tuần hoàn, giảm cung lượng tim, và giãn mạch, đôi khi shunt... đọc thêm mất máu (ví dụ, hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, nhợt nhạt, thở nhanh, vã mồ hôi, lú lẫn) có thể là do chảy máu cấp. Vàng da Vàng da Vàng da là sự chuyển màu vàng ở da và niêm mạc do tăng bilirubin máu. Chứng vàng da nhìn thấy được khi nồng độ bilirubin là khoảng 2 đến 3 mg/dL (34 đến 51 micromol/L). (Xem thêm Cấu trúc và... đọc thêm

Hemoglobin dược đo như thế nào
có thể đo tan máu. Lách to Lách to Lách to là sự tăng kích thước bất thường của lách. (Xem thêm Tổng quan về lách.) Lách to hầu như là thứ phát sau các rối loạn khác. Nguyên nhân gây to lách là vô số, cũng như có nhiều cách để... đọc thêm có thể gặp ở tan máu, bệnh huyết sắc tố, bệnh mô liên kết, rối loạn tăng sinh tủy, nhiễm trùng hoặc ung thư. Bệnh lý thần kinh ngoại biên Bệnh lý thần kinh ngoại biên Bệnh lý thần kinh ngoại biên là rối loạn chức năng của một hoặc nhiều dây thần kinh ngoại biên (phần tận dây thần kinh cho đến rễ và đám rối). Bao gồm nhiều hội chứng đặc trưng bởi các rối loạn... đọc thêm gợi ý thiếu vitamin B12 Thiếu Vitamin B12 Thiếu vitamin B12 trong chế độ ăn thường là do hấp thụ không đầy đủ, nhưng sự thiếu hụt có thể phát triển ở những người ăn chay không được bổ sung vitamin. Sự thiếu hụt gây ra thiếu máu hồng... đọc thêm . Sự chướng bụng ở bệnh nhân chấn thương cũng cho thấy xuất huyết cấp. Chấm xuất huyết gặp ở giảm tiểu cầu hoặc rối loạn chức năng tiểu cầu Tổng quan về rối loạn tiểu cầu Tiểu cầu là những mảnh tế bào có chức năng trong hệ đông cầm máu. Thrombopoietin giúp kiểm soát số lượng tiểu cầu lưu hành bằng cách kích thích tủy xương để sản sinh mẫu tiểu cầu, tạo ra các... đọc thêm
Hemoglobin dược đo như thế nào
. Sốt và tiếng thổi ở tim gợi ý viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng là nhiễm trùng của màng ngoài tim, thường do vi khuẩn (thường do các vi khuẩn như streptococci hoặc staphylococci) hoặc nấm. Triệu chứng điển hình là gây sốt, nhịp... đọc thêm
Hemoglobin dược đo như thế nào
. Đôi khi có thể có suy tim Suy tim (HF) Suy tim (HF) là một hội chứng rối loạn chức năng tâm thất. Suy tim trái gây khó thở và mệt mỏi, suy tim phải gây ứ trệ tuần hoàn ngoại biên; các tình trạng suy tim trên có thể tiến triển đồng... đọc thêm
Hemoglobin dược đo như thế nào
do thiếu máu gây thiếu oxy mô.

  • Công thức máu với số lượng bạch cầu, và số lượng tiểu cầu

  • Chỉ số và hình thái hồng cầu

  • Số lượng hồng cầu lưới

  • Tiêu bản máu ngoại vi

  • Dôi khi cần huyết tủy đồ và sinh thiết tủy xương

Xét nghiệm bắt đầu với công thức máu toàn phần (CBC), bao gồm bạch cầu (WBC) và số lượng tiểu cầu, chỉ số hồng cầu (MCV], trung bình hemoglobin [MCH], nồng độ hemoglobin trung bình [MCHC] chiều rộng phân bố hồng cầu [RDW]), và kiểm tra phết tế bào ngoại vi. Số lượng hồng cầu lưới chứng tỏ tủy xương bù đắp cho tình trạng thiếu máu tốt như thế nào. Các xét nghiệm tiếp theo được lựa chọn trên cơ sở các kết quả này và trên biểu hiện lâm sàng. Việc công nhận các mẫu chẩn đoán chung có thể đẩy nhanh chẩn đoán (xem bảng Các đặc điểm của thiếu máu thường gặp Các đặc điểm của thiếu máu

Hemoglobin dược đo như thế nào
).

Hemoglobin dược đo như thế nào

Công thức máu được đếm tế bào tự động trực tiếp đo lượng hemoglobin, số lượng bạch cầu, số lượng tiểu cầu, các giá trị được tính là thể tích trung bình hồng cầu (MCV là số đo thể tích hồng cầu), hematocrit (số đo tỷ lệ phần trăm lượng máu có trong hồng cầu), huyết sắc tố trung bình hồng cầu (MCH là số đo lượng hemoglobin trong mỗi hồng cầu) và nồng độ huyết sắc tố trung bình hồng cầu (số đo nồng độ hemoglobin trong mỗi hồng cầu).

Tiêu chuẩn chẩn đoán thiếu máu

  • Đối với nam giới: Hemoglobin < 14 g/dL (140 g/L), hematocrit < 42% (< 0,42), hoặc RBC < 4,5 triệu/mcL (< 4,5 × 10 12/L)

  • Đối với phụ nữ: Hemoglobin < 12 g/dL (120 g/l), Hematocrit < 37% (< 0,37), hoặc RBC < 4 triệu/mcL (< 4 × 10 12/L)

Đối với trẻ sơ sinh, các giá trị bình thường khác nhau theo độ tuổi, đòi hỏi phải sử dụng các bảng liên quan đến tuổi tác (xem bảng Giá trị cụ thể theo tuổi của Hemoglobin và Hematocrit Giá trị theo tuổi cho Hemoglobin và Hematocrit

Hemoglobin dược đo như thế nào
). Các quần thể hồng cầu được gọi là microcytic (hồng cầu nhỏ) nếu MCV < 80 fL, và macrocytic (hồng cầu to) nếu MCV là > 100 fL. Tuy nhiên, vì các hồng cầu lưới cũng lớn hơn các tế bào hồng cầu trưởng thành, số lượng hồng cầu lưới có thể làm tăng MCV và không đại diện cho sự thay đổi sản xuất hồng cầu.

Máy đếm tế bào tự động cũng có thể xác định mức độ thay đổi kích cỡ hồng cầu, thể hiện dưới dạng độ rộng phân bố thể tích hồng cầu (RDW). Tăng RDW cao có thể là dấu hiệu duy nhất của sự phân bố kích thước hồng cầu không đều mặc dù MCV bình thường do được tính giá trị trung bình. Thuật ngữ nhược sắc đề cập đến các quần thể hồng cầu, trong đó MCH < 27 pg hoặc MCHC là < 30%. Các quần thể hông cầu có các giá trị MCH và MCHC bình thường là hồng cầu bình sắc, kích thước bình thường.

Các chỉ số hồng cầu có thể giúp chỉ ra cơ chế thiếu máu và thu hẹp phạm vi các nguyên nhân có thể. Chỉ số hồng cầu nhỏ chỉ ra có sự can thiệp về tổng hợp hem và globin. Nguyên nhân phổ biến nhất là thiếu sắt, thalassemia và các khiếm khuyết liên quan đến tổng hợp huyết sắc tố. Ở một số bệnh nhân thiếu máu do bệnh mạn tính Thiếu máu do bệnh mạn tính Thiếu máu của bệnh mạn tính là thiếu máu đa yếu tố. Chẩn đoán thường đòi hỏi phải có tình trạng viêm mạn tính, chẳng hạn như nhiễm trùng, bệnh tự miễn dịch, bệnh thận hoặc ung thư. Nó được đặc... đọc thêm , MCV nhỏ hoặc ở giới hạn dưới. Các chỉ số hồng cầu to chỉ ra do sự tổng hợp DNA kém (ví dụ, do thiếu vitamin B12 hoặc thiếu folate hoặc các chất điều trị hóa chất như hydroxyurea và thuốc kháng folate) và do nghiện rượu gây các bất thường của màng tế bào. Chảy máu cấp có thể làm tăng chỉ số MCV do tăng sản xuất hồng cầu lưới. Các chỉ số Normocytic xảy ra trong chứng thiếu máu do thiếu hụt sản xuất erythropoietin (EPO) hoặc đáp ứng không đầy đủ với nó (chứng thiếu máu tăng sinh). Xuất huyết, trước khi dẫn đến thiếu sắt, thường là thiếu máu bình sắc kích thước bình thường ngoại trừ trường hợp tăng quá mức hồng cầu lưới.

Tiêu bản máu ngoại vi có giá trị trong đánh giá sản xuất hồng cầu và tan máu. Nó chính xác hơn các kỹ thuật tự động trong nhận định cấu trúc hồng cầu, giảm tiểu cầu, hồng cầu có nhân, bạch cầu chưa trưởng thành, phát hiện các bất thường khác (như sốt rét, ký sinh trùng,các thành phần chứa trong hồng cầu, bạch cầu). Có thể phát hiện ra mảnh vỡ hồng cầu, các thành phần của tế bào bị phá hủy, các dấu hiệu về bất thường màng như hồng cầu hình cầu, hình bầu dục. Các tế bào hình bia bắn (hồng cầu mỏng với chấm trung tâm là hemoglobin) là những hồng cầu không đủ lượng huyết sắc tố (ví dụ bệnh huyết sắc tố, bệnh gan). Tiêu bản máu đàn có thể phát hiện các trường hợp hồng cầu nhiều hình dạng, kích thước không đồng đều.

Số lượng hồng cầu lưới biểu thị bằng tỷ lệ % (bình thường từ 0,5 đến 1,5%) hoặc là số lượng tuyệt đối (bình thường, 50.000 đến 150.000/mcL, hoặc 50 đến 150 x 10 9/L). Số lượng hồng cầu lưới là một xét nghiệm quan trọng trong việc đánh giá tình trạng thiếu máu vì nó thông báo về phản ứng của tủy xương và tạo điều kiện phân biệt giữa thiếu hồng cầu (sản xuất hồng cầu) và tan máu quá mức (phá hủy hồng cầu) là nguyên nhân gây thiếu máu. Ví dụ: giá trị cao hơn cho thấy sản xuất quá mức (tăng bạch cầu lưới); trong trường hợp thiếu máu, tăng hồng cầu lưới gợi ý sự phá hủy quá mức của hồng cầu. Số lượng thấp khi thiếu máu cho thấy giảm sản xuất hồng cầu.

Hồng cầu lưới được quan sát rõ nhất khi máu được nhuộm supravital, nhưng vì hồng cầu lưới chỉ có trong các tế bào hồng cầu non, chúng sẽ có màu xanh nhạt trong tiêu bản máu Wright (polychromatophilia hoặc polychromasia), có thể cung cấp một ước tính sơ bộ về sản xuất hồng cầu lưới trên một xét nghiệm máu tiêu bản.

Chọc hút và sinh thiết tủy xương giúp quan sát và đánh giá trực tiếp các tiền chất hồng cầu. Cần đánh giá sự bất thường trong trưởng thành và phân bố, cũng như các phương pháp nhuộm sắt. Không chỉ định chọc hút dịch và sinh thiết tủy xương trong các đánh giá thiếu máu và chỉ thực hiện trong các trường hợp sau:

  • Thiếu máu không rõ nguyên nhân

  • Có bất thường trên một dòng tế bào (ví dụ thiếu máu kèm giảm tiểu cầu hoặc giảm bạch cầu)

  • Nghi ngờ có rối loạn tủy xương tiên phát (lơ xê mi, đa u tủy xương, thiếu máu bất sản, hội chứng rối loạn sinh tủy, di căn, xơ tủy)

Các kỹ thuật di truyền tế bào và phân tử có thể thực hiện trên các mẫu chọc hút dịch tủy xương hoặc khối u khi nghi ngờ có tổn thương các tiền thân dòng hồng cầu bẩm sinh (ví dụ thiếu máu Fanconi). Đo tế bào dòng chảy có thể được thực hiện ở các trạng thái nghi ngờ tăng sinh bạch huyết hoặc tăng sinh tủy để xác định kiểu miễn dịch. Chọc hút dịch và sinh thiết tủy xương không phải là kỹ thuật khó và không gây tổn hại bệnh nhân. Các thủ thuật này an toàn và hữu ích khi nghi ngờ mắc bệnh huyết học. Cả hai có thể cùng được thực hiện như một thủ thuật. Vì sinh thiết đòi hỏi độ sâu xương đầy đủ, mẫu thường lấy ở gai chậu phía sau trên (hoặc, ít phổ biến hơn là, phía trước).

Bilirubin huyết thanh và lactate dehydrogenase (LDH) đôi khi có thể giúp phân biệt giữa tán huyết và mất máu; cả hai đều tăng trong tán huyết và bình thường trong mất máu. Các xét nghiệm khác, chẳng hạn như hàm lượng vitamin B12 và folate, khả năng liên kết sắt và sắt, được thực hiện tùy thuộc vào nguyên nhân nghi ngờ gây thiếu máu. Các xét nghiệm khác được thảo luận tùy vào đặc điểm thiếu máu và chảy máu.