Địa bàn chủ yếu của phong trào cách mạng 1930 -- 1931

I. Việt Nam trong những năm 1929 - 1933

1. Tình hình kinh tế

- Từ năm  1930, kinh tế Việt Nam suy thoái, bắt đầu từ trong nông nghiệp, lúa gạo bị sụt giá, ruộng đất bỏ hoang; công nghiệp suy giảm; thương nghiệp, xuất nhập khẩu bị đình đốn, giá cả đắt đỏ.

- Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam rất nặng nề so với các thuộc địa khác của Pháp cũng như so với các nước trong khu vực.

2. Tình hình xã hội

- Nhiều công nhân bị sa thải, đồng lương ít ỏi; nông dân phải chịu thuế cao, vay nợ nặng lãi, nông phẩm làm ra phải bán giá hạ, ruộng đất bị địa chủ thâu tóm, bị bần cùng hóa.

- Tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, các nghề thủ công cũng bị phá sản, bị sa thải, thất nghiệp, tư sản dân tộc gặp khó khăn trong kinh doanh, nhà buôn nhỏ đóng cửa.

- Xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản là dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp (cơ bản) và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến

- Vì thế, phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển lôi kéo nhiều tầng lớp tham gia. Đầu 1930, khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Pháp khủng bố dã man những người yêu nước.

II. Phong trào cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô viết – Nghệ Tĩnh

1. Phong trào cách mạng 1930 - 1931

- Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - xã hội, phong trào cách mạng lên cao. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của công nông trong cả nước.

- Từ tháng 2 đến tháng 4/1930, nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân nổ ra với mục tiêu cải thiện đời sống, công nhân đòi tăng lương, giảm giờ làm; nông dân đòi giảm sưu thuế.

- Nhân ngày Quốc tế lao động 1/5, cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh, đây là bước ngoặt của phong trào cách mạng. Lần đầu tiên, công nhân Việt Nam biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước, thể hiện tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động thế giới.

- Từ tháng 6 đến tháng 8/1930, nổ ra nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân trên cả nước.

- Đến tháng 9/1930, phong trào dâng cao ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Nông dân biểu tình có vũ trang tự vệ với hàng nghìn người kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm thuế ở các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn (Nghệ An), Kỳ Anh (Hà Tĩnh)… phong trào được công  nhân Vinh - Bến Thủy hưởng ứng.

- Ngày 12/ 9/1930, 8000 nông dân Hưng Nguyên (Nghệ An) biểu tình, với khẩu hiệu: “Đả đảo chủ nghĩa đế quốc!”. Chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều huyện, xã. Nhiều cấp ủy Đảng ở thôn xã lãnh đạo nhân dân tự quản lý đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương, gọi là chính quyền Xô viết.

2. Xô viết Nghệ - Tĩnh

- Tại Nghệ An, Xô viết ra đời từ tháng 09/1930, tại các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu. Ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành ở Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê … thực hiện quyền làm chủ, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.

+ Về chính trị, quần chúng tự do tham gia các đoàn thể cách mạng. Các đội tự vệ đỏ và tòa án nhân dân được thành lập.

+ Về kinh tế, thi hành biện pháp chia ruộng đất công cho dân cày nghèo, bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối, xóa nợ cho người nghèo. Đắp đê, phòng lụt, sửa chữa cầu đường. Lập  các tổ chức sản xuất  để nông dân giúp đỡ nhau.

+ Về văn hóa, xã hội, xóa bỏ tệ nạn  mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc, trộm cắp; giữ vững trật tự trị an, đoàn kết giúp đỡ  nhau.

- Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao của phong trào 1930 – 1931, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ nhân dân.

- Phong trào bị thực dân Pháp khủng bố dã man, cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở quần chúng bị phá vỡ, cán bộ, đảng  viên bị bắt, bị tù đày …. đến giữa năm 1931, phong trào lắng xuống.

3. Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam (10/1930)

- Tháng 10/1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng bí thư và thông qua Luận cương chính trị của Đảng.

- Nội dung Luận cương chính trị tháng 10/1930

+ Chiến lược và Sách lược: Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa.

+ Nhiệm vụ đánh phong kiến và đánh đế quốc là hai nhiệm vụ có quan hệ khăng khít.

+ Động lực cách mạng là công nhân và nông dân.

+ Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân – Đội tiên phong là Đảng Cộng sản.

+ Nêu rõ hình thức, biện pháp đấu tranh, quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.

4. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào cách mạng 1930 - 1931

- Khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng các nước Đông Dương. Hình thành khối liên minh công nông.

- Được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản.

- Để lại bài học quý về công tác tư tưởng, xây dựng khối liên minh công nông, mặt trận dân tộc thống nhất, tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh…Là cuộc tập dượt đầu tiên cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.

III. Phong trào cách mạng 1932 - 1935

1. Cuộc đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng

- Pháp tiến hành đàn áp, khủng bố khiến cho lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở cách mạng bị phá vỡ, hàng vạn đảng viên, cán bộ bị bắt và tù đày giết hại, tù chính trị  bị giam tại Hỏa Lò, Khám lớn, Côn Đảo…

- Pháp tiến hành chính sách mị dân nhằm lôi kéo hay mê hoặc các tầng lớp nhân dân:

+ Về chính trị, tăng số đại diện người Việt vào cơ quan lập pháp cấp Kỳ.

+ Về kinh tế, cho người Việt tham gia đấu thầu một số công trình.

+ Về văn hóa - xã hội, cho tổ chức một số trường Cao đẳng; lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.

- Những hoạt động khôi phục phong trào:

+ Những đảng viên trong tù đấu tranh kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng, tổ chức vượt ngục; đảng viên không bị bắt tìm cách gây dựng lại tổ chức Đảng và quần chúng.

+ Một số đảng viên hoạt động ở Trung  Quốc và Thái Lan trở về nước họat động.

+ Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong đã cùng một số đảng viên cộng sản hoạt động ở trong và nước ngoài tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương Đảng.

+ Tháng 6/1932, Ban lãnh đạo Trung ương thảo ra chương trình hành động của Đảng, chủ trương đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động, thả tù chính trị, bỏ các thứ thuế bất công, củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng của quần chúng. Phong trào đấu tranh của quần chúng được nhen nhóm như hội cấy, hội cày, hội hiếu hỉ, hội đọc sách báo…Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân nổ ra.

+ Cuối năm 1933, tổ chức Đảng dần hồi phục và củng cố. Đầu năm 1934, các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ được lập lại. Đến đầu năm 1935, các tổ chức Đảng và phong trào quần chúng được hồi phục.

2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương (3/1935)

- Từ ngày 27/3 đến ngày 31/3/1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất họp tại Ma Cao (Trung Quốc) với sự tham dự của 13 đại biểu trong và ngoài nước.

- Đại hội xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc.

- Thông qua Nghị quyết chính trị, điều lệ Đảng, vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ; về công tác trong các dân tộc thiểu số, đội tự vệ, cứu tế đỏ.

- Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.

Đại hội đánh dấu mốc quan trọng Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước đến ngoài nước, các tổ chức quần chúng…

Page 2

SureLRN

Khối liên minh đấu tranh của hai giai cấp nông dân và công nhân làm cho đế quốc Pháp vô cùng lúng túng và bị động (Ảnh tư liệu)

Dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, với chính sách văn hóa nô dịch, giáo dục trở thành một công cụ cai trị của chính quyền thực dân. Chính quyền thuộc địa rất hạn chế phát triển giáo dục cả về quy mô và trình độ, trường học chỉ được phép mở ở mức độ hạn chế nhằm phục vụ cho bộ máy cai trị và thực hiện chính sách khai thác thuộc địa. Nhưng ngoài ý muốn của chính quyền thực dân, cùng với quá trình mở rộng khai thác thuộc địa là sự du nhập của văn hoá phương Tây vào Việt Nam.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam dần dần hình thành. Nhưng dưới chính sách văn hóa nô dịch và ngu dân, tầng lớp trí thức nhỏ bé, gồm các nhóm trí thức trẻ, nhà nho, giáo viên, học sinh, sinh viên và người làm nghề tự do. Là tầng lớp nhạy cảm với cái mới, nhiều thanh niên trí thức đã sớm tham gia vào các hoạt động yêu nước, truyền bá tư tưởng tiến bộ.

Ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ vai trò của trí thức đối với sự nghiệp cách mạng, đó là cơ sở cho các chính sách đoàn kết - tập hợp, phát huy vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng. Mặt khác, trước sự phát triển của phong trào cách mạng, trí thức ngày càng gắn bó với Đảng, đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp chung.

Trong quá trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, dưới ách áp bức của thực dân đế quốc, trí thức Việt Nam cùng cảnh ngộ của dân tộc, bị đè nén, khinh rẻ, tư tưởng bị áp chế, tài năng bị vùi dập, quyền lợi hàng ngày bị tước đoạt. Do vậy, trí thức mang trong mình tinh thần dân tộc và cách mạng.

Người khẳng định, sự tham gia của trí thức là nhân tố góp phần quyết định thành công của cách mạng và sớm đề ra nhiệm vụ xây dựng đội ngũ trí thức. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người khẳng định vai trò của tri thức, lý luận và trí thức đối với cách mạng: “Không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động”1. Đúc rút kinh nghiệm từ Cách mạng Pháp, Người chỉ rõ nguyên nhân Cách mạng Pháp thất bại là: “Trong 3 lần cách mệnh, 1789, 1848, 1870, đều vì dân can đảm nhiều, nhưng trí thức ít (tác giả nhấn mạnh), cho nên để tư bản nó lợi dụng”2.

Trong quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc hướng mạnh vào thanh niên trí thức. Mặt khác, là tầng lớp nhạy bén với cái mới, nhiều thanh niên trí thức đã sớm tham gia vào các hoạt động yêu nước, tiếp thu và truyền bá tư tưởng tiến bộ. Đảng ta đã gửi thanh niên ra nước ngoài học tập ở Trường Đại học Phương Đông, dự học các lớp đào tạo về lý luận chính trị, quân sự ở Liên Xô, Trung Quốc, sau đó trở về nước hoạt động.

Từ đây, trí thức có sự phân hóa thành hai bộ phận, một bộ phận theo xu hướng cách mạng vô sản, một bộ phận tiếp tục đi theo lập trường tư sản. Với sự nhạy bén với xu thế tiến bộ của thế giới, đại đa số trí thức không đứng trên lập trường giai cấp cũ của mình mà chuyển sang lập trường vô sản, đã "vô sản hóa".

Trên thực tế, trong việc giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, môi trường chính là tiểu tư sản trí thức. Trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp tư sản đã giương cao ngọn cờ dân tộc chống đế quốc, liên minh với giai cấp công nhân, giành được tiểu tư sản trí thức cách mạng là giành được quyền lãnh đạo cách mạng3.

Nhà nghiên cứu Trần Huy Liệu đã chỉ rõ: “Năm 1930, việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Dưới lá cờ chỉ đạo của Đảng của giai cấp công nhân, một số lớn những trí thức cách mạng Việt Nam đã vô sản hóa, không đứng trên lập trường giai cấp cũ của mình, mà đứng trên lập trường giai cấp công nhân, phối hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản”4.

Mặc dù bị phân hóa, nhưng tầng lớp trí thức Việt Nam có điểm chung là lòng yêu nước thương nòi, căm ghét ngoại xâm, tích cực tham gia vào sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Nhà nghiên cứu Trần Huy Liệu khẳng định: “Trong đám thanh niên trí thức Việt Nam những năm 1925-1930, trên con đường cứu nước, có người là tín đồ của Mác - Lênin cũng có người là tín đồ của Tôn Dật Tiên, nhưng căn bản là lòng yêu nước, phấn đấu cho nước độc lập, dân tộc được giải phóng”5.

Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò của trí thức và đề cao công tác trí thức. Trong các văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1930, xác định trí thức là một bộ phận trong lực lượng quần chúng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sách lược vắn tắt của Đảng nêu rõ: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, Tân Việt,... để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp”6.

Trong Cao trào cách mạng 1930-1931, trí thức đã sát cánh cùng công - nông trong các cuộc đấu tranh. Điển hình là sự tham gia của thanh niên, học sinh các trường học, các phong trào đấu tranh của công - nông Nghệ Tĩnh.

Tuy nhiên, sau đó do điều kiện lịch sử và sự quán triệt một cách giáo điều sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản vào việc xây dựng đường lối cách mạng Việt Nam, trong Đảng xuất hiện một số chủ trương về tầng lớp trí thức không phù hợp với thực tế. Do không biết nâng đỡ, không phát triển tinh thần yêu nước để chống đế quốc, mà chú trọng vào cuộc đấu tranh giai cấp, chống cường hào phú nông và địa chủ, đã đẩy trí thức về phe đế quốc.

Tại Luận cương chính trị của Đảng tháng 10/1930 nêu: Trí thức - tiểu tư sản, học sinh có xu hướng quốc gia chủ nghĩa, đại biểu quyền lợi cho cả giai cấp tư bản bản xứ, chứ không chỉ bênh vực quyền lợi riêng cho tiểu tư sản mà thôi. Trong thời kỳ chống đế quốc thì trí thức cũng hăng hái tham gia, nhưng không thể bênh vực quyền lợi cho dân cày được, vì có liên quan với địa chủ. Chủ trương thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ (1930-1931) nêu chủ trương "thanh trừng trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ".

Trung ương Đảng đã sớm nhận ra những nhận thức sai lầm và sửa chữa triệt để, nhanh chóng quán triệt lại tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Tháng 11/1930, Ban Thường vụ Trung ương đã có Chỉ thị nêu rõ: Các tầng lớp trí thức và một số sĩ phu, một số trung, tiểu địa chủ có xu hướng cách mạng rõ ràng.

Mặc dù chưa có chính sách đoàn kết trí thức khoa học và hiệu quả, nhưng với đường lối cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã tập hợp đông đảo trí thức xung quanh mình, trong đó có nhiều nhân sĩ, trí thức có uy tín. Đến phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936-1939 thì học thuyết Mác xít đã được phổ biến rộng rãi và có ảnh hưởng tư tưởng lớn đối với tầng lớp trí thức Việt Nam.

Nhà nghiên cứu Trần Huy Liệu cũng chỉ rõ: “Trong cao trào đấu tranh 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, trí thức đã thấy sức mạnh to lớn của công, nông. Sau cao trào, thực dân Pháp, với chỗ dựa của nó là một số trí thức tư sản và tiểu tư sản, một mặt đề ra một số cải cách giả hiệu ở nghị trường, một mặt làm dấy lên chủ nghĩa lãng mạn tư sản trên địa hạt văn nghệ. Nhưng đến phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương 1936-1939, thì học thuyết Macxit, với sự phổ biến rộng rãi của nó, đã nắm bá quyền trong tư tưởng những người tiến bộ nhất trong tầng lớp trí thức Việt Nam lúc bấy giờ”7.

Qua thực tiễn đấu tranh, đội ngũ đảng viên ngày càng trưởng thành, mặt khác với đường lối đúng đắn và uy tín của mình, Đảng Cộng sản ngày càng tập hợp đông đảo trí thức quanh mình. “Ngày càng vì công tác, vì trách nhiệm, mực trí tuệ của Đảng Cộng sản lên cao với mực trí tuệ chung của đồng bào, và càng ngày số đồng bào trí thức có uy quyền thêm đông đúc theo chủ nghĩa cộng sản, nơi đoàn tụ của trí tuệ Việt Nam”8.

Đảng lôi cuốn đông đảo tầng lớp tiểu tư sản - trí thức tham gia vào phong trào quần chúng đấu tranh, trí thức trở thành một bộ phận trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong cuộc vận động tiến tới Cách mạng Tháng Tám, đông đảo trí thức đã đứng vào mặt trận quần chúng, đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc. Tầng lớp trí thức đã đoàn kết lại, từng bước có tổ chức của mình. Đông đảo thanh niên, sinh viên, trí thức đã tham gia các phong trào do Việt Minh tổ chức và phát động, góp phần trực tiếp vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Nguyễn Thắng Lợi

PGS, TS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Chú thích:

1,2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.1, tr.259, 274.

3,4,5,7. Xem: Trí thức Việt Nam xưa và nay, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H.2005, tr.30, 31.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2000, t. 3,tr.3.

8. Trần Văn Giàu: Tuyển tập, Nxb. Giáo dục, H.2001, tr.1116.

Video liên quan

Chủ đề