Đâu không phải là nội dung được thực hiện trong cuộc cải cách năm 907 ở nước ta?

Nguyễn Tuấn Hùng

Nhìn về một thời kỳ của lịch sử dân tộc, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra một điều rằng bất cứ một triều đại hoặc thời kỳ nào cũng thể hiện rõ hai giai đoạn thiết yếu của nó là giai đoạn phồn thịnh và suy vong; nhưng cũng có những thời kỳ, chính nhờ những phương pháp canh tân đất nước phù hợp, triều đại hay thời kỳ ấy lại trở về với sự phồn vinh nhưng cũng không ít những phương pháp cải cách lại làm cho chế độ ấy suy vong nhanh hơn. Và dù muốn dù không thì khi sự cải cách ấy đã hết hiệu quả thì việc sụp đổ  là một điều không thể nào tránh khỏi trong lịch sử của mỗi dân tộc, trong đó có Việt Nam. Chúng ta cũng cần phải thẳn thắng thừa nhận đất nước đã nhiều lần suy kiệt cả về xã hội lẫn kinh tế, và chính những khoảnh khắc này đã có nhiều cá nhân, nhiều người hùng đã đứng dậy với những phương pháp canh tân đất nước đầu tiên, đặt tiền đề cho việc thay đổi xã hội khi đất nước lâm nguy. Tuy những cải cách gặp không ít khó khăn, thành công cũng nhiều nhưng thất bại cũng không ít nhưng chính những điều ấy lại làm tiền đề và bài học kinh nghiệm cho sự thành công của lần cải cách sau đó. Chính vì lẽ đó, tôi chọn đề tài này để khai thác được nhiều hơn ý nghĩa, tầm quan trọng, bài học và kinh nghiệm của những cuộc cải cách quan trọng trong lịch sử Việt Nam cổ trung đại, qua đó thu nhặt những giá trị còn sót lại để đáp ứng cho xã hội hôm nay.

Theo yếu tố truyền thuyết, Triệu Đà đã sử dụng con trai mình là Trọng Thủy kết hôn với con gái An Dương Vương là Mị Châu để dùng kế nội gián; sau khi hoàn thành trong việc nắm bắt được tình hình quân sự thông qua Trọng Thủy, Triệu Đà đã thành công khi chinh phục được Âu Lạc, buộc An Dương Vương cùng con gái bỏ chạy và tự tử, kết thúc thời kỳ của An Dương Vương. Đất nước ta rơi vào tay Trung Hoa trong 1000 năm, gọi là thời kỳ Bắc thuộc. Nhiều tài liệu cho thấy, Bắc thuộc gồm nhiều thời kỳ gộp lại, dưới sự thông trị của Trung Hoa:

–Bắc thuộc lần thứ nhất (179 TCN hoặc 111 TCN – 39): nhà Triệu, nhà Hán

–Bắc thuộc lần thứ hai (43 – 541): nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, nhà Tấn, nhà Tề, nhà Lương

–Bắc thuộc lần thứ ba (602 – 905): nhà Tùy, nhà Đường. Trong giai đoạn Tự chủ từ 905-938 có một thời gian Việt Nam rơi vào tay Nam Hán

–Bắc thuộc lần thứ tư (1407 – 1427): còn gọi là thời thuộc Minh

Và bản thân trong thời kỳ Bắc thuộc, chúng ta cũng đã nổ ra nhiều cuộc đấu tranh chống quân xâm lược và giành được thắng lợi, thành lập nên vương triều của mình nhưng trong thời gian rất ngắn lại bị lật đổ và đất nước quay lại dưới ách đô hộ của Trung Hoa như: khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43); thời kỳ nhà Tiền Lý (544-602) với sự thành lập nhà nước Vạn Xuân do Lý Bí làm thủ lĩnh.

Khởi nghĩa của nhân dân ta dù lớn dù bé, họ vẫn cầm vũ khí mà đứng dậy chống quân xâm lược, chính điều này càng khẳng định những truyền thống tốt đẹp của nhân ta từ xưa đến nay. Thông qua đó, ta càng nhận thức rõ rằng phải có một người đủ dũng khí để đứng dậy lãnh đạo quân dân đứng dậy chống kẻ thù xâm lược và canh tân đất nước, trả lại cho nhân dân những quyền lợi trước kia của họ bởi lẽ, nhân dân ta đã bị đẩy đến tận cùng của nỗi đau cả về vật chất lẫn tinh thần, họ đang sống trong cảnh nước mất, nhà tan lại còn gánh bao nhiêu là thứ sưu thuế trên lưng từ người trẻ đến kẻ già yếu. Vì vậy, việc đẩy quân xâm lược là việc cần thiết và là nhu cầu trước mắt của nhân dân An Nam đương thời.

Sau thời kỳ Bắc thuộc, nhân dân ta phải gánh chịu hậu quả hết sức nặng nề bởi chính sách cai trị của phương Bắc. Chúng thi hành hang loạt các đạo luật bóc lột hết sức dã man và đẩy dân ta đến bước cùng của sự khốn khổ. Ngoài ra, chúng còn thực thi chính sách cống nạp và tô thuế rất nặng cho đất nước ta; quan lại thì cướp bóc, nô dịch, vơ vét dân chúng để làm của riêng, đẩy nhân dân vào con đường bi thảm. Vì thế mà nhân dân đã cực nay còn cực gấp trăm lần; nhiều người phải tự tay bán vợ, bán con rồi trở thành nô lệ cho nhà giàu, một bộ phận khác bị cướp mất ruộng đất hay không có ruộng cày thì đều bị biến thành nông nô; nhiều nông dân bị phá sản, lưu vong mà người xưa hay gọi là “dân vong mệnh”. Cũng trong hơn một thiên niên kỷ ấy, chính quyền cai trị phương Bắc không chỉ dừng lại ở việc cướp bóc, vơ vét tàn bạo nhân dân ta mà chúng còn thực thi âm mưu đồng hóa dân tộc ta nhằm biến Đại Việt thành quận, huyện của Trung Hoa. Điều này hết sức nguy kịch cho dân tộc ta và đòi hỏi sự thống nhất dân tộc ngay và trả Đại Việt về với chính nguồn gốc của họ, xây dựng lại một chính quyền thống nhất của nhân dân Đại Việt.

Đầu thế kỷ X, nhà Đường suy yếu nghiêm trọng, thừa cơ hội ấy, năm 905, Khúc Thừa Dụ được sự giúp đỡ của nhân dân đã đứng lên lật đổ chính quyền đô hộ nhà Đường, tự xưng là Tiết độ sứ. Tuy chỉ xưng là Tiết độ sứ hay trên danh nghĩa đương thời thì ta vẫn thuộc sự quản lý của Trung Hoa nhưng Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một nền chính quyền dân chủ cho nhân dân An Nam buộc nhà Đường phải thừa nhận Khúc Thừa Dụ là Tĩnh hải quân Tiết độ sứ và phong cho Thừa Dụ tước Đồng bình chương sự.

Điều này cho thấy khả năng lãnh đạo xuất chúng của ông và việc thông nhất nước nhà sau 1000 năm đô hộ của Trung Hoa đã đặt nền móng cho sự kế tục của thế hệ sau ông. Năm 907, Khúc Thừa Dụ qua đời, Khúc Thừa Hạo- con trai của ông thay ông nối tiếp sự nghiệp và cũng tự xưng là Tiết độ sứ. Có một điều mà sử sách đã ghi lại: việc nhà Hậu Lương đã công nhận và phong chức “An Nam đô hộ sung tiết độ sứ” cho Khúc Hạo ngày 01-09-907, nhưng đến năm 908 lại cho Lưu Ẩn- một viên quan cũ của nhà Đường cai quản miền Quảng Châu- Trung Quốc làm “Tĩnh hải quân tiết độ, An Nam đô hộ”. Qua điều này, ta có thể thấy âm mưu xâm chiếm lãnh thổ nước ta của phương Bắc vẫn chưa từ bỏ.

Khúc Hạo bắt đầu thi hành nhiều cải cách mang yếu tố quan trọng để cải thiện phần nào đời sống cơ cực của nhân dân ta. Ông tiến hành chia lại các đơn vị hành chính, tổ chức lại chính quyền, sửa đổi lại chế độ to thuế, giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Việt sử thông giám cương mục  nhận xét: dưới thời Khúc Hạo “chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị, nhân dân đều được an vui. Khúc Hạo được tôn xưng là “Chúa hiền của nước Việt”. Theo Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung gọi Khúc Thừa Dụ là Khúc Tiên Chúa, mấy đời là hào tộc mạnh, nhân nhà Đường mất, lòng người yêu mến, suy tôn làm chúa, dựng đô ở La Thành. Khúc Trung Chúa (tức Khúc Hạo) nối cơ nghiệp trước, có phong thái của ông nội. Không rõ Lê Tung viết Khúc Hạo là con hay cháu của Khúc Thừa Dụ.

Nguồn sử liệu ít ỏi còn lại của ta chỉ có thể khái quát về một số cải cách đó. Khúc Hạo bước đầu xây dựng từng bước bộ máy nhà nước, tổ chức xã hội, kinh tế- tài chính và dần hoàn thiện trong các bước tiếp theo để thành lập một bộ máy chính quyền riêng của mình; để dần thoát khỏi sự lệ thuộc, ảnh hưởng, chi phối của các thế lực thù địch phương Bắc.

Về phương diện chính trị, ông chủ động chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp như: lộ, phủ, châu, giáp(hương), xã. Ông đã xóa bỏ đơn vị “hương” và thay vào đó là “giáp”, bởi lẽ từ xưa đến nay, đất nước ta không hề tồn tại đơn vị này và việc sử sụng đơn vị “hương” của Trung Hoa cũng phần nào cho ta thấy âm mưu Hán hóa dân ta của quốc gia này là vô cùng tinh vi. Theo đơn vị đã chia, đặc biệt là xã, mỗi xã ông đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng trông coi góp phần tăng cường sự quản lý trực tiếp của nhà nước đến từng đơn vị hành chính cơ sở . Đơn vị “hương” trước đó do Trung Hoa xây dựng được đổi thành đơn vị “giáp”; đứng đầu đơn vị này là Quản giáp và Phó tri giáp. Theo An Nam chí của Cao Hùng Trưng (Trung Quốc- TK XVII), Khúc Hạo đã đặt thêm 150 giáp, tính thêm số giáp trước đó (nhà Đường đã xây dựng hệ thống gồm 159 hương) lên tổng số 314 giáp.

Về mặt kinh tế, Khúc Hạo đã đổi mới trên một số phương diện, phù hợp với tình hình của đất nước hiện tại bấy giờ. Ông cho đổi chế độ điền tô và phu dịch. Với chính sách “bình quân thuế ruộng”, ông đã kết hợp hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước với làng xã nông thôn nước ta những năm đầu thế kỷ X, khi phương thức sản xuất Châu Á còn hiện diện nhiều trong xã hội. Đã có nhiều sử gia cho rằng dân tộc ta đã trải qua một thời kỳ gọi là phương thức sản xuất Châu Á (ở phương Tây tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ) mà điển hình đặc trưng cho chế độ ấy là sở hữu công cộng về ruộng đất; nhất là trong giai kỳ ấy, công xã nông thôn đang tồn tại một cách phổ biến và có một vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở bền vững của xã hội. Với chính sách của mình, Khúc Hạo đã giao lại quyền sỡ hữu ruộng đất trong thực tế cho các công xã và quyền lợi công bằng khi hưởng về sự phân chia ruộng đất đối với mỗi thành viên trong công xã ấy.

Ở mặt ngoại giao, Quảng Châu mạnh lên, tháng 9 năm 917, em Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm (lên thay từ năm 911) tự thân mình xưng đế, rồi thành lập ra nước Nam Hán ngự ở vùng Hoa Nam (tức vùng Quảng Tây, Quảng Đông ngày nay), một trong mười nước thời Ngũ đại Thập quốc . Nhận thấy điều này có nguy hại đến dân tộc, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm “hoàn hảo sứ” sang Hoa Nam với hai mục đích, bề ngoài là để ‘‘kết mối hoà hiếu’’ với dòng họ Lưu, song bên trong lại muốn xem xét tình hình hư thực của địch. Cuối năm 917 khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Khúc Thừa Mỹ đã sang nhà Lương (với tư cách là một triều đại thuộc nhà Đường) xin lĩnh “tiết việt” với ý nghĩa chung là thần phục và cũng nhờ thế mà đất nước ta tiếp tục yên bình.

Những cải cách đầu tiên trong lịch sử dân tộc, Khúc Hạo đã đóng góp nhiều công ích cho dân tộc lúc đương thời. Với những cải cách tiến bộ của mình, ông đã từng bước xây dựng một chính quyền tự chủ và thống nhất toàn diện từ trung ương đến địa phương. Vượt qua những yếu điểm và phát triển những thiết chế đã có của thời Đường, Khúc Hạo đã xây dựng một nền kinh tế công bằng không chỉ khi xóa bỏ chế độ thuế, tô, dung điệu, mà ông đã cho nhân dân quyền làm chủ ruộng đất của mình, các hộ gia đình đóng thuế bằng nhau cho Nhà nước thông qua các công xã. Điều này phần nào xác lập chủ quyền ruộng đất công trên danh nghĩa Nhà nước; chính việc này đã đóng góp 1 phần trong việc xác lập chế độ phong kiến tập quyền sau này. Trên hết, chính cuộc cải cách của Khúc Hạo năm 907, là biểu hiện của lòng tự tôn dân tộc, tự chủ của Đại Việt đã được xác lập lúc bây giờ, là tiền đề để khẳng định dân tộc ta là một dân tộc độc lập, có chủ quyền, không còn bị phương Bắc đô hộ nữa.

Song, trong những cải cách của Khúc Hạo dường như vẫn còn một số vấn đề mà ông chưa thể giải quyết được lúc bấy giờ. Vấn đề quan trọng là nô tì vì nợ mà bán mình và nông nô không có ruộng đất ông không giải quyết được. Dù Khúc Hạo có xây dựng một nề kinh tế tự chủ và công bằng khi ai cũng có quyền sở hữu ruộng đất nhưng số nô lệ vì nghèo mà bán thân trước đó nếu không được giải thoát thì họ có thể có được quyền sở hữu ruộng đất hay không, hay trên danh nghĩa thì dù có sở hữu được thì vì họ là nô lệ nên trước sau gì, số ruộng đất ấy cũng về tay chủ của họ? Và thuế công bằng không khi ai cũng trả như nhau, có thực sự hợp lý lúc bấy giờ ? Khi nhà Đường cai trị, chúng đã cướp bóc và vơ vét nhân dân ta đến tận cùng, vì vậy số đã giàu sẽ trở nên giàu hơn, còn nghèo thì lại càng nghèo hơn nữa. Vậy lúc ấy trả thuế bằng nhau, thì người giàu họ có đủ khả năng để trả, còn những người bị cướp vét hết tài sản và trở thanh nô lệ hoặc vô sản thì tài sản, tiền đâu để họ có thể trả thuế cho Nhà nước. Thực sự có phù hợp với xã hội đương thời hay không ?

Với những đóng góp đầu tiên trong việc canh tân đất nước của Khúc Hạo đã xây dựng nên một tiền đề nhất định cho tình hình đất nước lúc bấy giờ. Cuộc cải cách có nhiều ưu điểm nhưng không thể nào không thiếu sót, tuy nhiên nó đã góp phần thúc đẩy những nhà cải cách có cùng chí hướng muốn thay đổi xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn vươn lên và vượt qua những nhược điểm, những yếu sót là Khúc Hạo đã gấp phải để hoàn thiện những cải cách của chính mình.

Với thành công 3 lần chống quân Nguyên-Mông của nhà Trần, đất nước gặp nhiều khó khắn nhất định, song đã được khắc phục một cách rõ nét. Có thể thấy rằng, Đại Việt ta  sau một thời gian phát triển phồn thịnh và mạnh mẽ từ thế kỷ XI đến nửa sau thế kỳ XIV (tức cuối đời nhà Trần) đã lâm vào một cuộc khủng hoảng nặng về, sâu sắc từ chính trị-xã hội đến kinh tế, văn hóa,…

Sự sa đọa, ăn chơi xa xỉ, vơ vét của dân là hành động của những tên hung quân bạo chúa; trong khi nhân dân đang lầm than cơ cực thì tròn triều lại chia bè kết phái, ăn chơi xa xỉ, vua thì không lo đến chuyện triều chính, bỏ bê quốc sách, không quan tâm đến việc triều chính. Bên ngoài thì nạn cướp bóc, trộm cắp xảy ra liên mien; các thế lực thù địch thì dòm ngó, lăm le xâm chiếm lãnh thổ Đại Việt.

Cuối đời nhà Trần, với sự thống lĩnh của Trần Dụ Tông (1341-1369), đất nươc mỗi lúc một nguy kịch trên mọi phương diện khi ông chỉ biết ăn chơi trát táng, không màn đến việc chính trị. Sử sách có ghi lại như thế này : Dụ Tông sai đào hố lớn ở vườn nơi ngụ hậu cung, trong hồ đất làm núi, bên bờ hồ trồng thông, trúc và nhiều thứ cây khác, thêm vào đấy nào là cỏ lạ, hoa thơm, nuông kỳ, chim quý.Bốn mặt khai thông cho nước song vào. Lại đào hồ khác, bắt dân chở nước mặn chứa vào hồ để nuôi cá, các hải sản. Bắt người Hoa châu chở cá sấu thả vào đấy… Đến vua còn không quan tâm đến việc triều chính thì bảo sao quan lại, người có chức quyền noi gương làm theo. Quan lại dựa vào quyền lực mà bóc lột nhân dân, vơ vét tài sản của dân đến cùng; chúng bắt dân xây dinh thự, chùa chiền cho chúng làm thú vui tiêu khiển. Nổi bật trong đám quan lại ấy, lại xuất hiện những kẻ nịnh bợ xảo trá; làm ảnh hưởng đến chính trị triều Trần. Mấy ai có được dung khí như Chu Văn An khi dâng sớ thất trảm đòi chém 7 tên nịnh thần nhưng lòng vưa không thấu, từ chối sớ của ông; Chu Văn An đã trả ấn, xin cáo quan về quê; ấy mới là tấm lòng của một vị quan chân chính. Sự tranh giành quyền lực giữa các tầng lớp quý tộc cầm quyền là điều không thể tránh khỏi; nó cũng làm lũng đoạn và rối ren cho bộ máy chính trị đương thời.

Vua, quan không lo đến triều chính, vì vậy mà nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng. Không những thế, triều đình còn bắt dân phục vụ cho các cuộc chiến tranh xâm lược. Nạn vỡ đê, lũ lụt (9 lần: 1348, 1351, 1352, 1353, 1358, 1359, 1360, 1678, 1393), 11 lần hạn hán hoành hành làm nhân dân càng thêm khốn đốn, cùng cực hơn trước; hậu quả để lại vô cùng nặng nề, mất mùa, đói kém diễn ra liên miên. Họ bị mất dần tài sản, buộc một phần phải bán mình cho nhà giàu nhưng số kiếp làm nô tì lại khốn đốn hơn gấp nhiều lần. Từ đây, mẫu thuẫn xã hội mỗi lúc càng trở nên gay gắt, nhiều cuộc đấu tranh chống chính quyền đã xảy ra. Có thể nhận thấy rõ sự suy thoái của chính quyền nhà Trần đã đến tận cùng của sự thối nát và việc đấu tranh của nhân dân nổ ra là điều không thể nào tránh khỏi.

Từ sau thế kỷ XIV, Champa dần trở nên hùng mạnh và liên tiếp mở quân về phía Nam Đại Việt. Với sự suy thoái của chính quyền nhà Trần, việc chúng ta liên tiếp thất bại là điều dễ dàng nhận thấy. Nặng nhất có thể kể đến là tháng 10 năm 1839, quân nhà Trần do Hồ Qúy Ly dẫn đầu ở Thanh Hóa đã thất bại thảm hại dưới quân của Champa; kết quả là quân do ông dẫn đầu đã bị giết 70 tướng. Cuộc chiến với quân của Champa đã phần nào khẳng định sự suy yếu, lung lay đến cùng của nhà Trần.

Ở Trung Hoa đương thời, năm 1368, sau khi đã lật đổ nhà Nguyên, lập ra nhà Minh, vua Minh Thái Tổ dần ổn định bộ máy của mình và bắt đầu lấn quân đi xâm chiếm các nước khu vực, không ngoài Đại Việt nước ta. Không ngoài suy đoán, năm 1384, quân Minh đánh sang Vân Nam và bắt ta phải cống nạp cho chúng lương thực; nhà Trần phải cống nạp cho chúng 5000 thạch lương. Năm 1385, nhà Trần phải tuyển 20 nhà sư đưa sang Kim Lăng nộp cho nhà Minh. Năm 1386, nhà Minh lại đòi 50 thớt voi, chuẩn bị lương thảo dọc từ Nghệ An trở ra Bắc để vận chuyển đến vùng Vân Nam. Sự nhu nhược của chính quyền Trần đã bộc lỗ rõ sự suy thoái, mục nát của mình khi liên tiếp đáp ứng mọi yêu cầu do Trung Hoa đặt ra, bị động trong mọi hoàn cảnh và đã mất dần khả năng đấu tranh chống ngoại xâm như trước đây.

Con đường trở thành vua của một quốc gia diễn ra khá suông se theo những dự tính của Hồ Qúy Ly đã đặt ra trước đó. Năm 1375, Qúy Ly được phong chức Tham mưu quân sư, rồi giữ chức “Nhập nội chính thái sư Bình Chương quân quốc trọng sự, tuyên trung vệ đại vương” năm 1395 dưới sự ủy quyền của thượng hoàng Trần Nghệ Tông, cho đến lúc truất bỏ ngôi vua Trần, tự xưng là vua, thành lập nước Đại Ngu, nhà Hồ được xác lập từ 2/1400 đến đầu 1407, dưới sự quản lý của Hồ Qúy Ly, ông đã thi hành nhiều cải cách tiến bộ trên mọi phương diện đời sống xã hội.

-Về mặt chính trị, Hồ Qúy Ly, đã dần xóa bỏ phương thức sử dụng người của hoàng thất để nắm giữ các chức vụ chỉ huy quân sự cao cấp, đưa lực lượng trẻ vào nắm quyền, dần loại bỏ tôn thất nhà Trần ra khỏi bộ máy chính trị. Ông cho xây dựng lại bộ máy nhà nước, theo đó thống nhất sự quản lý từ trung ương đến địa phương. Năm 1379, ông đã thay đổi một số lộ trấn và tiến hành thực hiện quy định làm việc mới; lộ coi phủ, phủ coi châu, châu coi huyện. Ông tiếp tục loại bỏ tôn thất nhà Trần, thay vào đấy là nho sĩ trí thức. Hồ Qúy Ly đã thành công khi loại bỏ hang loạt những chức quan trong triều đình Trần và đến năm 1400 thì nhà Trần hoàn toàn sụp đổ. Chính quyền nhà nước thay bằng sự quản lý của nhà Hồ, dưới sự quản lý của Hồ Qúy Ly. Để có được nhân tài vào các vị trí quan trọng trong triều đình, ông đã tiến hành tổ chức các kì thi tuyển chọn quan lại, xã hội dần thay đổi sang chế độ quân chủ quan liêu từ cuối TK XIV đến đầu TK XV.

-Về quân sự, Hồ Qúy Ly cho xây dựng hệ thống quân sự vững mạnh và được cho là có số lượng hùng mạnh nhất trong lịch sử nước ta. Ông tiến hành cho lập sổ hộ tích để dễ bề quản lý dân cư và từ đó để có thể tuyển binh lính. Ông cho tổ chức lại quân Túc Vệ, đặt thêm các hiệu quân, tăng cường phát huy tính lỷ luật của quân đội, bài trừ những tưỡng sĩ không có thực lực, thay vào đó là những người có sức khỏe và nắm vững võ nghệ. Đặc biệt, Hồ Qúy Ly đã biến đổi quân đội thành các quân, đô, vệ mà người đứng đầu là các Đại tướng, Đô tướng, Đồng Đô tướng và Phó Đô tướng quân; cung với đó là các đơn vị đồng loạt đặt các chức: Đại Đội trưởng, Đại Đội phó, Đô đốc. Đô thống, Tổng quản và Thái thú.

Ngoài ra, ông còn cho tiến hành nâng cấp vũ khí và trang bị nhiều phương thức để tuyển các thợ giỏi làm vũ khí. Con trai cả của Hồ Qúy Ly là Hồ Nguyên Trừng đã phát kiến ra được một loại súng thần cơ có sức công phá mạnh mẽ, hơn hẳn các loại khí giới đương thời; đây cũng được coi là một loại đại bác đầu tiên ở nước ta. Ông còn cho thúc đẩy phát triển thủy binh của quân đội, mở các xưởng đóng thuyền để có thể chống lại nhà Minh- luốn lăm le xâm chiếm nước ta. Theo sử sách ghi lại thì Cổ lâu thuyền và Súng thần cơ là những sản phẩm mới nhất và là vũ khí lợi hại để nhà Hồ tấn công quân Minh. Hồ Qúy Ly còn cho xây dựng nhiều căn cứ điểm phòng thủ quân sự trọng tâm, các cửa biển và sông quan trọng đều được nhà Hồ đóng cọc dưới đó; hệ thống phòng thủ dài gần 400km từ núi Tản Viên đến cửa sông Thái Bình.

-Về luật pháp, nhà Hồ ban hành nhiều luật lệ và thực hiện những điều luật ấy, đây chính là phương pháp tích cực cho việc duy tân đất nước trên mọi phương diện. Theo như thư tịch cổ cho biết, Hồ Qúy Ly đã thực thi tới 30 lần ban hành luật lệ. Với phương pháp ban hành luật lệ, Hồ Qúy Ly đã chủ trương việc phát triển pháp quyền để xây dựng đất nước, bộ máy chính quyền theo thiết chế quân chủ quan lieu vừa mới hình thành đang còn non yếu, tạo thế bị động cho chính quyền Trần còn sót lại, trấn áp những cuộc nổi binh của nhân dân. Luật pháp thời nhà Hồ có sự đan xen kế thừa của các bộ luật thời Lý, Trần nhưng được tăng cường phát triển để đáp ứng nhu cầu của giai cấp cầm quyền nhà Hồ đang gặp phải sự chỉ trích của giới quý tộc Trần.

-Về kinh tế: năm 1397, theo sự yêu cầu của Hồ Qúy Ly, vua Trần đã ban hành chính sách hạn điền. Theo đó, đại vương và công chúa không hạn chế về số lượng ruộng đất (ruộng tư hữu) nhưng người dân thường thì không được quá 10 mẫu; người nào có nhiều ruộng mà phạm phải tội thì có thể dùng ruộng để chuộc hoặc số dư ra thì sung công. Để tăng hiệu quả cho phương thức hạn điền, năm 1398, Hồ Qúy Ly đưa quan lại về địa phương cho làm lại sổ ruộng đất. Ai có ruộng tư hữu thì phải ghi rõ số lượng và cắm tên mình trên thửa ruông ấy; sau 5 năm phải hoàn thành xong giấy tờ, ruộng không có ai cắm thẻ sẽ được nhà nước sung công.

-Về tài chính: Chính sách đặc biệt quan trọng của Hồ Qúy Ly chính là thu hồi tiền đồng, ban hành tiền giấy gọi là tiền “Thông bảo hội sao” gồm 7 loại: 1 quan (vẽ con rồng), 1 tiền (vẽ đám mây), 2 tiền (vẽ con rùa), 3 tiền (vẽ con lân), 5 tiền (vẽ con phượng), 10 đồng (vẽ rau rong) và 30 đồng (vẽ thủy ba). Mệnh giá 1 quan tiền đồng đổi bằng 1 quan 2 tiền giấy; ai làm tiền giả thì bị bắt tội chết, ai không sử dụng tiền giấy cũng xem như phạm phải tội làm giả tiền. Vì gặp sự phản ứng gay gắt từ phía nhân dân mà năm 1403, nhà Hồ cho bãi bỏ tội không sử dụng tiền giấy.

Năm 1402, nhà Hồ ban lại điều luật về chính sách thuế mới, cho định lại biểu thuế đinh và thuế ruộng. Thuế đinh chỉ đánh vào người được chia; người không có ruộng, trẻ mồi côi, đàn bà góa không phải nộp thuế. Thuế đánh theo lũy tiến: người có 5 sào ruộng nộp 5 tiền…-có trên 2 mẫu 6 sào nộp 3 quan

Thuế ruộng tư: 5 thăng/mẫu

Đất bãi thu: từ 3 quan đến 5 quan/mẫu

-Về xã hội: Hồ Qúy Ly ban hành chính sách hạn nô năm 1401, dựa vào cấp bậc mà có số lượng gia nô nhất định; số lượng quá quy định phải đem nộp cho nhà nước ngay. Mỗi gia nô, nô tì thừa được nhà nước trả bù cho 5 quan tiền; trừ những người mới nuôi hoặc giả là nô tì, gia nô người nước ngoài thì tất cả đều phải được đóng dấu trên trán người đó theo phẩm tước của chủ nhân. Gia nô của nhà nước thì thích hỏa châu (ngọc sáng có tia sáng tỏa ra như tia lửa) hoặc nạp vào quân Điện tiền; gia nô của công chúa thích kiểu dương đường (cây dương, cây đường); gia nô của đại vương thích vòng đỏ, gia nô của quan nhất phẩm, nhị phẩm thích vòng (khuyên) đen; gia nô của quan tam phẩm trở xuống thích hai khuyên đen. Sử dụng gia nô, nô tì phải có chúc thư ba đời trình ra cho nhà nước. Cùng lúc, Hồ Qúy Ly cho làm lại sổ hộ và ghi tất cả người dân từ 2 tuổi trở lên vào đó; dân phiêu tán bị loại khỏi sổ; dân kinh thành ngụ trú ở vùng này cũng phải về quê quán của bản thân.

Khi nhà Hồ chiếm được vùng từ Hóa Châu đến Cổ Lũy (bắc Quảng Ngãi), ông cho những dân không có ruộng đất mà có tài sản vào đây lập và giữ trấn lâu dài; cho người giàu nạp trâu bò vào nơi đây.  Vào năm 1401, Hồ Quý Ly cho xây dựng kho “th­ường bình” như một hình thức dự trữ quốc gia về lương thực. Khi nạn đói năm 1405 xảy ra, ông thi hành chính sách bắt người giàu phải bán thóc cho dân theo thời giá. Năm 1403, nhà Hồ thực thi thành lập cơ quan “Quảng Tế thự ” (giống Bộ Y tế ngày nay), và phong cho Nguyễn Đại Năng, một y sĩ, làm “quảng tế thự thừa”, chuyên chăm lo việc quản lý tổ chức chữa bệnh trong nhân dân và chăm sóc sức khỏe trong nhân dân.

-Về phương diện giáo dục, năm 1396, Hồ Qúy Ly cho thay đổi luật lệ thi cử; đặt kỳ thi Hương do địa phương quản lý và kỳ thi Hội do Triều đình quản lý. Thay đổi mọi luật lễ của kỳ thi, thay đổi phương diện giáo dục là một trong những cải cách đáng chú ý nhất của Hồ Qúy Ly ở mặt văn hóa- giáo dục dưới thời nhà Hồ. Những ai đã trải qua kỳ Hương sẽ tiếp tục làm thêm 1 phần nữa gọi là văn sách do vua đề ra, bài thi này giúp nhà vua phân định bậc cho họ. Ông cho bãi bỏ phép thi viết ám tả cổ văn và thay đó bằng phần thi kinh nghĩa (hay được gọi là thể văn bốn kỳ); đề ra cách thi Cử nhân ( thi Hương ở địa phương). Kỳ thứ 1, thi một bài kinh nghĩa từ 500 chữ trở lên và phải có các phần bắt buộc như phần phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, nguyên đề, đại giảng, kết luận. Kỳ thứ 2, thi phần thi thơ Đường luật một bài phú cổ thể hoặc thể li tao từ 500 chữ trở lên. Kỳ thứ 3, thi một bài chiếu theo chữ Hán, một bài chiếu, một bài biểu dùng thể tứ lục đời nhà Đường. Kỳ thứ 4, thi một bài văn sách láy kinh sử hoặc kinh thời vụ ra đề từ 1000 chữ trở lên. Trải qua kỳ Hương, thí sinh sẽ tiếp tục thi Hội (thi tiến sĩ), nếu đã đỗ tiến sĩ thì năm sau tham gia kỳ thi Đình, làm một tác phẩm văn sách để phân định thấp cao. Đến năm 1404, Hồ Qúy Ly cho đặt thêm 1 trường thi nữa, nâng mức tổng số trường thi lên con số 5; ở đây, thí sinh sẽ thi phần thi toán và chữ.

Chủ trương mở trường học ở các châu, phủ, và cử các đại diện gọi là quan Giáo thụ trông coi và phát triển việc học tập là việc làm của Hồ Qúy Ly lúc bấy giờ để nâng cao việc học cho các sĩ tử. Ông ban hành chính sách học điền , để quy định phần ruộng đất cấp cho việc học tập ở địa phương; và tùy theo quy mô địa phương mà số mẫu đất sẽ là từ 12-15 mẫu; nhưng rất tiếc, đề xuất này lại không được thực hiện. Năm 1401, Hồ Qúy Ly đề ra một phương thức thi mới, đối với kỳ thi Hương, sẽ tổ chức thêm môn tính (toán), thành ra 5 kỳ thi. Triều đinh giao việc quản lý cho các quan ở lộ, phủ, châu trông coi việc thi cử và tuyển chọn các nhân vật giỏi vào triều sát hạch để tiến chức làm quan.

Ông đề cao việc phát triển chữ Nôm- được coi là chữ của chính dân tộc ta dựa trên sự phát triển từ chữ Hán. Ông đã tự mình dịch thuật hàng loạt sách từ chữ Hán về chữ Nôm để cung cấp cho việc dạy học của triều đình bao gồm “Vô đặt” (không lười biếng) trong sách Thượng thư để dạy vua; dịch lại Kinh thi để các nữ quan dạy dỗ cung tần, phi nữ trong cung. Hồ Qúy Ly tự làm sách “Minh Đạo”, để tự bản thân ông đánh giá quan điểm của mình về Nho giáo, không đánh giá cao vai trò của Khổng Tử…

-Về mặt văn hóa, công trình thành nhà Hồ chính là một trong những kiến trúc đặc biệt mà nhà Hồ đã để lại cho nền sử học Việt Nam. Năm 1397, Hồ Qúy Ly cho xây kinh đô mới ở An Tôn (Vĩnh Lộc – Thanh Hóa ngày nay), xây dựng nên công trình kiến trúc thành nhà Hồ. Thành có hình chữ nhật, chu vi khoảng 3km, mặt ngoài của thành xây bằng các khối đá hình hộp, mặt được mài nhẵn, phẳng dài từ 2-4m, cao 1m và dày 0,7m. Cổng thành được xây rất tỉ mỉ và công phu; ghép các đá hình vòm, cao 8m. Trong thành có các khu dinh thự, hiện này còn lại các tượng rồng chạy dọc bậc thềm thành…

Hồ Qúy Ly đã xây dựng nên hệ thống chính trị quân chủ quan liêu; sử dụng những người có tài thực sự để cai trị bộ máy nhà nước; bác bỏ những quan viên không có năng lực, không đủ phẩm giá và sức mạnh để tránh gây ảnh hưởng đến kết quả quản lý của nhà nước. Trong khi phương thức quản lý đất nước của nhà Trần đang đi vào ngõ cụt của sự tối tăm thì Hồ Qúy Ly xuất hiện như một vị cứu tinh thay đổi cục diện xã hội. Việc đặt lại quy định về hệ thống quan lại ở địa phương đã góp phần tính thống nhất sự quản lý của nhà nước từ trung ương đến địa phương.

Trên hết, ta thấy rằng Hồ Qúy Ly đã nhận thức rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng trầm trọng này và chính ông đã thay đổi cục diện xã hội đương thời nhờ những cải cách tiến bộ, đầy tính đổi mới. Với vai trò là một nhà cải cách, đổi mới đất nước, Hồ Qúy Ly đã thực hiện những mục tiêu mà mình đề ra một cách thuyết phục nhất dựa trên nền tảng quyền lực của chính mình. Xây dựng bộ máy hành chính mang bản sắc của Hồ Qúy Ly, từ đó loại bỏ chế độ quân chủ quý tộc sang quân chủ quan liêu. Song, mặc dù chưa hoàn thiện được thiết chế này, nhưng ta thấy rõ việc áp dụng của Hồ Qúy Ly trong thời điểm ấy là vô cùng hợp lý, đáp ứng được xu thế của hoàn cảnh dân tộc đề ra, giải quyết được những vấn đề mà nhân dân đang cần đến. Những cải cách của ông đã dần tạo nên sự thay đổi cục diện xã hội đương thời, đánh dấu bước khởi sắc với sự chuyển biến của sang thiết chế quân chủ quan liêu, loại bỏ hình thức kinh tế điền trang vốn đã lạc hậu, giúp phá vỡ sự cản trở mà hình thức kinh tế này đã gây nên.

Với sự tiến bộ mà Hồ Qúy Ly đã đặt nên, xã hội và bộ máy chính trị đương thời đã có những bước chuyển mình đáng quan tâm. Chính sách “hạn điền” mà Qúy Ly đặt ra đã góp phần ngăn chặn khuynh hướng phát triển của của hình thức sở hữu phong kiến lớn; tiến đến góp phần thúc đẩy sự sở hữu ruộng đất tối cao của nhà nước. Thuế thời Hồ Qúy Ly cũng được chú trọng công bằng hơn so với thời Trần. Điển hình như thuế bãi trồng dâu, Hồ Qúy Ly đã cho giảm hơn 50% so với thời nhà Trần; điều ấy đã tạo động lực để kinh tế công thương nghiệp dân tộc phát triển và cũng thể hiện được tư tưởng khoan dung đối với nhân dân đương thời của nhà Hồ. Ngoài chính sách hạn điền thì chính sách hạn nô do Hồ Qúy Ly khởi xướng cũng đóng góp 1 phần quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước. Hai chính sách này không chỉ đánh phủ đầu lên mặt kinh tế của giới quý tộc cầm quyền, của nền kinh tế quân chủ quý tộc vốn đã suy tàn của nhà Trần mà nó còn là một động lực để hạn chế quá trình nông nô hóa đang mỗi lúc một gia tăng như đương thời. Khẳng định vai trò của nhà cầm quyền họ Hồ.

Với những canh tân trên phương diện văn hóa, xã hội, Hồ Qúy Ly đã xây dựng nên một nền văn hóa mang bản sắc Đại Việt, phù hợp với tính chất của thời đại. Đề cao chữ Nôm chính là một trong những chính sách mang tầm ảnh hưởng nhất của Hồ Qúy Ly, tạo động lực mạnh mẽ để dân tộc phát triển vốn ngôn ngữ được coi là quốc ngữ đầu tiên của Đại Việt ta đương thời. Không những thế, xây dựng quân đội để bảo vệ lãnh thổ dân tộc cũng được nhà Hồ chú trọng, đó có thể thấy Hồ Qúy Ly rất có mắt nhìn về thời đại của chính ông đang cần quân đội để chống những thế lực bên trong lẫn bên ngoài đang lăm le thời cơ để lật đổ ông. Việc tổ chức các kỳ thi để tuyển dụng quan lại, loại bỏ những tham quan, quý tộc nhà Trần ra khỏi bộ máy cai trị cũng thể hiện đường lối chính trị quân chủ quan liêu của Hồ Qúy Ly. Ông cũng là một trong những người đầu tiên phong cho những người ngoại tộc để  họ vào những vị trí quan trọng cao trong triều đình. Đặt thêm một kỳ thi tính thay vì chỉ có thi văn; đặt thêm trường học là phương châm xây dựng thế hệ có trình độ văn hóa mà Hồ Qúy Ly có thể đã nhận thấy lúc bây giờ; và việc áp dụng phép toán vào kỳ thi đã đưa thi cử thời Hồ lên một tầm cao mới mà các thời đại khác chưa nhận ra lúc bấy giờ.

Tuy những phương pháp cải cách của Hồ Qúy Ly đã đạt được rất nhiều thành công, nhưng trên tinh thần công bằng mà nói thì nó vẫn chưa thực sự hoàn hảo và ông cũng chưa giải quyết được một số vấn đề mà các nhà cải cách trước, đặc biệt là Khúc Hạo đã vấp phải trong phương pháp duy tân của mình. Việc phát hành tiền mới đã vấp phải sự phản đối rất mạnh từ nhân dân nên cải cách này cũng mau chóng thiếu hiệu quả và cũng không thực hiện được. Chủ trương chính sách “hạn điền”của Hồ Qúy Ly đã ngăn cản sự phát triển của phương thức tư hữu ruộng đất vốn có dòng chảy lịch sử dân tộc. Chính sách “hạn nô” của Hồ Qúy Ly cũng không thực sự mang tính hoàn hảo cao khi việc nô tì bản chất chỉ là thay đổi không gian làm việc chứ thực sự không mang tính chất giải quyết nô tì. Tầng lớp này vốn tồn tại rất đông trong xã hội đương thời, vì vậy, cần phải giải phóng cho một lượng lớn nô tì nếu có thể được. Thân phận họ chỉ vì nợ và bị cướp ruộng mà trở thành nô tì, nên việc giải quyết chưa sâu vấn đề nông nô cũng là một thiếu sót lớn của Hồ Qúy Ly trong chính sách cải cách của mình. Với mưu kế thành lập “quân đội triệu người”, ông ra quyết sách đưa con trai từ 2 tuổi phải ghi vào sổ hộ tịch; liệu quyết sách có thực sự đúng khi đưa trẻ quá nhỏ vào chỉ với mưu đồ thành lập quân đội của mình ?

Tuy Hồ Qúy Ly đã đưa ra những kế sách giúp thay đổi xã hội đương thời nhưng kết cục thời gian tồn tại của nhà Hồ lại cực kỳ ngắn ngủi. Công cuộc cải cách của ông tồn tại trong một hoàn cảnh lịch sử đầy tính thử thách và gian nan khi phải đương đầu với sự khủng hoảng nghiêm trọng của thời đại nhưng cũng vừa phải đối phó với giặc ngoại xâm đang lăm le xâm lược nước ta. Với sự không đồng thuận của lòng dân, chính điều ấy đã đẩy nhà Hồ đến với sự thất bại trong trận chiến với quân nhà Minh. Cuộc xâm lược này cũng chính là điều kiện khách quan khiến cuộc cải cách của Hồ Qúy Ly nhanh chóng thất bại. Nhưng dù gì, thì công của Hồ Qúy Ly trong việc thay đổi cục diện xã hội dù là ngắn nhưng  cũng đáng được ghi nhận và có thể nói công cuộc cải cách ấy chính là chất xám của một nhà chính trị lúc bay giờ- HỒ QUÝ LY.

  1. Cải cách của Lê Thánh Tông

Thành công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, bước vào công cuộc xây dựng đất nước theo thiết chế chính trị của nhà Trần. Ở TW, dưới vua gồm các quan đại thần giúp vua trông coi việc nước như các chức tả, hữu Tướng quốc, Bình Chương, đại Hành khiển, tả hữu Bộc xạ. Dưới còn có những cơ quan trọng trách như Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Trung thư sảnh, Khu mật Viện,… Các bộ gồm những ban, phòng nằm trong cơ quan Thượng thư sảnh. Một số cơ quan chuyên môn cũng góp mặt như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Quốc  tử  giám,… Ở địa phương, ta có thể thấy được chính quyền chia cả nước thành 5 đạo do Hành khiển đứng đầu; dưới đạo là 24 lộ do An phủ sứ đứng đầu (đây là thể chế mà nhà Trần đã phân chia trước đó); dưới lộ là huyện, châu và xã.

Các đời vua kể từ sau khi Lê Thái Tổ băng hà đều là những người kế vị nhỏ tuổi (Thái Tông lên ngôi vua năm 10 tuổi, Nhân Tông lên ngôi vua năm 2 tuổi); với việc ấy, khả năng lãnh đạo của ngôi vua dường như không có, ngai vàng có thể bị lật đổ bất cứ lúc nào, nội bộ triều đình mâu thuẫn, giết hại lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Không những thế, các quan đại thần trong triều cũng dần dần bị giết như Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú,… Quan lại thì tham ô, hối lộ tràn đầy; vơ vét dân là những hành vi không thể tránh khỏi.

Các làng xã đương thời vẫn mang tính tự trị cao, vẫn nắm quyền hành quản lý và phân chia ruộng đất công theo tập tục của làng đó, mặc dù nhà nước vẫn đang nắm quyền sở hữu ruộng đất. Cho ta thấy quyền sở hữu ruộng đất tối cao của nhà nước vẫn chưa hoàn toàn được xác lập. Mối quan hệ sản xuất giữa địa chủ – nông dân lệ thuộc vẫn còn chưa trở thành mối quan hệ kinh tế chủ đạo thống trị trong xã hội. Có lẽ vậy mà chế độ quân chủ quan liêu mà nhà Hồ thiết lập trước đó vẫn chưa có được cơ sở vững chắc để được xác lập và phát triển. Chính những điều này đã đưa ra yêu cầu phải có  một người đủ năng lực đứng ra để canh tân đất nước, cải cách quốc gia không chỉ trên phương diện chính trị mà còn cả trong lĩnh vực kinh tế- xã hội đương thời. Và cuộc cải cách của Lê Thánh Tông cuối TK XV là một trong những cuộc cải cách đáng để ta khai thác và tìm hiểu.

Lê Thánh Tông húy là Tư Thành, sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 144, là con thứ của vua Lê Thái Tông và Ngô Thị Ngọc Dao. Năm 1445, vua Lê Nhân Tông phong ông làm Bình nguyên vương. Năm 1460, Nguyễn Xí cầm đầu các quan và tướng sĩ trung thành với nhà Lê lật đổ Nghi Dân, đưa Tư Thành lên ngôi vua, lúc ấy, ông 18 tuổi. Với 38 năm nắm giữ ngôi vua (1460-1497), Lê Thánh Tông đã thi hành hàng loạt các quyết sách để đưa đất nước hưng thịnh trở lại, thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của xã hội đương thời.

Với nhu cầu thu góp quyền hành cao nhất về tay vua, ổn định chính trị, an dân đời sống, Lê Thánh Tông thi hành hàng loạt các quyết sách đầu tiên. Ông bãi bỏ cơ quan và quan chức trung gian giữa vua và cùng các bộ phận thừa hành đó là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật viện cùng các quan chức cấp cao như Tể tướng, Đại hành khiển, tả, hữu Bộc xã… Kể từ đó, quyền hành tập trung cao nhất ở tay vua, vua nắm về cả quân sự lẫn chính trị và cả về việc quan hệ với các cơ  quan thừa hành. Trợ giúp cho ông trong những lúc cấp thiết có các chức quan như Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu bảo,…

Quản lý nhà nước ở Trung ương gồm 6 bộ (Lại, Lễ, Binh. Hình, Công, Hộ) phụ trách các công việc khác nhau của nhà nước. Có nhiệm vụ trợ giúp cho 6 bộ là 6 tự. Đứng đầu mỗi bộ là chức Thượng thư chịu trách nhiệm trực tiếp với vua về các hoạt động, sai phạm, có công với bộ mà mình phụ trách. Nhằm tăng cường quản lý hoạt động của các quan lại ở 6 bộ (ngoài Ngự sử đài), Lê Thánh Tông đăth thêm 6 khoa; mỗi khoa sẽ ứng với một bộ để theo dõi, giám sát các hoạt động của hệ thống quan chức bộ đó.

Ngoài ra, Lê Thánh Tông còn sắp xếp lại hệ thống hành chính từ cấp trung gian đến làng xã theo cải cách của mình. Năm 1466, Lê Thánh Tông bãi bỏ đơn vị trung gian lớn là 5 đạo, chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Tường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, phủ Trung Đô). Đến năm 1471, Lê Thánh Tông đặt thêm thừa tuyên thứ 13- Quảng Nam. Dưới mỗi thừa tuyên là phủ, châu, huyện, xã; bỏ đơn vị trấn và lộ, đổi lộ làm phủ, trấn làm châu.

Thay đổi một số mặt trong bộ máy các cấp cũng là một trong những chính sách cải cách của Lê Thánh Tông. Về mỗi đạo thừa tuyên, đều có 3 ti ngang quyền quyền nhau, cùng nhau quản lí công việc chung. Đô tổng binh sứ ti (Đô ti) quản lý về quân sự; Thừa tuyên sứ ti (Thừa ti) quản lý về trông coi mặt dân sự; Hiến sát sứ ti (Hiến ti) quản lý về thanh tra công việc của quan lại ở địa phương mình, xem xét đời sống nhân dân mình và những ti ấy sẽ chịu trách nhiêm trực tiếp với triều đình theo hệ thống dọc. Đứng đầu mỗi phủ có Tri phủ, đứng đầu mỗi huyện là Tri huyện, chức xã quan đổi thành xã  trưởng. Xã ở thời của Lê Thánh Tông được phân làm 4 nhóm theo số lượng dân cư: đại xã gồm 500 hộ dân trở lên với 5 xã trưởng; trung xã gồm từ 300 hộ đến dưới 500 hộ với 4 xã trưởng; tiểu xã gồm 100 hộ đến dưới 300 hộ với 2 xã trưởng; dưới 60 hộ có 1 xã trưởng riêng. Ở phủ Trung đô, quan quản lý ở đó gọi là Phủ doãn, Thiếu doãn và Thị lang. Đứng đầu mỗi châu gọi là chức Tri châu.

Vua Lê Thánh Tông chủ trương sử dụng người ngoại tộc để trao các chức quan trong triều. Người được tiến thân vào cung nắm giữ các chức phải được thông qua khoa cử, không phân biệt xuất thân từ đâu. Bãi bỏ phương thức tuyển dụng các vương hầu hay quý tộc  vào các chức quan cao cấp. Thân vương hay công hầu được ban cho bổng lộc, hưởng nhiều quyết sách nhưng nếu như không có tài năng, không đỗ đạt  thì việc tiến thân sẽ bị ảnh hưởng, không được làm quan. Ở địa phương, quan lại từ cấp đạo thừa tuyên đến cấp xã cũng phải có  trình độ học vấn nhất định mới được bổ dụng và các chức quan. Cấp châu, huyện phải là những người đã “có chân thi thi Tiến sĩ đỗ tam trường”, cấp xã phải xét đến những người biết chữ, có tài cán mới được bổ nhiệm. Nếu không biết chữ phải cho nghỉ ngay.

Trong việc sử dụng, thăng, giáng chức đề được căn cứ và  thực hiện theo những tiêu chí cụ thể về năng lực và phẩm chất. Cơ sở để thăng hay giáng chức gọi là khảo khóa; Lê Thánh Tông đã quy định về khảo khóa (tiến hành kiểm tra tiêu chuẩn, tài năng, đức độ, công, tội của các quan chức theo định kỳ nhất định) cứ 3 xét sơ khảo, 3 năm tiếp theo xét lần thứ hai, 3 năm cuối cùng (tất cả đủ 9 năm) chúng khảo để ra quyết định thăng, chuyển ngạch hay giáng chức, xuống ngạch.

Bấy giờ, thưởng phạt dưới thời vua Lê Thánh Tông cũng được kiểm soát rất nghiêm ngặt. Cho dù có là quan văn võ cao cấp ở triều đình, họ nội- ngoai của vua hay cháu con của khai quốc công thần cũng đều phải theo lệ khảo khóa xem xét có xứng chức và đủ thời gian mới được thăng thưởng (hàng nhất- nhị phẩm) và phải qua bộ Lại kiểm tra rồi mới được tâu lên vua, vua xem xét rồi mới xuống chỉ cho thi hành. Riêng có trường hợp “con nhà dân do chân trắng hoặc lấy chiến công mà làm việc đủ niên hạn và xứng chức, lệ được thăng cấp, chỉ cho thăng tam phẩm trở xuống; nếu trong 9 năm đã do công khác thăng cấp rồi, mà thông khảo lại xứng chức nên thăng đến nhị phẩm trở lên thì Lại bộ tâu lên vua, tam phẩm trở xuống thì cứ theo lệ thi hành. Người nào có biệt tài, được đặc chỉ thăng bổ, thì không cứ lệ ấy”. Quan lại xuất thân từ con em bình dân, cứ dựa vào tài đức và quân công, thông qua chế độ khảo khóa để xác nhận và thăng bổ đến cao cấp.

Năm 1466, vua Lê Thánh Tông bắt đầu công cuộc cải cách về quân sự. Quân đội thời này được chia làm 2 loại: Quân thường trực bảo vệ kinh thành (cấm binh hay thân binh) và quân ở các đạo (ngoại binh). Cứ mỗi đạo như thế, ông chia làm 5 phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ gồm 5-6 sở. Mỗi phủ do một Đô đốc phủ thống suất. Thân binh chia làm nhiều vệ, dưới vệ có sở hoặc ti. Lê Thánh Tông đổi mới tổ chức cấm quân, bãi bỏ chế độ quân thiệt đột có từ thời vua Thái Tổ, đặt ở kinh thành 2 vệ quân kim ngô và Cẩm Y; 4 vệ hiệu lực; 4 vệ thần vũ; 6 vệ điện tiền; 5 vệ tuần tượng và 4 vệ mãn nhàn. Tổ chức xây dựng quân điện tiền thường xuyên canh gác để thay cho lực lượng quân thiết đột. Đến thời kỳ này, không còn vương quân hay hầu hay sương quân như trước, vua Lê bãi bỏ chế độ quân 5 đạo của thời Thái Tổ đến đời Nghi Dân trước đó.

Binh chế thời vua Lê năm 1467, quân ở Kinh được phiên chế thành các ti, vệ, sở, đội. Mỗi ti có 100 người; mỗi vệ có từ 5-6 sở; mỗi sở có 20 đội; mỗi đội có 20 người. Tất cả có khoảng 66 ti, 300 sở, 120.000 quân. Quân ngũ phủ có 30 vệ, 154 sở, 61.000 người. Ở địa phương có 27 vệ, 257 sở, 137.000 người. Tổng cộng quân số vào khoảng 317.000 người. Lê Thánh Tông thực hiện thi sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội; từ đó chia cả quân đội thành 2-3 phiên; cứ theo vậy định kỳ có một phiên túc trực và luyện võ, còn lại trở về sản xuất nâng cao kinh tế.

Quân đội nhà Lê gồm thủy binh, bộ binh, tượng binh và kỵ binh; có các đơn vị dùng sung lửa (hỏa đồng). Năm 1465, triều đình ban bố 31 điều quân lệnh về thủy trận, 32 điều về tượng trận, 27 điều về mã trận, 42 điều về bộ trận. Năm 1467, quy định 3 năm mở một kỳ thi võ để khuyến khích quân sĩ chăm lo luyện tập. Nhờ vậy mà quân đội thời vua Lê Thánh Tông có trình độ kĩ thuật và tác chiến khá cao so với đương thời.

Lê Thánh Tông thi hành chính sách ban phát ruộng lộc cho giới quý tộc, quan lại (chế độ lộc điền). Đến năm 1477, mới quy định về chế độ lộc điền và ban hành trong cả nước. Ruộng đất ban cấp chủ yếu là  ruộng đất công làng xã và lộc điền gồm 2 loại: một loại cấp vĩnh viễn (ruộng đất thế nghiệp) và một loại cấp tạm thời trong một đời (sau khi chết 3 năm phải hoàn lại cho Nhà nước). Cũng theo quy định này, tổng diện tích đất cấp cho thân vương là 2090 mẫu trong đó có 640 mẫu cấp vĩnh viễn, tòng Tứ phẩm được cấp 39 mẫu. Đây là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô do nhà Lê đưa ra để góp phần tăng ưu đãi cho giới quý tộc quan lại cấp cao, từ đó biến họ thành những tên địa chủ lớn.

-Ngoài chính sách lộc điền, năm 1477, Lê Thánh Tông chính thức ban hành chính sách quân điền (trước đó đã được thực hiện lẻ tẻ ở đời Thái Tổ, Thái Tông) và đến năm 1481 thì được thực hiện thống nhất trên quy mô cả nước và thực hiện theo những nguyên tắc:

Mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được  chia ruộng đất công. Gia đình nào đã có ruộng đất riêng đầy đủ thì không được cấp.

Ruộng đất xã nào thì chia dân xã ấy, xã nào ruộng nhiều mà người ít thì cho phép lấy bớt ruộng đất xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều. Dân trong xã tùy vào xuất thân mà được cấp đất khác nhau; quan tam phẩm 11 phần; ngũ phẩm được 9,5 phần,… cô nhi quả phụ thì 3 phần.

 Ruộng công làng xã cứ 6 năm thì chia lại 1 lần. Ai tham gia cày cấy ruộng công đều phải nộp tô cho nhà nước; riêng quan lại từ hạng tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên không phải nộp tô. 

-Chính sách khẩn hoang và đồn điền để phục hồi nền nông nghiệp sau chiến tranh cũng được nhà Lê sơ chú trọng nhưng phải đến đời vua Lê Thánh Tông thì quyết sách này lại được đề cao hơn trong tất cả đời vua của thời Lê sơ. Khuyến khích nhân dân ở các làng xã chủ trương khai hoang mở đất lập làng được vua Lê rất chú trọng. Theo một số tài liệu ghi rằng điều 349 của Luật Hồng Đức quy định việc khai hoang hết diện tích cày cấy thành pháp lệnh của Nhà nước. Theo đây, vua Lê Thánh Tông đã xuống nhiều chỉ dụ để thúc đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang, lập làng và theo đó cũng hợp pháp hóa việc khai hoang ấy.

Cùng với khai hoang mở đất, Vua Lê Thánh Tông cũng chú trọng chính sách việc khai hoang lập đồn điền. Từ đó, nhiều sở đồn điền được thành lập để chuyên lo mộ dân lưu von khẩn hoang. Vua Lê cũng nêu rõ mục đích việc khai hoang lập đồn điền là để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho đất nước. Với việc khai hoang ấy, sẽ do lực lượng quân lính đồn trú, tù binh và tội nhân. Lê Thánh Tông đặt ra các cơ quan chuyên trách do các chức quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách.  Theo Thiên Nam dư hạ tập, bấy giờ cả nước có tất cả 43 sở đồn điền (Bắc Bộ có 30 sở, Tung Bộ có 13 sở)

Từ thời vua Lê Thái Tổ đã biết đề cao việc xây dựng pháp quyền, bàn với các quan đại thần về những luật lệ kiện tụng và phân chia ruộng đất công làng xã. Đến thời Thái Tông thì xây dựng thêm một số pháp chế về xử lý kiện tụng và đề ra luật nghiêm cấm việc hối lộ. Thời Nhân Tông ban hành liên tiếp các điều luật về quyền thừa kế ruộng đất, quyền lợi và nhiệm vụ của quan lại, quân lính cùng với việc bảo vệ thiết chế quân chủ.

Nhưng đến thời vua Lê Thánh Tông, năm 1483, ông đã triệu tập các quan đại thần để tập hợp toàn bộ những điều luật trước đó của các vua Lê, tham khảo pháp luật thời Lý- Trần cùng với tình hình đất nước đương thời mà soạn thành một bộ luật mới. Đó là Luật Hồng Đức  hay Lê triều hình luật ; bộ luật này gồm 722 điều, luật, chia làm 6 quyển, 16 chương.

+ Quyển 1 có 2 chương: Danh lệ (49 điều), Cấm vệ (47 điều)

+ Quyển 2 có 2 chương: Chức chế (144 điều), Quân chính (43 điều)

+ Quyển 3 có 6 chương: Hộ hôn (58 điều), Điền sản (32 điều), Điền sản mới (14 điều), Điền sản tăng bổ (4 điều), Xem xét định lại và tăng bổ bộ luật Hương hỏa (9 điều), Thông gian (10 điều)

+ Quyển 4 có 2 chương: Đạo tặc (54 điều), Đấu tụng (50 điều)

+ Quyển 5 có 2 chương: Trá nguỵ (38 điều), Tạp luật (92 điều)

+ Quyển 6 có 2 chương: Bộ vong (13 điều), Đoản ngục (65 điều)

Với sự đặc sắc mà bộ luật này mang lại, Giáo sư Oliver Oldman, chủ nhiệm khoa Luật Đông Á, thuộc trường Luật Đại học Harward, đã đánh giá: “Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ vùng đại Đông Á truyền thống. Nếu ở ngày nay chúng ta được chứng kiến ở nước Trung Hoa một cuộc đấu tranh nhằm từ bỏ sự vô tổ chức sau cách mạng văn hóa và đi tới soạn thảo luật pháp nhằm hiện đại hóa đất nước, thì chúng ta thấy triều đại nhà Lê ở Việt Nam vào những thế kỷ đặc sắc của mình đã nỗ lực xây dựng một quốc gia dân tộc vững mạnh như thế nào để bảo vệ quyền tư hữu hợp pháp của con người thông qua một hệ thống pháp luật tiến bộ, trong đó, có nhiều điều đã có thể so sánh ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật phương Tây cận hiện đại”

Như ta biết, những cải cách của Hồ Qúy Ly nhằm xây dựng thiết chế quân chủ quan liêu đã nhanh chóng đi vào suy tàn với sự sụp đổ của nhà Hồ. Thiết  chế chính trị như thế chưa rõ ràng và bộc lộ ra nhiều điều chưa hoàn chỉnh và tính phân tán còn cao. Và sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, ông đã nhận ra được những điều ấy và tiến hành công cuộc canh tân đất nước trong bối cảnh đó.

Lê Thánh Tông đã góp phần xây dựng thiết chế chính trị thống nhất từ Trung ương đến địa phương, từ trên xuống dưới, bãi bỏ những chức quan làm giảm quyền hành của nhà vua, tập trung quyền hành tối cao vào tay vua. Nhờ vậy mà bộ máy dưới thời vua Lê Thánh Tông đã gọn gang và chặt chẽ hơn nhiều; được đánh giá là mô hình tiên tiến nhất của chế độ quân chủ phong kiến tập quyền đương thơi, là một biểu hiện cho sự xác lập chế độ quân chủ quan liêu nước ta lúc bấy giờ.

Quan lại được tiến cử cũng được thông qua thi cử và ông cũng bãi bỏ chế độ bổ dụng người trong hoàng tộc. Vua Lê còn đặt ra các chế độ xem xét quan lại để thăng- giáng chức, cũng là một phương pháp có hiệu quả để quản lý hoạt động của các quan lại. Thưởng phạt phân minh cũng được vua Lê Thánh Tông đề cao; điều này giúp cho hệ thống bộ máy nhà nước có được những vị quan tài giỏi và anh minh; loại bỏ những tham quan, những người không tài, không đức.

Quân sự được ông cải cách theo hướng tăng cường quyền lực ở Trung ương, hạn chế lại quyền lực tại địa phương. Xây dựng lực lượng quân đội cùng với việc tăng cường xây dựng phòng thủ đất nước, bảo vệ triều đình của nhà Lê. Chưa dừng lại ở việc dần hoàn thiện cơ cấu tổ chức của quân đội, vua Lê Thánh Tông cũng tiến hành canh tân về mặt quân sự cũng như quốc phòng nhằm phát huy được sức mạnh của quân đội, đồng thời cũng có thể phát triển kinh tế nông nghiệp vốn đang hiện hữu và trở thành nguồn kinh tế chính của dân tộc. Do đó, bộ máy cơ cấu quân đội dưới thời vua Lê đã hoàn chỉnh; vừa có quân ở triều đình và quân ở địa phương. Lực lượng quân đội bảo vệ thường trực mạnh mẽ cùng với lực lượng dự bị đông đảo có thể điều đi bất cứ lúc nào có hiệu lệnh phát quân.

Những chính sách, chế độ do vua Lê Thánh Tông đề ra cũng góp phần vào sự thành công của những cải cách do ông đề xướng. Với chế độ lộc điền, ông đã biến những tầng lớp quan lại, quý tộc dần trở thành những tên địa chủ lớn; góp phần vào sự thúc đẩy phát triển tư hữu ruộng đất cũng như dần xác lập nên mối quan hệ của địa chủ- tá điền trong xã hội nhà Lê. Chế độ lộc điền đã đánh một đòn vào chế đọ chiếm hữu ruộng đất của làng, xã, góp phần khẳng định sự sở hữu tối cao của nhà nước về ruộng đất.

Cùng với chế độ lộc điền, chính sách quan điền cũng chi phối quyền phân phong ruộng đất của làng xã theo tục lệ, theo đó làng xã phải tuân thủ theo quy định của nhà nước về việc phân phong và hưởng thụ đất công chặt chẽ từ Nhà nước. Điều này làm giảm quyền hành của làng xã, buộc họ không được mua bán, chuyển nhượng đất công mà quyền đó sẽ thuộc về Triều đình. Và nhờ đó nhà nước trở thành nơi tối cao về ruộng đất và nông dân trở thành lực lượng tá điền cho nhà nước trong khi làng xã lại bị biến thành những người quản lý ruộng đất cho nhà nước.

Góp phần không nhỏ vào việc thành công không thể không nhắc đến chính sách khẩn hoang và đồn điền do Lê Thánh Tông thúc đẩy mạnh dưới thời kỳ cai trị của ông. Những chính sách khẩn hoang và đồn điền giúp diện tích đất canh tác mỗi lúc một mở rộng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển; diện tích sản xuất ngày một tăng cao; tăng thêm nguồn lợi về kinh tế cho đất nước, phục hồi ngân sách nhanh chóng. Với chính sách này, Lê Thánh Tông đã thúc đẩy sự phát triển tự nhiên tích cực đến việc mở rộng diện tích sản xuất và phát triển nhanh chóng về nền kinh tế nông nghiệp vốn đang là chỗ dựa cho Đại Việt đương thời.

Với sự hoàn thiện của bộ Luật Hồng Đức, chúng ta có thể thấy Lê Thánh Tông đã biết kết hợp giữa tư pháp, hành pháp và lập pháp; để công bằng với mọi người khi phạm tội hoặc có chiến công. Dung hòa mâu thuẫn xã hội, khi đó, mọi người đều được bình đẳng và có quyền lợi ngang nhau. Bộ luật này cũng là cơ sở để nhà nước bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của mình; bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến đang càng ngày một tăng lên; củng cố trật tự xã hội phong kiến, thiết lập sự bảo vệ cho chế độ phụ quyền và các chuẩn mực đạo đức xã hội cũng được đề cao theo Nho giáo. Tuy thời kỳ này, nhà nước đi theo thiết chế phụ quyền nhưng vẫn có những điều luật bảo vệ cho quyền lợi của người phụ nữ; nó thể hiện phần nào tính dân tộc, sự dung hòa giới cũng như tiến bộ của bộ luật đầu tiên này. Không những thế, luật pháp thời Lê Thánh Tông đã hạn chế và thu nhỏ quyền cai trị độc lập của làng xã, tăng cường sự lệ thuộc của họ vào chính quyền Trung ương; từ đó thiết chế quân chủ quan liêu cũng ngày càng được củng cố và phát triển.

Thấy rõ nhất trong lối cải cách này của vua Lê Thánh Tông là sự ưu đãi đặc biệt cho lực lượng quý tộc và quan lại khi bổng lộc của hai tầng lớp này luôn được đề cao. Trong khi đời sống nhân dân vẫn còn không quá giàu có thì số sưu thuế vẫn chưa được nhà vua quan tâm cho lắm. Với những chính sách như chế độ lộc điền, chế độ quân điền, xã hội đã được phân hóa rõ ràng với hai giai tầng khá nét là địa chủ- tá điền. Với những chính sách như thế này, tồn tại trong nó những hạn chế nhất định khi vẫn còn mang tính giai cấp khá nan giải. Trói buộc nhân dân vào sưu thuế để phục vụ cho nhà nước trong khi nền kinh tế nông nghiệp lại là phương diện để tạo sự phát triển cho nền sản xuất hàng hóa. Việc đề cao Nho giáo cũng là một trong những hạn chế của cải cách này khi ông đã quá phụ thuộc vào Nho giáo và xem nó là chuẩn mực đạo đức phong kiến đương thời; không thể nói Nho giáo là không phù hợp nhưng rõ ràng việc quá tôn sùng là việc không nên và chúng ta cần thoát khỏi nó. 

Hơn hết, tầng lớp quý tộc quan liêu lại được đề cao và coi là cao nhất trong xã hội; họ được sủng ái khá nhiều và được rất nhiều bổng lộc khác nhau. Họ được hưởng những đặc quyền mà chỉ có tầng lớp này mới có thể đạt được. Họ được phép mặc những bộ trang phục, ở những ngôi nhà, sử dụng đồ đạc mà chỉ có họ mới có thể được phép dùng, còn dân thường không được phép. Trong lúc đó, nô tì lại bị đè bẹp và xem như là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội đương thời; họ bị xem như là những “đồ dùng” và không được coi là thần dân của Nhà nước. Nô tì chỉ cần chống lại gia chủ của mình thì coi như phạm tội là bị tử hình là điều không thể tránh khỏi. Có thể thấy, tồn tại trong xã hội lúc bấy giờ là vấn đề giai cấp khá rõ nét. Những cải cách và quyết sách do Lê Thánh Tông đề ra mang trong nó những tồn tại, hạn chế nhất định khi ông còn khá bảo vệ cho quyền lợi của nhà nước và mang tính giai cấp khá rõ ràng. 

Có thể thấy, triều đại nào, thời đại nào cũng sẽ phải gặp những khó khăn nhất định. Nhưng từ trong những khó khăn ấy, mới xuất hiện những nhà canh tân lỗi lạc và tiến bộ. Mặc dù vẫn mắc những sai lầm, hạn chế không đáng có nhưng họ là những người tiên phong cho công cuộc canh tân đất nước khi gặp khó khăn. Trên đây là 3 trong số những nhà cải cách đáng chú ý trong thời cổ trung đại của lịch sử Việt Nam. Họ là những nhà canh tân có tầm nhìn, có sức vóc, có tài năng của lịch sử dân tộc ta. Dù là Khúc Hạo hay Hồ Qúy Ly hay Lê Thánh Tông và sau là nhiều nhà cải cách khác thì họ vẫn là những bậc thầy đáng để chúng ta học hỏi và noi gương theo tinh thần anh dũng của họ; họ đã nhận thấy những bất cập trong xã hội và tiến hành đổi mới đất nước trên nhiều phương diện đời sống, xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự. Thời gian nối tiếp thời gian, những nhà cải cách sau học hỏi và rút kinh nghiệm từ những sai lầm cũng như thành công của những người đi trước để góp phần vào công cuộc canh tân của mình. Trên hết, chúng ta nhận thấy ở đây tinh thần dân tộc và lòng tự tôn rất cao của các nhà cải cách ấy; họ là những người đặt nền móng cho sự thay đổi lúc đất nước cần. Không những có sức thay đổi ở đương thời mà những cải cách, quyết sách của họ vẫn còn giá trị cho đến thời nay. Rõ ràng, chúng ta sẽ phải học hỏi những vị tiền bối ấy rất nhiều khi ở thời đại ấy, họ đã có những tư duy khá tiến bộ và sắc sảo. Đất nước dẫu có khó khăn nhưng những chính sách, quyết định của họ đã đưa dân tộc lên vùng có ánh sáng mới, thay đổi cục diện xã hội đương thời.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] //vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFc_thu%E1%BB%99c#Bắc_thuộc_lần_thứ_nhất

[2] Nguyễn Cảnh Minh (2009), Một số chuyên đề lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản đại học sư phạm, trang 66

[3] Nguyễn Quang Ngọc (2007), Tiến trình lịch sử Việt Nam ,  Nhà xuất bản giáo dục, trang 58

 [4] Ngô Sĩ Liên (1998),  Đại Việt sử ký toàn thư (tập 1), Nhà xuất bản khoa học xã hội, trang 121

[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục (tập 1), Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, trang 639

 [6] Nguyễn Cảnh Minh, Đào Tố Uyên (2009), Một số chuyên đề lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản đại học sư phạm, trang 72

[7] Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Nguyễn Cảnh Minh, Phan Đại Doãn, Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1) , Nhà xuất bản giáo dục, trang 254

Video liên quan

Chủ đề