Cuộc cách mạng tân hợi có ảnh hưởng nhất định đến phong trào giải phóng dân tộc ở hồ chí minh, thành phố hồ chí minh

Mục lục

Bối cảnhSửa đổi

Từ Hi Thái hậu (1835–1908), là hiện thân phe bảo thủ trong triều đình nhà Thanh, bà nắm quyền lực triều chính trong vòng 47 năm, và đã ngăn chặn nỗ lực Bách nhật duy tân của vua Quang Tự (1871–1908).
Sau thất bại Bách nhật duy tân năm 1898, cố vấn vua Quang Tự là Khang Hữu Vi (trái, 1858–1927) và Lương Khải Siêu (1873–1929) đã đi lưu vong, trong khi Đàm Tự Đồng (phải, 1865–1898) bị xử tử. Tại Canada, Khang và Lương thành lập Bảo Hoàng Hội (保皇會) để thúc đẩy chế độ quân chủ lập hiến tại Trung Quốc. Năm 1900, hội ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền trung Trung Quốc để giải cứu Quang Tự, và sau đó bị chính quyền Bắc Kinh đàn áp. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911-1912, Lương trở thành Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Hoa Dân Quốc. Khang vẫn tiếp tục ủng hộ bảo hoàng và hỗ trợ phục vị hoàng đế Trung Hoa (Đại Thanh) cho Thanh Đế cuối cùng Phổ Nghi năm 1917 trước khi bị lật đổ trở lại bởi sự phản đối gay gắt của các thế lực quân phiệt cùng toàn bộ nhân dân Trung Quốc.

Sau thất bại đầu tiên trước phương Tây trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất năm 1842, triều đình nhà Thanh đã nỗ lực ngăn chặn sự xâm phạm của người nước ngoài vào Trung Quốc. Những nỗ lực cải cách và điều chỉnh miễn cưỡng sự quản lý truyền thống đã bị triều đình cực bảo thủ ngăn chặn, vốn không muốn có quá nhiều quyền lực bị thay đổi. Sau thất bại Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai năm 1860, nhà Thanh đã cố gắng hiện đại hóa bằng cách áp dụng một số công nghệ phương Tây thông qua Phong trào Tự cường (洋務運動) từ năm 1861.[4] Trong các cuộc chiến chống Thái Bình Thiên Quốc (1851–64), Niệp (1851–68), Vân Nam (1856–68) và Tây Bắc (1862–77), quân đội đế quốc truyền thống tỏ ra thiếu khả năng và triều đình đã dựa vào quân đội địa phương.[5] Năm 1895, Trung Quốc phải chịu một thất bại khác trong Chiến tranh Thanh-Nhật.[6] Điều này chứng tỏ rằng xã hội phong kiến ​​truyền thống Trung Quốc cũng cần phải được hiện đại hóa nếu những tiến bộ công nghệ và thương mại thành công.

Năm 1898 vua Quang Tự được các nhà cải cách lúc đó như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cho một cuộc cải cách mạnh mẽ trong giáo dục, quân sự và kinh tế theo Bách nhật duy tân.[6] Cuộc cải cách đột ngột bị ngăn chặn bởi phe bảo thủ do Từ Hi Thái hậu lãnh đạo.[7] Vua Quang Tự, là con rối phụ thuộc vào Từ Hi, bị trục xuất khỏi cung và quản thúc tháng 6/1898.[5] Các nhà cải cách Khang và Lương buộc phải sống lưu vong. Khi ở Canada, vào tháng 6 năm 1899, họ đã cố gắng thành lập Bảo Hoàng Hội trong nỗ lực phục vị hoàng đế.[5] Từ Hi Thái hậu là người kiểm soát chính nhà Thanh từ thời điểm này. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn thúc đẩy Liên quân bát quốc tấn công Bắc Kinh năm 1900 và sự áp đặt các hiệp ước bất bình đẳng, chia cắt hầu hết lãnh thổ, tạo ra các tô giới và đặc quyền thương mại. Dưới áp lực bên trong và bên ngoài, triều đình nhà Thanh bắt đầu áp dụng một số cải cách. Nhà Thanh quản lý để duy trì sự độc tài trong quyền lực chính trị bằng các cuộc đàn áp, thường rất tàn bạo, với tất cả các cuộc nổi loạn trong nước. Những người bất đồng chính kiến ​​chỉ có thể hoạt động trong các đoàn thể bí mật và các tổ chức ngầm, trong các tô giới hoặc lưu vong ở nước ngoài.

Theo suy nghĩ của những người Hán đương thời (tuyệt đại đa số người Trung Quốc), thì nhà Thanh là một chính quyền do ngoại tộc (Mãn Châu) làm chủ từ năm 1644, vừa hèn yếu thối nát, vừa ngăn trở đất nước phát triển theo đường lối tư bản.

Tổ chức Cách mạngSửa đổi

Giai đoạn đầuSửa đổi

Có nhiều nhà cách mạng và các nhóm muốn lật đổ chính quyền nhà Thanh để tái lập chính quyền do người Hán lãnh đạo. Các tổ chức cách mạng đầu tiên được thành lập bên ngoài Trung Quốc, như Phụ Nhân Văn xã (輔仁文社) do Dương Cù Vân, thành lập tại Hồng Kông năm 1890. Văn xã gồm 15 thành viên, bao gồm Tạ Toản Thái, người đã châm biếm chính trị "Tình hình Viễn Đông", một mạn họa đầu tiên của Trung Quốc, và sau này trở thành một trong những người sáng lập cốt lõi của Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (南華早報).[8]

Tôn Dật Tiên tại Luân Đôn

Tôn Dật Tiên thành lập Hưng Trung Hội (興中會) tại Honolulu năm 1894 với mục đích chính là gây quỹ cho các cuộc cách mạng.[9] Hai tổ chức đã sát nhập năm 1894.[10]

Các nhóm nhỏSửa đổi

Hoa hưng Hội được thành lập năm 1904 với các nhân vật nổi tiếng như Hoàng Hưng, Chương Sĩ Chiêu, Trần Thiên Hoa và Tống Giáo Nhân, cùng hơn 100 người khác. Hội có khẩu hiệu là "Chiếm cứ một tỉnh, các tỉnh khác hưởng ứng"nhằm đánh đổ Mãn Thanh vốn cướp nước của người Hán từ 1644 đến lúc đó nên mục tiêu là quét sạch phong kiến quân chủ Mãn Châu để đi thành lập 1 nền Cộng hòa dân quốc Trung Hoa cho người Hán (雄踞一省,与各省纷起).[11]

Quang phục Hội (光復會) thành lập năm 1904, tại Thượng Hải, bởi Thái Nguyên Bồi. Các nhân vật nổi tiếng gồm Chương Bỉnh Lân và Đào Thành Chương.[12] Mặc dù tuyên bố phản Thanh, Quang phục Hội rất phê phán Tôn Dật Tiên.[13] Một trong những nhà cách mạng nữ nổi tiếng nhất là Thu Cẩn, người đấu tranh cho quyền của phụ nữ và cũng đến từ Quang phục hội.[13]

Ngoài ra còn có nhiều tổ chức cách mạng nhỏ khác, như Lệ Trí Học hội (勵志學會) tại Giang Tô, Công Cường hội (公強會) tại Tứ Xuyên, Ích Văn hội (益聞會) và Hán tộc Độc lập hội (漢族獨立會) tại Phúc Kiến, Dị Tri xã (易知社) tại Giang Tây, Nhạc Vương hội (岳王會) tại An Huy và Quần Trí hội (群智會/群智社) tại Quảng Châu.[14]

Ngoài ra còn có các tổ chức vũ trang chống Mãn Châu, gồm Thanh bang (青帮) và Hồng môn Trí Công đường (致公堂).[15] Tôn Trung Sơn đã tiếp xúc với Hồng môn, còn được gọi Thiên Địa hội.[16][17]

Ca Lão hội (哥老會) là một tổ chức khác, với Chu Đức, Ngô Ngọc Chương, Lưu Chí Đan và Hạ Long. Đây là nhóm cách mạng cuối cùng phát triển thành đảng Cộng sản.

Tôn Dật Tiên với thành viên Đồng Minh hội

Đồng Minh hộiSửa đổi

Tôn Dật Tiên thống nhất thành công Hưng Trung Hội, Hoa hưng Hội và Quang Phục Hội vào mùa hè năm 1905, qua đó thành lập Đồng Minh Hội (同盟會) tháng 8/1905 tại Tokyo.[18] Cương lĩnh của Hội là "Đánh đuổi giặc Thát[19], khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ hợp quần". Khi thành lập Đồng Minh hội có 90% thành viên có độ tuổi từ 17 đến 26.[20] Một số tác phẩm trong thời đại bao gồm các ấn phẩm mạn họa, như Thời sự Họa báo (時事畫報).[21]

Theo sử liệu, thì Cách mạng Tân Hợi thành công không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc vận động cách mạng lâu dài và các cuộc nổi dậy trước đó, mà công đầu là Đồng Minh hội do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý.

Trước Cách mạng Tân HợiSửa đổi

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì trước khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, Tôn Dật Tiên và đảng cách mạng của ông đã tổ chức 10 cuộc khởi nghĩa chống Thanh nhưng đều bị thất bại. Điểm lược một vài vụ nổi bật:

Năm 1895, nhân lúc nhân dân cả nước căm giận nhà Thanh ký hiệp ước Mã Quan với Nhật Bản, ngày 26 tháng 10, Tôn Dật Tiên định tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu. Nhưng kế hoạch bị lộ, các đồng chí của ông bị giam và bị giết hơn 70 người, ông phải trốn sang Nhật Bản, rồi qua Honolulu. Đây là cuộc khởi nghĩa lần đầu của ông[22].

Tháng 11 năm 1899, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, Tôn Dật Tiên cùng với các đồng chí chạy thoát vội trở về nước, tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu lần thứ hai. Ông cử Trịnh Sĩ Lương đi đánh Huệ Châu (Quảng Đông), Sử Kiên Như đi ném tạc đạn giết Tổng đốc Đức Thọ. Nhưng cả hai việc đều thất bại. Sử Kiên Như tuẫn nạn và nhiều chiến sĩ cách mạng khác lại bị bắt giam và bị giết.

Ngày 18 tháng 9 năm 1905 tại Tokyo (Nhật Bản), Tôn Dật Tiên cùng Hoàng Hưng chủ trì việc hợp nhất Hưng Trung Hội với hai tổ chức cách mạng khác là Quang Phục hội và Hoa Trung hội. Kể từ đây, đảng vừa hợp nhất có tên là Trung Quốc Đồng Minh hội (gọi tắt là Đồng Minh hội), do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý[23]. Năm 1906, hai hội viên của Đồng Minh hội là Lưu Đạo Nhất và Thái Thiệu Nam tổ chức khởi nghĩa ở ba nơi là Bình Hương (Giang Tây), Trương Lăng [24] và Lưu Dương (Hồ Nam), nhưng tất cả đều thất bại.

Mùa thu năm 1907, Đồng Minh hội tổ chức khởi nghĩa ở Khâm Châu thuộc Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây). Chiếm được Phòng Thành, nhưng vì không có tiếp tế, phải rút vào Thập Vạn Đại Sơn[25]. Đến mùa đông năm ấy, quân cách mạng đánh chiếm Trấn Nam Quan[26], Khâm Châu, Liêm Châu (nay tên là Hợp Phố thuộc Quảng Tây), Thượng Tư (Quảng Tây), nhưng rồi cùng vì không có tiếp tế nên phải rút đi.

Năm 1908, quân cách mạng cùng dân địa phương khởi nghĩa ở Hà Khẩu (Vân Nam). Sau khi đánh thắng một trận lớn, quân và dân cùng tiến lên uy hiếp Mông Tự, nhưng rồi cũng phải rút đi vì không có tiếp tế. Mùa thu năm ấy, chi bộ Đồng Minh hội thành lập ở Hương Cảng (Hồng Kông). Năm 1910, tổ chức này cho người vận động lực lượng tân binh ở Quảng Đông nổi dậy, nhưng bị đàn áp ngay.

Tháng 4 năm 1911, Đồng Minh hội chọn 500 cảm tử quân, hợp với quân địa phương, đánh vào dinh Tổng đốc Quảng Châu. Cuộc đột kích này do Hoàng Hưng và Triệu Thanh chỉ huy, nổ ra ngày 27 tháng 4 năm 1911 (tức ngày 29 tháng 3 năm Tân Hợi). Tuy nhiên, do quân cảm tử và khí giới không đến cùng một lượt, và còn do bị lộ, nên số quân đánh vào dinh Tổng đốc phải tuẫn nạn nhiều. Sau tìm được 72 thi hài đem hợp táng tại Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu, và được người đời gọi là Thất thập nhị liệt sĩ [27]. Đây là lần khởi nghĩa thứ 10 do Đồng Minh hội tổ chức, trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa tự phát ở Vũ Xương.

Cũng trong khoảng thời gian này, việc nhà Thanh trao quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán cho Mỹ đã gây thêm một làn sóng căm phẫn trong nhân dân Trung Quốc. Khắp nơi, nổi lên phong trào đòi tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Thấy người dân chống đối quá, Mỹ đồng ý xóa điều ước với điều kiện Thanh đình phải bồi thường 6. 750.000 đô la. Vừa sợ đế quốc, vừa sợ nhân dân, Thanh đình sai Tổng đốc Lưỡng Hồ là Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.

Đến ngày 9 tháng 5 năm 1911, Thanh đình ra sắc lệnh "Quốc hữu hóa đường sắt" nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh cho bốn nước là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Lập tức lần lượt ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Châu, Tứ Xuyên...nhân dân nổi lên chống đối vì họ cho rằng Thanh đình đã bán rẻ quyền lợi dân tộc. Thanh đình bèn ra lệnh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí đưa tin, cấm bãi thị, bãi khóa, diễn thuyết và cho giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt...Tuy nhiên, bất chấp lệnh trên, bất chấp cả những lời lẽ can ngăn của phái quân chủ "lập hiến", phong trào chống đối vẫn lên cao, nhất là ở Tứ Xuyên[28].

Ngày 7 tháng 9 năm 1911, Tổng đốc Tứ Xuyên là Triệu Nhĩ Phong phái người đến mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh thương lượng, nhưng sau đó cho lính bắt tất cả. Thấy điều bạo ngược, hàng vạn người dân Thành Đô (tỉnh lỵ của tỉnh Tứ Xuyên) kéo đến dinh Tổng đốc đòi thả người, nhưng bị Triệu Nhĩ Phong ra lệnh nổ súng làm chết 32 người và làm bị thương nhiều người khác. Căm phẫn tột độ, phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn tỉnh Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô, buộc triều Thanh phải đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp.

Tổ chức khácSửa đổi

Tháng 2/1906 Nhật Tri hội (日知會) cũng gồm nhiều nhà cách mạng, như Tôn Vũ (孫武), Trương Hán Kiệt, Hà Quý Đạt và Chu Tử Long.[29][30] Những người tham gia hội sau đó trở thành nòng cốt thành lập Đồng Minh hội tại Hồ Bắc.

Trong tháng 7/1907 một số thành viên của Đồng Minh hội ở Tokyo đã ủng hộ một cuộc cách mạng ở khu vực sông Dương Tử. Lưu Quỹ Nhất (劉揆一), Tiêu Đạt Phong (焦達峰), Trương Bá Tường (張伯祥) và Tôn Vũ (孫武) thành lập Cộng Tiến hội (共進會).[31][32] Trong tháng 1/1911, tổ chức cách mạng Chấn Vũ học xã (振武學社) đổi tên thành Văn học xã (文學社).[33] Tưởng Dực Võ (蔣翊武) được chọn làm lãnh đạo.[34] Hai tổ chức này sau đó đóng góp vai trò quan trọng trong Cách mạng Vũ Xương.

Nhiều nhà cách mạng trẻ đã thông qua chương trình cấp tiến vô chính phủ. Tại Tokyo Lưu Sư Bồi (劉師培) đề xuất lật đổ chính quyền người Mãn và quay lại giá trị chính thống Trung Quốc. Tại Paris Lưu Sư Bồi, Ngô Trĩ Huy và Trương Nhân Kiệt tán thành với Tôn Vũ về sự cần thiết cách mạng và gia nhập Đồng Minh hội, nhưng lập luận rằng một sự thay thế chính trị của một chính phủ bằng một chính phủ khác sẽ không tiến bộ;cách mạng trong gia đình, giới tính và xã hội sẽ loại bỏ giá trị của chính quyền và sự áp bức. Trương Kế một người vô chính phủ cho rằng phương tiện cách mạng là bảo vệ ám sát và khủng bố, nhưng những người khác khẳng định rằng chỉ có giáo dục là chính đáng. Những người vô chính phủ quan trọng bao gồm Thái Nguyên Bồi, Uông Tinh Vệ và Trương Nhân Kiệt, là những người hỗ trợ tài chính cho Tôn Vũ. Nhiều người trong số những người vô chính phủ này sau đó sẽ đảm nhận các vị trí cao trong Quốc Dân Đảng (KMT).[35]

Tầm nhìnSửa đổi

Nhiều nhà cách mạng đẩy mạnh quan điểm phản Thanh/chống-Mãn và nhắc lại truyền thống lịch sử những cuộc chiến chống Mãn Châu với người Hán trong thời nhà Minh (1368–1644). Chủ đạo giới trí thức bị ảnh hưởng bởi những cuốn sách có từ thời cuối nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Năm 1904, Tôn Dật Tiên tuyên bố mục tiêu tổ chức là "đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, bình đẳng ruộng đất." (驅除韃虜, 恢復中華, 創立民國, 平均地權).[18] Nhiều tổ chức ngầm thúc đẩy ý tưởng "Phản Thanh phục Minh" (反清復明) đã có từ những ngày Thái bình Thiên quốc.[36] Những người khác như Chương Bỉnh Lân, hỗ trợ con đường "hưng Hán diệt Hồ" (興漢滅胡) và "chủ nghĩa bài Mãn" (排滿主義).[37]

Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng thời kỳ 1930-1945

(ĐCSVN) - Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thắng lợi vĩ đại, là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ (Ảnh tư liệu)

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta.

Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám. Quá trình hình thành đường lối chiến lược giải phóng dân tộc là quá trình vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX - một xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần túy biến thành một xã hội thuộc địa, dù tính chất phong kiến còn được duy trì một phần nhưng các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đều chuyển động trong quỹ đạo của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam thời kỳ này đã hình thành nên những mâu thuẫn giai cấp, dân tộc đan xen rất phức tạp.

Để hình thành đường lối cách mạng đúng đắn nghĩa là phải vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam để nhận thức đúng mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội Việt Nam, xác định đúng kẻ thù, quyết định nhiệm vụ chiến lược, các chủ trương chính sách để tập hợp lực lượng và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn. Do đó, quá trình hình thành đường lối cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 – 1945, Đảng ta đã trải qua quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường vừa trực tiếp tuyên truyền, giáo dục, vận động tổ chức quần chúng đấu tranh chống đế quốc thực dân, chống sưu cao thuế nặng, chống khủng bố dã man, vừa phát triển lực lượng bổ sung, tăng cường lãnh đạo các cấp của Đảng nhất là phải nhiều lần lập mới, bổ sung Ban chấp hành Trung ương của Đảng, vừa phải đẩy mạnh hoạt động “tự chỉ trích”, đấu tranh với tinh thần Bônsêvích để khắc phục những quan niệm cho rằng: Những nguyên lý về “giai cấp cách mạng” được coi như những giáo lý phải được tiếp thu vô điều kiện như chân lý bất biến khi vận dụng lý luận cách mạng vào điều kiện lịch sử cụ thể của xã hội thuộc địa Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh rất quyết liệt và phức tạp chống chủ nghĩa giáo điều, dập khuôn máy móc, chống chủ nghĩa chủ quan tách rời thực tiễn.

Sự lãnh đạo của Đảng ta đối với xã hội trước hết là bằng cương lĩnh, đường lối chính trị, mà theo nguyên tắc hoạt động của Đảng Cộng sản thì cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng phải do Đại hội – cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng quyết định. Trong thời kỳ 1930 – 1945 - thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng phải hoạt động bí mật là chủ yếu, chính quyền thực dân liên tục, điên cuồng đàn áp khủng bố các tổ chức của Đảng nhất là Ban chấp hành Trung ương phải lập đi lập lại nhiều lần, giao thông liên lạc thường bị gián đoạn cho nên trong thời kỳ này Đảng ta không thể tiến hành Đại hội thường kỳ như quy định của Điều lệ Đảng để có thể phát huy trí tuệ của toàn Đảng trong việc hình thành cương lĩnh, đường lối chính trị. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng 3/2/1930, trong thời kỳ này, Đảng ta chỉ tiến hành duy nhất Đại hội lần thứ I vào tháng 3/1935. Trong hoàn cảnh đó, Ban Chấp hành Trung ương có trọng trách vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào thực tiễn để hình thành, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua đã xác định: Đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành độc lập dân tộc. Do đó, trong chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt xác định nhiệm vụ chiến lược là “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; dựng ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông; thu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp vận tải, ngân hàng…) của tư bản chủ nghĩa đế quốc Pháp để giao cho chính phủ công nông quản lý; giao hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ; dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo công nông hóa.

Những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, đáp ứng khát vọng độc lập tự do của toàn đân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917), đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là: “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”[1]. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc. Vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.

Bảy tháng sau, tại Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương – thay cho Ban chấp hành Trung ương lâm thời, luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) được thay thế cho cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam lại nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”[2]. Luận cương xác định tính chất của cuộc cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân quyền” cho đây là: “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng: Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[3]. Luận cương đã quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa.

Đến tháng 12/1930, trong thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ, lại tiếp tục nhấn mạnh đấu tranh giai cấp và xác định: Địa chủ là “thù địch của dân cày, không kém gì đế quốc chủ nghĩa” “liên kết đế quốc chủ nghĩa mà bóc lột dân cày”[4]. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng” một bộ phận khác “kiếm cách thỏa hiệp với đế quốc” một bộ phận “ra mặt chống đế quốc” nhưng đến khi cách mạng phát triển “chúng sẽ theo phe đế quốc mà chống lại cách mạng”[5]. Trong thư này, Ban thường vụ Trung ương chủ trương: “Tiêu diệt địa chủ” “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông”[6]. Nhận thức không phù hợp với thực tiễn của xã hội thuộc địa Việt Nam và không phù hợp với chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc còn kéo dài gần 5 năm cho đến Đại hội đại biểu toàn Đảng lần thứ nhất (3/1935). Từ đây cùng với sự phát triển của thực tiễn đấu tranh cách mạng, thông qua thực hành nghiêm túc nguyên tắc “tự chỉ trích” (phê bình và tự phê) với tinh thần “tự chỉ trích Bônsêvích phải có nguyên tắc có kỷ luật, theo dân chủ tập trung và phải luôn luôn đặt quyền lợi uy tín Đảng lên trên hết. Không được lợi dụng tự chỉ trích mà gây mầm bè phái chống Đảng và làm rối loạn hàng ngũ Đảng” phải thông qua tự chỉ trích để tẩy trừ: “các khuynh hướng hữu khuynh tả khuynh, lối hành động cô độc biệt phái, quan liêu hủ bại… để Đảng luôn “xứng đáng đội quân tiên phong cách mệnh, lãnh tụ chính trị của giai cấp”[7]. Ban chấp hành Trung ương có bước tiến mạnh mẽ trong tư duy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc. Trong thư gửi các tổ chức Đảng ngày 26/7/1936, Ban Trung ương đã công khai phê phán những biểu hiện giáo điều trong phân tích đặc điểm giai cấp trong xã hội thuộc địa và cho rằng: “Ở một xứ thuộc địa như Đông Dương, trong hoàn cảnh hiện tại, nếu chỉ quan tâm đến cuộc đấu tranh giai cấp có thể sẽ nẩy sinh những khó khăn để mở rộng phong trào giải phóng dân tộc”[8]. Tháng 10/1936, Ban chỉ huy hải ngoại của Đảng ban hành văn bản: chung quanh vấn đề chính sách mới đã chỉ rõ: “cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa, nghĩa là không thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa; muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng… Nếu phát triển cuộc đấu tranh chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân (kẻ thù) chính, nguy hiểm nhất để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.

Từ nhận thức đúng đắn về mâu thuẫn cơ bản chủ yếu trong xã hội thuộc địa, về nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa, về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc, thực dân và chống phong kiến, mối quan hệ giữa chiến lược và sách lược, về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp… nên khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, Ban Trung ương Đảng, trong Hội nghị từ ngày 6, 7, 8 tháng 11 năm 1939 đã xác định: Toàn Đảng phải “đứng trên lập trường cách mệnh giải phóng dân tộc, sự điều hòa những cuộc đấu tranh của những giai cấp người bổn xứ đưa nó vào phong trào đấu tranh chung của dân tộc ta là nhiệm vụ cốt lõi.”. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 đã quyết định: “cuộc cách mệnh tư sản dân quyền do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện giải quyết: 1.Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội dân tộc. 2.Đông Dương hoàn toàn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết). 3.Lập chính phủ cộng hòa dân chủ. 4. Lập quốc dân cách mệnh quân. 5.Quốc hữu hóa những nhà băng, các cơ quan vận tải, giao thông các binh xưởng, các sản vật trên rừng, dưới biển và dưới đất. 6.Tịch ký và quốc hữu hóa tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc và bọn đế quốc thực dân và tài sản của bọn phản bội dân tộc, nhà máy giao thợ thuyền quản lý. 7.Tịch ký và quốc hữu hóa đất ruộng của đế quốc thực dân và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn phản bội, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân cày cấy. 8.Thi hành luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ cho các hầm mỏ. 9. Bỏ hết các thứ sưu thuế. 10.Thủ tiêu tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. 11.Ban hành các quyền tự do dân chủ, cả quyền nghiệp đoàn phổ thông đầu phiếu, những người công dân từ 18 tuổi trở lên, bất cứ đàn ông đàn bà nòi giống nào đều được quyền bầu cử, ứng cử. 12.Phổ thông giáo dục cường bách. 13.Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế và chính trị. 14.Mở rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao.v.v[9].

Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của V.Lênin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng – Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Chín tháng sau ngày thành lập, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương đã ban hành chỉ thị về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”. Trên cơ sở phân tích sâu sắc tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc, bản chỉ thị đã nhận định: “Cuộc cách mệnh tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công (Rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến tay sai phản động, hèn hạ; Kín là đặt để công nông trong bức tranh dân tộc phản đế bao la)[10]. Bản chỉ thị cũng phê phán những biểu hiện của quan điểm hẹp hòi, “tả” khuynh trong xây dựng, mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất nên “Tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông”, “Do thiếu một tổ chức thật quảng đại quần chúng hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên hay ở vào tầng lớp giữa và cho tới cả những người địa chủ có đầu óc oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp động viên toàn dân nhất tề hành động.”[11].

Vào năm 1936, trước nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, Đại hội VII, quốc tế cộng sản chủ trương tập hợp mọi lực lượng dân chủ hòa bình chống chế độ phản động, chống chủ nghĩa phát xít. Nhiều nước trên thế giới đã hình thành mặt trận dân tộc rộng rãi. Ở Pháp, năm 1935, mặt trận bình dân Pháp được thành lập và giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử và đứng ra thành lập chính phủ (5/1936). Thực hiện nghị quyết của quốc tế cộng sản, lợi dụng mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi ở Pháp, Đảng ta đã chủ trương mở rộng Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương nhằm tập hợp các giai cấp, Đảng phái, dân tộc, tổ chức chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau thực hiện nhiệm vụ chung là: “Mặt trận dân chúng thống nhất phản đế phải dùng đủ phương pháp mà đánh tan ách thống trị của đế quốc Pháp, chống đế quốc chiến tranh, chống chủ nghĩa phát xít, bênh vực Xô Viết liên bang”[12].

Đến Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tư duy lý luận về tổ chức lực lượng cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng đã hoàn toàn thống nhất với tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc: Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật không phải chỉ của riêng giai cấp công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn dân Việt Nam, khi Trung ương Đảng xác định: “Thống nhất lực lượng dân tộc là điều kiện cốt yếu để đánh đổ đế quốc Pháp”[13]. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 đã đưa ra quan niệm về “Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế là sự liên minh giữa các lực lượng cách mệnh phản đế không phân biệt giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo, mục đích là thực hiện thống nhất hành động giữa các lực lượng ấy đặng tranh đấu tiến lên vũ trang bạo động đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và các lực lượng phản động ngoại xâm và các lực lượng phản bội quyền lợi dân tộc làm cho Đông Dương được hoàn toàn giải phóng”[14].Tại Hội nghị này dù Trung ương đã khẳng định: “khẩu hiệu cách mệnh phản đế; cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn” nhưng lại cho rằng: “cách mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước cái làm sau”[15].

Ngày 28/1/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Sau một thời gian chuẩn bị, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 từ ngày 10 đến 19/5/1941. Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2, dự báo phe phát xít nhất định thất bại, phe Đồng minh chống phát xít chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Chủ nghĩa đế quốc sẽ suy yếu và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển mạnh mẽ. Hội nghị dự đoán rằng: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”[16]. Hội nghị nhận định: “Đế quốc Pháp – Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày mà chúng còn áp bức bóc lột cả các dân tộc, không chừa một hạng nào…Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mệnh cách mệnh dân tộc nguy vong không lúc nào bằng. Pháp – Nhật ngày nay không chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”… Do đó: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mệnh tư sản dân quyền, cuộc cách mệnh phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp dân tộc giải phóng”[17]. Hội nghị khẳng định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.”.

Từ quan điểm chỉ đạo này, Đảng ta đã xác định tính chất của cách mạng Việt Nam giai đoạn này là cách mạng giải phóng dân tộc, đây là nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Vì thế Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu: “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức”.

Hội nghị đi tới một quyết định cực kỳ quan trọng: giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước, cốt làm sao để thức tỉnh được tinh thần dân tộc của mỗi nước trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Ở Việt Nam mặt trận này được lấy tên là: “Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt minh). Các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc được thành lập trước đây đều thống nhất lấy tên là: Hội cứu quốc”, như Hội nông dân cứu quốc, Hội công nhân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ lão cứu quốc, Hội nhi đồng cứu quốc… và tất cả các Hội cứu quốc đều tham gia là thành viên của Việt minh. Đối với Lào, Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Ai Lao độc lập đồng minh, và đối với Campuchia thì lập Mặt trận Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở ra đời mặt trận ở mỗi nước sẽ thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh.

Các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều chịu ách thống trị của đế quốc Pháp, phát xít Nhật cho nên phải đoàn kết thống nhất lực lượng để đánh đuổi kẻ thù chung. Vấn đề dân tộc ở bán đảo Đông Dương lúc này là vấn đề tự do độc lập của mỗi dân tộc. Do đó Hội nghị Trung ương 8 khẳng định hết sức tôn trọng và thi hành đúng quyền dân tộc tự quyết đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi được Pháp, Nhật thì: “các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn tổ chức thành Liên Bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành dân tộc quốc gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[18]. Sau Hội nghị Trung ương 8, ngày 19/5/1941 một Đại hội gồm đại diện các Đảng phái, các tổ chức quần chúng… tuyên bố thành lập Việt Nam độc lập Đồng minh với tuyên ngôn: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào; đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp, Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở. Việt Nam độc lập đồng minh lại còn hết sức giúp đỡ Ai Lao ĐLĐM và Cao Miên ĐLĐM để cùng thành lập Đông Dương ĐLĐM hay là mặt trận thống nhất dân tộc phản đế toàn Đông Dương để đánh được kẻ thù chung giành quyền độc lập cho nước nhà. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành lập một Chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm lá cờ toàn quốc. Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[19].

Hội nghị quyết định phải xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, và coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị đã xác định bốn điều kiện cho khởi nghĩa vũ trang thắng lợi và xác định sáu nhiệm vụ phải thực hiện để củng cố, tăng cường, phát triển mở rộng lực lượng cách mạng trong cả nước đủ sức để thực hiện và củng cố thắng lợi của cuộc khởi nghĩa vũ trang[20].

Hội nghị Trung ương 8 đã phát triển sáng tạo phương thức khởi nghĩa vũ trang cách mạng khi đề ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương mở đường tiến lên tổng khởi nghĩa.Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng là người lãnh đạo người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đến Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) Đảng ta đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng được nêu ra từ Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Đó là sự chuyển hướng chiến lược tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong sang thực hiện chiến lược giải phóng dân tộc, chỉ tập trung lực lượng toàn dân tộc giải quyết cho được một vấn đề cấp bách và quan trọng hàng đầu là đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Từ xác định đúng mâu thuẫn cơ bản chủ yếu, đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp – Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng này là toàn dân Việt Nam bao gồm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi tôn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi được tập hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất phản đế với tên gọi Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính trị lãnh đạo Việt Minh. Hội nghị Trung ương 8 đã quyết định phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc là khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa vũ trang từng phần. Giành chính quyền ở từng địa phương chuẩn bị lực lượng đón thời cơ tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) là sự khẳng định kế thừa, tiếp thu và phát triển sáng tạo tư tưởng cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (1927) và cương lĩnh cách mạng đầu tiên (chánh cương vắn tắt sách lược vắn tắt, chương trình vắn tắt) của Đảng do chính Người dự thảo và được Hội nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thông qua.

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Hội nghị Trung ương 8 là sự khẳng định bước trưởng thành vượt bậc của Đảng ta trong lãnh đạo chính trị, trong đổi mới tư duy về xây dựng đường lối cứu nước, trong việc mài sắc vũ khí tự chỉ trích Bônsêvích để vượt qua bệnh ấu trĩ “tả” khuynh, bệnh giáo điều dập khuôn máy móc…

Đường lối chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) là ngọn đèn pha soi sáng, là ngọn cờ dẫn đường chỉ lối cho toàn dân ta giành thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng 8/1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam./.

--------------------------------

[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội.2009. Tập 8. Trang 562

[2] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[3] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 90

[4] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 235

[5] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 236

[6] Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập2. Trang 299

[7] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 567

[8] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 74

[9] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 544-545

[10] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 231

[11] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 6. Trang 232

[12] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 21

[13] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia Hà Nội năm 2000. Tập 6. Trang 544

[14] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 77

[15] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 68

[16] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[17] Lịch sử cách mạng tháng 8 -1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội.1995. Trang 38-40

[18] Lịch sử Cách mạng Tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 1995. Trang 41, 42

[19] Văn kiện Đảng toàn tập. Sđd. Tập 7. Trang 466-467

[20] Cách mạng tháng 8.1945. NXB chính trị quốc gia.Hà Nội 1995. Trang 42-43

PGS.TS Đào Duy Quát, Nguyên Phó Trưởng ban thường trực
Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN DƯƠNG HÒA TRONG GIAI ĐOẠN 1930 - 1954

I. Quá trình vận động cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân ở Dương Hòa (1930 - 8/1945)

Với vị thế là địa bàn chiến lược quan trọng, điểm tiếp giáp với thành phố Huế - thủ phủ xứ Trung Kỳ bảo hộ, nên chính sách đô hộ của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai ở Dương Hòa[1] rất hà khắc. Bộ máy cai trị từ huyện đến tổng, xã khá hoàn chỉnh. Đứng đầu huyện là Tri huyện. Ở tổng có các Chánh- Phó tổng. Dưới xã, ấp là bọn lý, hương và địa chủ cường hào… chiếm đoạt công điền, công thổ, tham nhũng công quỹ, ức hiếp nông dân. Nhân dân Dương Hòa không có quyền tự do dân chủ nào.

Không thể cam chịu cảnh cùng cực, một số thanh niên có chí hướng ở Dương Hòa đã bắt đầu đi tìm hiểu thời cuộc qua sách báo, qua các cuộc tiếp xúc với những nhà yêu nước tại Huế.

Cuối năm 1929, nội bộ Tân Việt cách mạng Đảng bị phân hóa để chuyển sang Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Việc thành lập Chi bộ đảng Đông Dương Cộng sản liên đoàn có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần vào việc tuyên truyền giác ngộ một số thanh niên yêu nước ở Dương Hòa đi theo con đường cách mạng mới.

Ngày 03/02/1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ở Thừa Thiên Huế, tháng 4/1930, tại Bến Ngự (Huế), dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Hội nghị hợp nhất Đảng bộ tỉnh được tiến hành. Hội nghị tuyên bố hợp nhất hai tổ chức Đông Dương Cộng sản đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành một tổ chức là Đảng Cộng sản Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên, do đồng chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Đồng chí Lê Bá Dị được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành lâm thời, trực tiếp chỉ đạo 3 huyện phía Nam, trong đó có Hương Thủy.

Sau ngày 01/5/1930, các đồng chí đảng viên chủ chốt trực tiếp đi vào nông thôn, miền núi vận động nông dân, tập hợp họ vào tổ chức nông hội, đấu tranh chống bọn cường hào, ác bá.

Ngày 18/6/1931, nhân kỉ niệm ngày Gia Long lên ngôi, nhiều truyền đơn được rải khắp Dương Hòa để vạch mặt bọn thực dân, phong kiến áp bức, bóc lột nhân dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh đòi quyền sống.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tháng 10/1939, địch thực hiện cuộc khủng bố trắng ở Thừa Thiên, hầu hết các đảng viên ở Hương Thủy đều bị bắt. Hệ thống cơ sở bị phá vỡ, phong trào cách mạng ở Hương Thủy bị tổn thất nặng nề, còn lại một vài đồng chí và cơ sở phải rút vào hoạt động bí mật để đảm bảo duy trì những hoạt động của Đảng sau này.

Tháng 7/1942, đồng chí Nguyễn Chí Thanh vượt ngục trở về triệu tập Hội nghị cán bộ đảng tại Quảng Điền, triển khai Nghị quyết Trung ương VIII. Hội nghị quyết định củng cố các tổ chức đảng để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới.

Ngày 23/5/1945, Ban Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập Hội nghị ở Đầm Cầu Hai (Phú Lộc), chuẩn bị khởi nghĩa. Sau Hội nghị, Tỉnh ủy cử các đồng chí Lê Minh, Phạm Quang Thuyết, Phan Bạch Vân về chỉ đạo phong trào ở Hương Thủy.

Được sự tiếp sức của tỉnh, các tổ chức đảng ở các huyện khẩn trương triển khai Nghị quyết Hội nghị Đầm Cầu Hai, tiến hành chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ đến là tổ chức nhân dân vùng lên khởi nghĩa.

Tháng 6/1945, Mặt trận Việt Minh huyện Hương Trà được thành lập lấy tên là Việt Minh Bình Sơn. Ban lãnh đạo Việt Minh Bình Sơn gồm các đồng chí: Đặng Cháu, Hoàng Liên, Trần Danh, Lâm Mộng Quang, Nguyễn Thị Út do Lâm Mộng Quang làm chủ nhiệm[2].

Đầu tháng 8/1945, không khí chuẩn bị khởi nghĩa ngày càng khẩn trương, nhân dân xã Dương Hòa cùng với các địa phương trong huyện Hương Thủy đẩy mạnh việc quyên góp thóc, gạo, tiền vào ngân quỹ của Việt Minh để trang cấp cho việc huấn luyện các đội tự vệ chiến đấu, rèn vũ khí, mua vải may cờ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Trước khí thế của quần chúng và thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt của phát xít Nhật đang đến gần, ngày 10/8/1945, Tỉnh ủy họp phiên mở rộng quyết định kế hoạch khởi nghĩa. Sau Hội nghị, các đồng chí Tỉnh ủy viên trực tiếp về chỉ đạo ở các huyện.

Ngày 17/8/945, Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà) họp, thành lập Ủy ban khởi nghĩa huyện và khu vực, đề ra kế hoạch khởi nghĩa ở các làng, tổng và tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế.

Dưới sự chỉ đạo của Việt Minh Bình Sơn (Việt Minh Hương Trà), ngay trong đêm 22 rạng sáng ngày 23/8 nhân dân Hương Thọ đã nhất tề nổi dậy đấu tranh giành chính quyền. Tại Dương Hòa đồng chí Ngô Đức Vui đã tập hợp các đoàn biểu tình từ các thôn về tại nhà thờ họ Phan tổ chức mít tinh tuyên bố chính quyền vào tay nhân dân. Bọn hương lý lo sợ đem ấn triện nộp cho chính quyền cách mạng của nhân dân[3].

Ngày 30/8, hàng nghìn nhân dân Dương Hòa đã về Huế cùng nhân dân toàn tỉnh tham dự cuộc mít tinh dưới rừng cờ đỏ sao vàng ở Ngọ Môn trong buổi lễ thoái vị của Bảo Đại và nghe đại diện Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố xáo bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Ngày 02/9/1945, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng nhân dân cả nước chứng kiến thời khắc lịch sử của dân tộc “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập”.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (1945), nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) được đổi đời từ địa vị nô lệ, làm thuê trở thành người chủ xã hội. Cách mạng tháng Tám chứng minh truyền thống yêu nước, đấu tranh bất khuất của nhân dân Dương Hòa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã tạo ra bước ngoặt mới để xây dựng và phát triển Dương Hòa ngày càng khởi sắc sau này.

II. Xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân ở Dương Hòa (8/1945 - 12/1946)

Sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng và giữ vững chính quyền là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức tạp. Với khó khăn về kinh tế tài chính, văn hóa, xã hội và ngoại xâm, tất cả đang đe dọa một cách nghiêm trọng vận mệnh dân tộc nói chung và Dương Hòa nói riêng. Nhưng do vừa thoát khỏi thân phận một người dân mất nước, nô lệ, nhân dân xã Dương Hòa ý thức sâu sắc giá trị của độc lập, tự do và nguyện đem hết khả năng trách nhiệm của mình để bảo vệ và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được.

1. Về chính trị.

Để củng cố nhà nước về mặt pháp lý và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 22/11/1945 Chính phủ ra Sắc lệnh tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Hành chính các cấp, chuẩn bị Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phấn khởi, tràn đầy tin tưởng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên)[4] cùng với nhân dân cả nước hăng hái tham gia bầu cử Quốc hội chung cả nước (6/1/1946). Một không khí sinh hoạt chính trị sôi động đầy khắp thôn xóm. Trước ngày bầu cử các đoàn thể như Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc ngày đêm hăng hái vận động nhân dân tích cực tham gia bầu cử. Lực lượng tự vệ ngày đêm thường xuyên canh gác sẵn sàng đập tan mọi âm ưu phá hoại của kẻ địch, Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời của xã đã phổ biến quy định bầu cử, đồng thời nhấn mạnh cho nhân dân hiểu rõ tính chất dân chủ của việc phổ thông đầu phiếu. Khẩu hiệu “hoan nghênh ngày bầu cử thống nhất” hòa trong tiếng reo hò của đội cổ động đã làm tăng thêm không khí sôi động của ngày bầu cử. Nhiều loại thơ ca hò vè được nhân dân truyền miệng nhắc nhở nhau bầu cho các đại biểu do Việt Minh đưa ra ứng cử, như:

“Thích Mật Thể, kể cả Hoàng Anh

Cùng Trần Thanh Chữ bạn lành của ta…”

Hòm phiếu được đặt ở đình làng các thôn: Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc. Để tranh giành với ta, bọn Quốc dân đảng đã đưa ra một số ứng cử viên và chúng đã dùng mọi thủ đoạn xấu xa, thâm độc hòng lừa bịp nhân dân, chúng tìm cách nói xấu các đại biểu Việt Minh. Nhưng kết quả cuộc bầu cử đã thắng lợi, hầu hết các ứng cử viên do Việt Minh giới thiệu là Hoàng Anh và Thích Mật Thể đã trúng cử tỉ lệ cao, có người đạt trên 90% số phiếu.

Đây là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị rất to lớn, cho thấy nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đặt hết tin tưởng vào Mặt trận Việt Minh, vào Chính phủ cách mạng.

Sau bầu cử Quốc hội, thực hiện Sắc lệnh 63/SL về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân để cử ra bộ máy chính quyền quản lý xã, thôn. Tại kì họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân xã Hương Nguyên đã bầu ra Ủy ban hành chính xã do đồng chí Hồ Văn Hiến làm Chủ tịch[5].

Để tiếp tục củng cố chính quyền cách mạng các cấp và đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của cách mạng địa phương, công tác xây dựng Đảng rất được Huyện ủy Hương Trà chú trọng. Tháng 2/1946, tại thôn Hải Cát, đồng chí Đặng Cháu - Bí thư Huyện ủy Hương Trà, đã chủ trì lễ kết nạp 2 quần chúng ưu tú là đồng chí Trần Hữu Thí (quê ở Kim Long) và Đặng Hiền (quê ở Hải Cát)) vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó không lâu kết nạp thêm đồng chí Hồ Văn Hiến (quê ở Đình Môn) hình thành nên Chi bộ ghép đầu tiên, có nhiệm vụ lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng. Chi bộ do đồng chí Trần Hữu Thí làm Bí thư.

Ngay sau khi ra đời, Chi bộ ghép phụ trách 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty và Hương Phụng đã tích cực hoạt động, chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng Đảng viên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đến các địa bàn thôn, xóm. Tại Hương Thọ, được sự quan tâm của Chi bộ, các quần chúng ưu tú như Nguyễn Công Khanh (La Khê Bải), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thương (La Khê Trẹm) đã được kết nạp vào Đảng, trên cơ sở đó Huyện ủy Hương Trà cử các đồng chí Hoàng Liên, Nguyễn Vật, Hồ Văn Hiến về xây dựng Tổ đảng Dương Hòa (Hương Nguyên) do đồng chí Hồ Văn Hiến trực tiếp chỉ đạo[6].

Sự kiện Chi bộ đảng Cộng sản ghép của 3 xã Hương Nguyên, Hương Ty , Hương Phụng và Tổ đảng Dương Hòa ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trọng đại trong đời sống chính trị của nhân dân các xã. Từ đây dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ, tổ đảng nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) một lòng theo Đảng, đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến quốc, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng toàn thắng.

2. Về kinh tế.

Song song với việc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ở địa phương, Ủy ban Nhân dân lâm thời và sau đó là Ủy ban Hành chính đã tiến hành phân cấp lại ruộng đất chia cho dân nghèo. Tất cả nam nữ công dân từ 18 tuổi trở lên đều được cấp phát ruộng đất để cày cấy, sản xuất.

Thực hiện chủ trương của cấp trên, chính quyền địa phương đã tiến hành giảm 25% tô, thuế, giảm nợ cho nông dân, xóa bỏ thuế thân và mọi thứ thuế bất hợp lý khác.

Việc tịch thu ruộng đất của cường hào, của những kẻ có nợ máu, việc cấp phát ruộng đất, giảm tô, tức và các thứ thuế bất hợp lý đã có tác dụng rất lớn trong việc động viên nhân dân hăng hái tham gia sản xuất.

Trong tình thế khó khăn chung của đất nước, Chính quyền Cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã đề ra một số biện pháp cấp bách như ra lệnh cấm dùng gạo vào những công việc không cần thiết như nấu rượu, làm bánh và kêu gọi nhân dân giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức “hũ gạo đồng tâm” để giải quyết nạn đói. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh sản xuất cũng rất được chú trọng. Hưởng ứng lời kêu gọi “tăng gia sản xuất, tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” của Đảng và Chính phủ, dưới sự chỉ đạo của Chính quyền và Chi bộ đảng địa phương, nhân dân Dương Hòa đã tích cực canh tác, từ sáng sớm đã có những đoàn người tham gia lao động sản xuất; đẩy mạnh hơn nữa việc khai hoang để mở rộng sản xuất. Nhờ vậy, đã tạo dựng được những tiền đề vững chắc để giải quyết tận gốc nạn đói.

Với quyết tâm của chính quyền cách mạng và sự nỗ lực của nhân dân, nạn đói đã được đẩy lùi, đời sống vật chất của nhân dân được ổn định và góp phần vào việc thực hiện khẩu hiệu “Diệt giặc đói” của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch.

  1. Phong trào xây dựng Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng.

Sau Cách mạng tháng Tám, tài chính Nhà nước hầu như trống rỗng. Để giải quyết khó khăn trên, ngày 04/5/1946 Chính phủ Lâm thời ra Sắc lệnh số 4 - Sắc lệnh xây dựng Quỹ độc lập và tổ chức “Tuần lễ vàng” trong cả nước kể từ ngày 12/9/1946 - 24/9/1946 nhằm động viên nhân dân tự nguyện đóng góp phần mình vào việc xây dựng đất nước và giữ vững nền độc lập.

Hưởng ứng phong trào gây Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng ở Dương Hòa (Hương Nguyên), cán bộ cách mạng đã tuyên truyền và giải thích sâu rộng trong quần chúng nhân dân về ý nghĩa chính trị to lớn của việc làm nói trên. Đây không chỉ là việc quyên góp đơn thuần mang tính chất kinh tế mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc. Hiểu được ý nghĩa của hoạt động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) người ít kẻ nhiều đã lần lượt đến đình làng tự giác đóng góp vàng, bạc; có nhiều người còn đem cả vật kỷ niệm ngày cưới như đôi hoa tai vàng, nhẫn… đóng góp cho cách mạng không ghi tên tuổi. Tính chung, trong đợt vận động này, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) cùng toàn thể nhân dân Hương Thọ đã góp hơn 15 lượng vàng, 200kg đồng để đóng góp vào công quỹ Nhà nước[7].

Phong trào Quỹ độc lập và Tuần lễ vàng đã đem lại kết quả tốt đẹp, nhiều người dân đã tham gia đóng góp với các mức độ khác nhau. Điều này đã thể hiện sự giác ngộ cách mạng và tinh thần yêu quê hương, đất nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên).

  1. Về văn hóa giáo dục.

Do hậu quả của chính sách ngu dân mà chế độ thực dân, phong kiến để lại, hơn 90% nhân dân Dương Hòa bị mù chữ. Vì vậy, để nâng cao dân trí, góp phần kiến quốc, công cuộc xóa nạn mù chữ được xem như là một yêu cầu cần kíp đặt ra cho chính quyền cách mạng.

Ngày 06/5/1946, Hội đồng Chính phủ đã họp và quyết định phát động phong trào xóa nạn mù chữ trong cả nước.

Sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, phong trào học chữ quốc ngữ thực sự là một phong trào rộng rãi của quần chúng mang tính chất tự giác cao. Các buổi học thường được tổ chức vào ban đêm tại các đình, các nhà thờ các thôn ở Dương Hòa, Lương Miêu, Đình Môn, Kim Ngọc, La Khê Trẹm... Nhân dân lao động trẻ, già, trai, gái không phân biệt lứa tuổi đều tích cực tham gia học tập. Mỗi thôn có từ 3 đến 4 lớp. Với tinh thần người biết chữ dạy cho người chưa biết chữ, người biết nhiều dạy cho người biết ít, nên có người vừa là thầy vừa là trò[8]. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về dụng cụ học tập như: giấy, bút, dầu đèn... song tiếng ê, a đánh vần vào mỗi buổi tối vẫn vang lên từ đầu đến cuối làng.

Trong các buổi lao động gia đình hoặc hội họp tập thể, hình thức đố bài để giúp nhau ôn lại bài vở đã học đã diễn ra sôi nổi; nhiều bài thơ ca, hò vè đã được sáng tác để kịp thời vận động nhân dân học tập; tại những điểm giao thông có nhiều người qua lại, chính quyền địa phương đã tổ chức giăng dây đố chữ hoặc tổ chức thi hàng tuần, kỳ, tháng hoặc 3, 4 tháng một lần để kiểm tra và kịp thời có những biện pháp thích hợp khuyến khích nhân dân chú trọng hơn nữa đến công tác xóa nạn mù chữ. Từ trong phong trào “diệt giặc dốt”, nhiều cán bộ, đảng viên trở thành những giáo viên giỏi và sau này có những người trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng.

Thắng lợi của phong trào xóa nạn mù chữ không đơn thuần có giá trị về mặt văn hóa - xã hội, mà mang một nội dung yêu nước sâu sắc.

Nhờ đó mà nhân dân lĩnh hội được đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước một cách tương đối dễ dàng, tạo thêm khả năng để nhân dân tham gia đóng góp phần mình vào công cuộc kháng chiến.

5. Về xây dựng lực lượng vũ trang và hỗ trợ phong trào Nam tiến.

  1. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang tại chỗ.

Hầu hết thanh niên tích cực ở Dương Hòa (Hương Nguyên) sau Cách mạng tháng Tám được đưa vào các đội tự vệ. Mỗi thôn có một tiểu đội, vũ khí chủ yếu là dao găm, mã tấu, nhưng tinh thần luyện tập rất hăng hái. Nhiệm vụ của các tiểu đội tự vệ là cảnh giác, tuần tra cho thôn xóm và bảo vệ cơ quan chính quyền xã. Tại Dương Hòa, đội tự vệ thôn có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh niên, phụ nữ như: Mai Văn Trừng, Lê Phán, Lê Thạc, Võ Thanh Duy, Phan Mông, Bùi Ngọc Tịnh, Võ Thị Mòn, Phan Bá Cừ, Phan Sinh, Phan Thị Hàm, Phan Tự… Do đồng chí Mai Văn Trừng làm đội trưởng (1949 - 1950)[9].

Năm 1946, chính quyền nhân dân được thành lập và song song với việc tổ chức, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng, lực lượng tự vệ được phát triển hơn. Đội trưởng tự vệ lúc này là đồng chí Mai Văn Trừng.

Không khí luyện tập rất hăng hái, sôi nổi hơn trước, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang không chỉ đóng khung trong các thôn xóm mà được mở rộng ra địa bàn xã.

  1. Phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ba tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (23/9/1945), thực dân Pháp núp bóng quân Anh quay trở lại xâm lược nước ta. Tiếng súng xâm lược nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp đã gây nên một làn sóng căm phẫn dữ dội trong toàn thể quốc dân đồng bào cả nước. Nhân dân Nam bộ ngay từ đầu đã nhất tề đứng dậy cầm súng đánh giặc, mở đầu một trang sử vô cùng oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Trung ương Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ Nam bộ kháng chiến.

Ở Dương Hòa (Hương Nguyên), phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú. Thanh niên Dương Hòa (Hương Nguyên) đã nô nức lên đường vào Nam chiến đấu. Nhiều người đã gia nhập giải phóng quân, khẩu hiệu “Đả đảo thực dân Pháp, ủng hộ Nam bộ kháng chiến”, “Thà chết vinh còn hơn sống làm nô lệ” được giương cao khắp thôn xóm, Ủy ban ủng hộ Nam bộ kháng chiến được thành lập, động viên nhân dân ủng hộ nhân tài vật lực cho miền Nam như lúa, gạo, chăn màn, quần áo, tiền bạc để mua sắm vũ khí.

Cùng với cả nước, phong trào ủng hộ Nam bộ kháng chiến ở Dương Hòa (Hương Nguyên) thực sự trở thành cuộc vận động chính trị vô cùng rộng lớn kể từ sau Cách mạng tháng Tám. Đã có những đóng góp vật chất, tinh thần xứng đáng cho kháng chiến chống quân xâm lược.

Thời kỳ từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ là thời kỳ mà đất nước nói chung và Dương Hòa (Hương Nguyên) nói riêng gặp vô vàn khó khăn như trong tình thế “Ngàn cân treo sợi tóc”, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm cùng với muôn vàn khó khăn đã đặt đất nước, quê hương trước thử thách nghiêm trọng. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ cấp trên và các đảng viên lúc đó như Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến người Đình Môn), Nguyễn Công Khanh (Hải Cát) nên chỉ trong một thời gian rất ngắn, chính quyền cách mạng Dương Hòa (Hương Nguyên) đã lãnh đạo nhân dân giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, chuẩn bị tiềm lực để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lâu dài và hết sức gian khổ.

III. Dương Hòa (Hương Nguyên)[10] tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (19/12/1946 - 20/7/1954)

Đúng như Đảng đã dự đoán, thực dân Pháp tiếp tục chính sách “việc đã rồi” hòng đặt lại ách thống trị của chúng lên đất nước ta. Sau nhiều vụ khiêu khích của thực dân Pháp, ngày 19/12/1946, chiến tranh bắt đầu lan tỏa khắp đất nước. Thời kỳ tạm hòa hoãn đã chấm dứt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, toàn dân Việt Nam đã đứng dậy kháng chiến, kiên quyết giữ vững độc lập, thống nhất tổ quốc.

Ngày 20/12/1946, Hồ Chủ tịch thay mặt Đảng và Chính phủ, kêu gọi đồng bào cả nước: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[11].

Cùng cả nước, cả tỉnh và thành phố Huế nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi kháng chiến của Đảng và Hồ Chủ tịch.

1. Dương Hòa (Hương Nguyên) từ kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946) đến khi mặt trận Thừa Thiên Huế vỡ (5/2/1947).

Mặc dù đã kí với Chính phủ các Hiệp định sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9, thực dân Pháp vẫn không từ bỏ mưu đồ tái xâm chiếm nước ta. Chúng sẵn sàng hành động với sự hậu thuẫn của các nước đồng minh để chiếm lại nước ta bằng mọi giá.

Tại Thừa Thiên Huế, trước những hành động xâm lược trắng trợn của quân đội Pháp, đầu tháng 12/1946, Thường vụ Tỉnh ủy họp đã rà soát kiểm điểm việc chuẩn bị các mặt cho công cuộc kháng chiến và đề ra nhiệm vụ mới cho toàn Đảng bộ, quân và dân trong tỉnh.

Ngày 19/12/1946, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngay trong đêm hôm đó, Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên thông qua kế hoạch tác chiến của Liên khu 4 và Ủy ban kháng chiến Liên khu. Tỉnh ủy chủ trương dùng lực lượng vũ trang kết hợp sức mạnh của nhân dân tiến công, bao vây và tiêu diệt quân Pháp đóng ở Huế trước khi lực lượng tăng viện của địch đến.

Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau, tất cả các xã trong toàn huyện Hương Thủy đã sôi sục trong bão lửa chiến tranh, quyết đem tinh thần chiến đấu chống thực dân Pháp bảo vệ quê hương.

Trong 50 ngày đêm liền, quân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã góp phần cùng quân dân Hương Thủy tấn công liên tục vào những các vị trí của địch có pháo binh yểm trợ lưu động trên trận địa Hương Thủy từ Quảng Tế đến Ngự Bình. Ban ngày từ các vị trí chúng tấn công ta bằng thiết giáp và bộ binh. Ta dựa vào trận địa giao thông mà chiến đấu bằng nhiều hình thức phù hợp như bắn tỉa, bắn đón bằng súng trường. Nhiều lúc đánh giáp lá cà, đánh cháy xe thiết giáp của chúng bằng bom xăng.

Các cuộc tấn công của ta diễn ra bằng những vũ khí thô sơ, có khi còn dùng cả rơm rạ và ớt, dùng lửa và khói đánh vào các tòa nhà chúng dùng làm công sự để chặn ta tấn công. Hầu hết các gia đình trong xã đều có đóng góp ít nhất là một gánh rơm, vài ba lon ớt… Khoảng 7 - 8 giờ tối, tất cả những thứ đó được đưa xuống đò chuyển về Huế tiếp viện cho lực lượng bộ đội đánh địch[12].

Tại chùa Khoai (nơi xưa kia đặt Bộ Chỉ huy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực lãnh đạo khởi nghĩa Chày Vôi) chị Tú - cán bộ phụ nữ huyện, báo cáo trước nhân dân trong xã về tình hình diễn biến chiến trận và kêu gọi nhân dân “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Hưởng ứng lời kêu gọi của chị

Tú, đồng chí Thân Trọng Một và đồng chí Thạnh ở Dương Hòa (Hương Nguyên) đã tình nguyện tham gia đội quân này, sẵn sàng hy sinh tính mạng cho Tổ quốc. Hôm sau, hai đồng chí vác bộ 10kg bộc phá vào nhà Mác-bớp đánh địch đang cố thủ ở đây. Đồng chí Thạnh hy sinh tại chỗ, đồng chí Thân Trọng Một bị thương[13].

Khi mặt trận tiếp tục mở rộng, địch liên tiếp càn quét. Do chủ quan và chưa nắm được tình hình, nên lúc đầu các cơ sở của ta bị vỡ, chính quyền cách mạng và các tổ chức đoàn thể phải rút lui, thậm chí các đồng chí cán bộ trong Ủy ban hành chính và Ủy ban kháng chiến phải phân tán mỗi người một nơi. Sau khi địch rút lui, lực lượng của ta lại tập hợp, củng cố để chuẩn bị đối phó với kế hoạch mới của địch

Nhìn chung, trong khoảng thời gian này, lúc đầu ta có lúng túng, bị động nhưng chỉ sau một thời gian ngắn được sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, huyện, quân và dân Dương Hòa (Hương Nguyên) vẫn thực hiện cuộc rút lui về tuyến sau an toàn, xây dựng căn cứ địa đảm bảo lực lượng để bước vào giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.

2. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) từ tháng 2/1947 đến cuối năm 1950.

  1. Âm mưu của thực dân Pháp

Sau khi chiếm được thành phố và các đầu mối giao thông quan trọng, thực dân Pháp tổ chức những cuộc hành quân lớn để càn quét vùng đồng bằng và đánh sâu vào căn cứ của ta ở rừng núi, đặc biệt là Dương Hòa, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang, phá hoại kho tàng của ta. Đi đôi với chiến thuật càn quét lớn, giặc Pháp dùng chiến thuật cứ điểm nhỏ để kìm chân các hoạt động của ta ở đồng bằng, phong tỏa ta ở miền núi. Địch đánh tới đâu, chúng xây dựng, đóng đồn tới đó để thực hiện chiến thuật “Vết dầu loang”.

Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), thực dân Pháp đã hỗ trợ cho Linh mục Nguyễn Ngọc xây dựng Giáo xứ Buồng Tằm. Nhiệm vụ chủ yếu của các đồn, lô cốt là bảo vệ an ninh cho địch, khủng bố nhân dân, xây dựng bộ máy tề - ngụy phản động ở địa phương, lùng bắt cán bộ và phá hoại phong trào.

  1. Chủ trương kháng chiến của ta:

Không để cho thực dân Pháp thực hiện được những ý đồ thâm độc của chúng, nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chi bộ đảng đã lãnh đạo nhân dân dũng cảm đứng lên đấu tranh phá tan các âm mưu của địch.

Một tháng rưỡi sau khi vỡ mặt trận, Hội nghị Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế mở rộng đã họp từ ngày 25 đến 27/3/1947 tại thôn Nam Dương (huyện Quảng Điền) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị đã kiểm điểm tình hình phong trào cách mạng trong toàn tỉnh từ khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến khi mặt trận mở rộng. Đồng thời đề ra nhiệm vụ cần kíp trước mắt để củng cố, xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng. Hội nghị chủ trương:

+ Tiếp tục tiếng súng kháng chiến, không để cho giặc ăn ngon, ngủ yên, phá chính sách “bình định” của giặc, cương quyết phá tề, trừ gian, làm cho đồng bào tin tưởng Đảng vẫn còn, bộ đội vẫn còn và nhân dân tiếp tục kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

+ Tổ chức tăng gia sản xuất, cất giấu của cải, lúa gạo, tổ chức cảnh giác để lúa gạo không rơi vào tay giặc.

+ Xây dựng lại cơ sở, tổ chức đưa cán bộ về lại địa phương cũ để hoạt động, gây dựng lại phong trào, cơ sở, nắm lấy quần chúng để kháng chiến (nhất là 3 huyện phía Nam Thừa Thiên), phải chấn chỉnh lại quân đội, tổ chức lại hệ thống chỉ huy và cơ sở du kích, chỉnh đốn lại Ủy ban, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng[14].

Sau Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng họp ở Nam Dương (3/1947), Huyện ủy Hương Trà đã họp quán triệt chủ trương của cấp trên và đề ra những biện pháp cấp thiết giữ vững chính quyền cách mạng.

Thực hiện chủ trương của Hội nghị cán bộ toàn tỉnh và Huyện ủy Hương Trà, cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa (Hương Nguyên) đã từng bước khôi phục, củng cố phong trào cách mạng, góp phần với huyện, tỉnh làm nên những thắng lợi quan trọng trên các mặt trận: chính trị, kinh tế và quân sự trong giai đoạn 1947 - 1950.

c. Nhân dân Dương Hòa chiến đấu chống lại âm mưu của thực dân Pháp, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc (từ ngày 5/2/1947 đến cuối năm 1950).

- Phong trào đấu tranh của nhân dân Dương Hòa từ ngày 5/2/1947 đến giữa năm 1948.

Sau khi Mặt trận Huế vỡ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lan rộng khắp toàn tỉnh. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi các cơ sở đảng phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo mình đối với phong trào cách mạng của quần chúng. Nhận thức rõ những yêu cầu cấp thiết nói trên, từ năm 1947, việc phát triển đảng viên, xây dựng các hạt nhân nòng cốt để trực tiếp lãnh đạo nhân dân địa phương tiếp thu và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng rất được các Chi bộ cơ sở chú trọng. Tại Hương Thọ, với những hoạt động tích cực của Chi bộ đảng, số lượng đảng viên của xã cuối năm 1947 đã tăng lên 18 người, gồm các đồng chí: Hồ Văn Hiến (tức Xạ Hiến, Đình Môn), Bùi Văn Huyên (tức Bùi Ngọc Tịnh, Dương Hòa), Lê Thượng (La Khê Trẹm), Nguyễn Công Khanh (La Khê Bãi), Trần Quang Hợi (Hải Cát Thượng), Nguyễn Bạo (Hải Cát Hạ), Trần Quang Bỉnh (Hải Cát Thượng), Đặng Văn Tuân (Hải Cát Thượng), Lê Văn Kế (La Khê Trạm), Mai Văn Trọng (Hải Cát Thượng), Nguyễn Văn Nghệ (La Khê Trẹm), Nguyễn Bách (La Khê Trẹm), Nguyễn Thị Châu (Kim Ngọc), Mai Văn Trừng (Đình Môn), Phan Bá Cừ (Dương Hòa), Mai Văn Sử (Đình Môn), Nguyễn Dương (Kim Ngọc). Về sau, các đồng chí trên mất liên lạc với tổ chức và không thể tiếp tục hoạt động.

Nhờ sự phát triển mạnh của lực lượng đảng viên đã góp phần quan trọng củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của Chi bộ Hương Thọ và Tổ đảng Dương Hòa trong thực hiện nhiệm vụ đánh địch trên mọi mặt, dưới mọi hình thức để từng bước làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.

Sau khi xây dựng hệ thống đồn bốt tại địa phương, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng và củng cố lại bộ máy tề - ngụy, nhằm tạo lập chính quyền tay sai phục vụ cho những chính sách xâm lược của chúng. Trước tình hình đó, ta chủ trương biến hội tề của địch thành lực lượng hoạt động phục vụ cho cách mạng, bằng cách đưa một số người của ta cài vào hoạt động trong các tổ chức của địch để có điều kiện hoạt động công khai và kiên quyết trừng trị những tên phản cách mạng phục vụ đắc lực cho thực dân Pháp. Tại Dương Hòa (Hương Nguyên), mặc dù địch đã thành lập bộ máy hương lí làm tay sai cho chúng nhưng bộ máy này đã bị vô hiệu hóa vì ta đã cài người của mình vào đây.

Thực hiện chủ trương không để địch tăng cường các hoạt động quân sự nhằm chống phá lực lượng cách mạng, ta đã tập trung lực lượng dân quân tiến hành bao vây liên tục không cho địch tiếp xúc với bên ngoài. Kết hợp với bao vây, ta tiến hành binh vận, kêu gọi những binh lính lầm đường lạc lối, thức tỉnh trở về với cách mạng.

Đầu năm 1947, Đội hành động (tổ chức của An ninh Trinh sát vũ trang) về đóng quân tại Đình Môn (khu vực lăng Gia Long). Để giữ vai trò liên lạc giữa đồng chí lãnh đạo Ty Công an ở Dương Hòa với tổ Minh Khai (các cơ sở, các điệp báo viên cắm trong thành phố), các đội viên đội công an hành động qua cơ sở ở Dương Hòa đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo đường dây liên lạc giữa Đội Công an Hành động ở chiến khu Dương Hòa và thành phố.

Tháng 3/1947 tại 2 thôn Dương Hòa và Đình Môn, dựa vào bọn phản động và Linh mục Nguyễn Ngọc chỉ điểm, thực dân Pháp đã bắt 13 cán bộ chủ chốt của xã đem về đồn Nam Giao để khai thác dụ dỗ nhưng không thành. Chính vì vậy, nhiệm vụ trừ gian, diệt tề tại đây được tiến hành khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho lực lượng kháng chiến và củng cố niềm tin cho nhân dân[15]. Quán triệt tinh thần chỉ đạo trên, tháng 7/1947, đồng chí Thân Trọng Một, Phạm Công Lan phối hợp với đồng chí Hồ Văn Hiến (Xạ Hiến), Chủ tịch xã Hương Nhuyên chỉ huy quyết tử quân, du kích đánh và giải tán bọn phản động tại đây. Linh mục Ngọc phải bỏ giáo xứ chạy về nhà thờ Thần Phù.

Sau chiến thắng này, ta đã làm chủ hoàn toàn con đường liên lạc Bắc - Nam đi qua Dương Hòa, mở ra vành đai bảo vệ từ Le Le lên đến điện Hòn Chén, tạo tiền đề to lớn để năm sau xây dựng chiến khu Dương Hòa[16]. Phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Dương Hòa từ đây bắt đầu có những bước phát triển mới. Chuyển từ thế phòng ngự sang chiến tranh du kích diệt tề, trừ gian. Từ đó đã tạo dựng được những tiền đề quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của phong trào dân quân du kích ở Dương Hòa.

Do vậy, vào đầu năm 1948, mặc dù thực dân Pháp thực hiện kế hoạch bình định vùng đồng bằng và bao vây chiến khu miền núi, tiến hành xây dựng đồn bốt, làm chỗ dựa về quân sự cho việc xây dựng chính quyền tề, ngụy của chúng nhưng vẫn không đàn áp được phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Du kích các xã đã ra sức phối hợp với bộ đội chính quy (Trung đoàn 101) đánh địch càn quét, hỗ trợ nhân dân làm chủ thôn xóm. Hoạt động vũ trang được đẩy mạnh khắp toàn huyện.

- Sự ra đời của chiến khu Dương Hòa và các hoạt động đấu tranh cách mạng bảo vệ chiến khu của nhân dân Dương Hòa (từ giữa năm 1948 đến năm 1949).

Vấn đề xây dựng chiến khu, căn cứ kháng chiến được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hàng đầu góp phần vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến. Nhận thức rõ về vấn đề trên, ngay trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, việc chọn địa bàn để xây dựng thành điểm đứng chân cho các ban ngành lãnh đạo kháng chiến của tỉnh và bảo toàn lực lượng cách mạng rất được Tỉnh ủy chú trọng thực hiện. Trên cơ sở đó, từ năm 1947 các chiến khu cách mạng đã lần lượt ra đời: chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền), chiến khu Trò (Hương Trà), Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc)... Tại Hương Thủy chiến khu động Mỏ Tàu (ở đất xóm Hộ, Dương Hòa) đã được thành lập vào năm 1947, đặt tên là chiến khu Phương Hải để tưởng nhớ 2 đồng chí đã hy sinh: đồng chí Lê Trạc (Hải), Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách Huyện ủy Phú Vang và đồng chí Nguyễn Thượng Phương (Hương Thủy).

Đến giữa năm 1948, phong trào cách mạng ở các huyện phía Nam của tỉnh phát triển mạnh nhằm để đáp ứng yêu cầu sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, tháng 5/1948, Tỉnh ủy đã quyết định chuyển địa bàn từ chiến khu Hòa Mỹ vào vùng rừng núi phía Tây huyện Hương Thủy để xây dựng chiến khu Dương Hòa, lấy làng Dương Hòa làm trung tâm của chiến khu.

Việc lựa chọn Dương Hòa làm căn cứ đứng chân của lãnh đạo tỉnh không phải được quyết định một cách ngẫu nhiên, mà quyết định này được đưa ra trên cơ sở những phân tích về vị trí địa lí và thực tiễn hoạt động của các tổ chức cách mạng tại đây.

Dương Hòa là vùng đất được bao bọc bởi 2 nhánh sông Tả Trạch và Hữu Trạch, có núi non che chở ở phía Tây, phía Nam gần đô thị Huế (cách Huế 12km), cách trung tâm huyện lị Hương Thủy 11km theo đường chim bay, nằm trên tuyến đường nối liền 2 chiến khu Hòa Mỹ (Phong Điền) và Khe Tre - Nam Đông (Phú Lộc), tạo thế liên hoàn giữa các mặt trận.

Chiến khu bao gồm địa phận xã Hương Thọ (Hương Trà) và các vùng lân cận khu vực rừng núi của dãy Trường Sơn trùng điệp, tiếp giáp với thôn Lương Miêu. Ngoại vi chiến khu bao gồm Bình Điền, An Bằng, Hải Cát và một số thôn thuộc các xã Phú Sơn, Thủy Bằng (Hương Thủy). Do vậy, từ chiến khu Dương Hòa ta có nhiều thuận lợi để triển khai các hoạt động về các xã đồng bằng: Dương Hòa - Hương Thủy (từ Dương Hòa về Ấp 5, Thủy Phương), Dương Hòa - Hương Hồ (từ Dương Hòa qua đồi “Đất Mẹ” (Thủy Bằng), sau lưng điện Hòn Chén về Hương Hồ), Dương Hòa - Huế (Dương Hòa vượt qua sông đến Thủy Bằng về Huế), Dương Hòa - Liên khu 5 (Dương Hòa băng qua Khe Sòng, Khe Ván đi Nam Đông lên Liên khu 5).

Nhìn chung,“đặc điểm của chiến khu Dương Hòa là dễ thủ khó công. Tiếp tế lên về có nhiều đường, nhiều phía. Đánh địch cũng dễ vì chỉ cần vận động trong thời gian ngắn là có thể đến được nơi cần đến”[17] nên có nhiều ưu thế để cơ quan đầu não kháng chiến tỉnh chọn đây làm nơi đứng chân của mình để lãnh đạo kháng chiến.

*Bệnh viện, cơ quan thông tin văn hóa, cơ quan Thành ủy Huế đóng ở Khe Cống, đồi 815.

Chiến khu Dương Hòa được thành lập một mặt vừa tạo điều kiện cho Đảng bộ và nhân dân Dương Hòa tiếp nhận sự chỉ đạo sát sao của Ban Lãnh đạo kháng chiến của Tỉnh ủy, Huyện ủy, mặt khác cũng đặt ra cho cán bộ, đảng viên và nhân dân Dương Hòa những nhiệm vụ hết sức nặng nề, đó là phải trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ an toàn tuyệt đối cho chiến khu và phải tổ chức các hoạt động đảm bảo việc vận chuyển, tiếp tế lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm cho chiến khu.

Trong những ngày đầu mới thành lập, Chiến khu Dương Hòa dựa vào sự che chở, tiếp tế của nhân dân các làng khắp Hương Thủy, Hương Trà cũng như thị xã Huế để duy trì hoạt động.

Hàng hóa trung chuyển từ đồng bằng lên Chiến khu Dương Hòa để chi viện cho các cơ quan cách mạng đều tập kết cạnh miếu Ngũ Hành, ở thôn Hạ (một thôn của Dương Hòa). Với vai trò, vị trí trọng yếu như vậy đối với chiến khu, khu vực này được xem như là chợ kháng chiến của ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp xâm lược[18]. Hoạt động của chợ kháng chiến Dương Hòa thời kì này rất tấp nập. Gần như mọi thứ hàng hóa phục vụ nhu cầu thiết yếu cho đời sống cán bộ, nhân dân đều có ở đây. Ngay cả khi địch tiến hành ngăn chặn, cô lập Chiến khu Dương Hòa khốc liệt, chợ kháng chiến Dương Hòa vẫn tiếp tục duy trì hoạt động. Nhiều đoàn dân công từ Dương Hòa lên, về thành phố tiếp tế lương thực, thực phẩm để nuôi cán bộ, bộ đội; nhiều con em Dương Hòa đã phải hi sinh vì bom đạn của địch hoặc bị bắt bớ tù đày trong quá trình vận chuyển các nhu yếu phẩm tiếp tế cho chiến khu, song vẫn một lòng trung thành với cách mạng; có nhiều chị; nhiều mẹ tháng tháng, ngày ngày nuôi giấu cán bộ, nuôi dưỡng thương binh, không một chút suy tính[19].

Video liên quan

Chủ đề