Có bao nhiêu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật

1. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất

Bắt đầu vào khoảng năm 1784. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất này là việc sử dụng năng lượng nước, hơi nước và cơ giới hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp này được đánh dấu bởi dấu mốc quan trọng là việc James Watt phát minh ra động cơ hơi nước năm 1784. Phát minh vĩ đại này đã châm ngòi cho sự bùng nổ của công nghiệp thế kỷ 19 lan rộng từ Anh đến châu Âu và Hoa Kỳ.

Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại – kỷ nguyên sản xuất cơ khí, cơ giới hóa. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thay thế hệ thống kỹ thuật cũ có tính truyền thống của thời đại nông nghiệp (kéo dài 17 thế kỷ), chủ yếu dựa vào gỗ, sức mạnh cơ bắp (lao động thủ công), sức nước, sức gió và sức kéo động vật bằng một hệ thống kỹ thuật mới với nguồn động lực là máy hơi nước và nguồn nguyên, nhiên vật liệu và năng lượng mới là sắt và than đá. Nó khiến lực lượng sản xuất được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, tạo nên tình thế phát triển vượt bậc của nền công nghiệp và nền kinh tế. Đây là giai đoạn quá độ từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền sản xuất cơ giới trên cơ sở khoa học. Tiền đề kinh tế chính của bước quá độ này là sự chiến thắng của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, còn tiền đề khoa học là việc tạo ra nền khoa học mới, có tính thực nghiệm nhờ cuộc cách mạng trong khoa học vào thế kỷ XVII.

2. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 2 diễn ra từ khoảng năm 1870 đến khi Thế Chiến I nổ ra. Đặc trưng của cuộc cách mạng công nghiệp lần này là việc sử dụng năng lượng điện và sự ra đời của các dây chuyền sản xuất hàng loạt trên quy mô lớn. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra khi có sự phát triển của ngành điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép, và (đặc biệt) là sản xuất và tiêu dùng hàng loạt. Cuộc CMCN lần thứ 2 đã tạo nên những tiền đề mới và cơ sở vững chắc để phát triển nền công nghiệp ở mức cao hơn nữa.

Cuộc cách mạng này được chuẩn bị bằng quá trình phát triển 100 năm của các lực lượng sản xuất trên cơ sở của nền sản xuất đại cơ khí và bằng sự phát triển của khoa học trên cơ sở kỹ thuật. Yếu tố quyết định của cuộc cách mạng này là chuyển sang sản xuất trên cơ sở điện - cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa cục bộ trong sản xuất, tạo ra các ngành mới trên cơ sở khoa học thuần túy, biến khoa học thành một ngành lao động đặc biệt. Cuộc cách này đã mở ra kỷ nguyên sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện và dây chuyền lắp ráp. Công nghiệp hóa thậm chí còn lan rộng hơn tới Nhật Bản sau thời Minh Trị Duy Tân, và thâm nhập sâu vào nước Nga, nước đã phát triển bùng nổ vào đầu Thế Chiến I. Về tư tưởng kinh tế - xã hội, cuộc cách mạng này tạo ra những tiền đề thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở quy mô thế giới.

3. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 3 xuất hiện vào khoảng từ 1969, với sự ra đời và lan tỏa của công nghệ thông tin (CNTT), sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng này thường được gọi là cuộc cách mạng máy tính hay cách mạng số bởi vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính, máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990).

Cuộc cách mạng này đã tạo điều kiện tiết kiệm các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực xã hội, cho phép chi phí tương đối ít hơn các phương tiện sản xuất để tạo ra cùng một khối lượng hàng hóa tiêu dùng. Kết quả, đã kéo theo sự thay đổi cơ cấu của nền sản xuất xã hội cũng như những mối tương quan giữa các khu vực I (nông - lâm - thủy sản), II (công nghiệp và xây dựng) và III (dịch vụ) của nền sản xuất xã hội. Làm thay đổi tận gốc các lực lượng sản xuất, cuộc Cách mạng KH&CN hiện đại đã tác động tới mọi lĩnh vực đời sống xã hội loài người, nhất là ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển vì đây chính là nơi phát sinh của cuộc cách mạng này.

4. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư) xuất phát từ khái niệm “Industrie 4.0” trong một báo cáo của chính phủ Đức năm 2013. “Industrie 4.0” kết nối các hệ thống nhúng và cơ sở sản xuất thông minh để tạo ra sự hội tụ kỹ thuật số giữa Công nghiệp, Kinh doanh, chức năng và quy trình bên trong.

Cuộc Cách mạng Công nghiệp Thứ tư đang nảy nở từ cuộc cách mạng lần ba, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học. Khi so sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, 4.0 đang tiến triển theo một hàm số mũ chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó đang phá vỡ hầu hết ngành công nghiệp ở mọi quốc gia. Và chiều rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển đổi của toàn bộ hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị.

Những yếu tố cốt lõi của Kỹ thuật số trong CMCN 4.0 sẽ là: Trí tuệ nhân tạo (AI), Vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data). Trên lĩnh vực công nghệ sinh học, Cách mạng Công nghiệp 4.0 tập trung vào nghiên cứu để tạo ra những bước nhảy vọt trong Nông nghiệp, Thủy sản, Y dược, chế biến thực phẩm, bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, hóa học và vật liệu. Cuối cùng là lĩnh vực Vật lý với robot thế hệ mới, máy in 3D, xe tự lái, các vật liệu mới (graphene, skyrmions…) và công nghệ nano.

Hiện Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra tại các nước phát triển như Mỹ, châu Âu, một phần châu Á. Bên cạnh những cơ hội mới, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đặt ra cho nhân loại nhiều thách thức phải đối mặt.

Mặt trái của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là nó có thể gây ra sự bất bình đẳng. Đặc biệt là có thể phá vỡ thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế lao động chân tay trong nền kinh tế, khi robot thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, hàng triệu lao động trên thế giới có thể rơi vào cảnh thất nghiệp, nhất là những người làm trong lĩnh vực bảo hiểm, môi giới bất động sản, tư vấn tài chính, vận tải.

Báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới đã đặt ra vấn đề này theo các giai đoạn khác nhau. Giai đoạn đầu tiên sẽ là thách thức với những lao động văn phòng, trí thức, lao động kỹ thuật. Giai đoạn tiếp theo sẽ là lao động giá rẻ, có thể sẽ chậm hơn. Với sự chuyển động của cuộc cách mạng này, trong khoảng 15 năm tới thế giới sẽ có diện mạo mới, đòi hỏi các doanh nghiệp thay đổi. Sau đó, những bất ổn về kinh tế nảy sinh từ Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ dẫn đến những bất ổn về đời sống. Hệ lụy của nó sẽ là những bất ổn về chính trị. Nếu chính phủ các nước không hiểu rõ và chuẩn bị đầy đủ cho làn sóng công nghiệp 4.0, nguy cơ xảy ra bất ổn trên toàn cầu là hoàn toàn có thể. Bên cạnh đó, những thay đổi về cách thức giao tiếp trên Internet cũng đặt con người vào nhiều nguy hiểm về tài chính, sức khoẻ. Thông tin cá nhân nếu không được bảo vệ một cách an toàn sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường.

Cách mạng công nghiệp lần 4 mang đến cơ hội, và cũng đầy thách thức với nhân loại.

Vũ Việt Hoàng

CÁCH MẠNG KHOA HỌC KĨ THUẬTCách mạng khoa học - kỹ thuật là là một khái niệm nói về những phát triểnmang tính vượt bậc và bước ngoặt của khoa học và kỹ thuật diễn ra từ giữa thếkỷ 20, hoặc sau khi Thế chiến thứ hai (1939-45) kết thúc. Trên thực tế, "Cáchmạng khoa học - kỹ thuật" là một khái niệm mới ra đời trong thế kỷ 20 và nộidung của khái niệm này có nhiều điều chưa được thống nhất trong giới học giảnói chung.1. Cuộc cách mạng khoa học đầu tiên:Thời điểm: Đầu thế kỷ XVII - Nửa đầu thế kỷ XVIIIPhạm vi: Tây ÂuTrung tâm: Anh, Pháp, Hà Lan, Italia, ĐứcCác lĩnh vực: Vật lý học, Toán học, Sinh vật học, Hoá học…Tiền đề của cuộc cách mạng này không gì khác, chính là những thành tựu khoahọc và kỹ thuật của tất cả các thời kỳ trước cộng lại, nhất là sự kế thừa củathiên văn học, toán học, vật lý học…Trước tiên cần trở về với Nicolaus Copernicus và tác phẩm Về sự vận động củanhững hành tinh mang tên ông, xuất bản năm 1540. Qua đó, ông chứng minhrằng Mặt Trời chứ không phải Trái Đất là trung tâm của vũ trụ, đánh đòn chímạng vào hệ thống Địa tâm (Trái Đất là trung tâm của vụ trụ) của Ptolémeévốn đã thống trị hàng ngàn năm nay. Bị giáo hội Cơ đốc cấm đoán, học thuyếtcủa ông dường như đông lạnh. Bruno lên tiếng đấu tranh cho khoa học và bịkết án tử thiêu. Chưa bao giờ khoa học lại bị đối xử bạo tàn và nghiệt ngã đếnthế. Chẳng bao lâu sau, Kepler (nhà bác học người Đức) đã chứng minh cho sựđúng đắn của tư tưởng Copernicus. Nhưng chỉ đến khi Galileé xuất bản cuốnĐàm thoại về hai hệ thống Ptolémeé và Copernicus (năm 1632), trong đó làmnổi bật tính khoa học của hệ thống Copernicus, thì mọi chuyện dường như mớingã ngũ, sự thật đã được chấp nhận. Chân lý trả về khoa học. Galileé cũng làngười đầu tiên dùng kính viên vọng quan sát bầu trời, lập ra vật lý học thựcnghiệm, đặt cơ sở cho môn Động lực học và xây dựng phương pháp thựcnghiệm khoa học.Năm 1687, I.Newton viết tác phẩm Những nguyên lý toán học của triết học tựnhiên, đã hệ thống hoá những thành tựu của các nhà khoa học đi trước, trongđó có ba định luật về sự chuyển động các hành tinh của Kepler, đồng thời đưara định luật vạn vật hấp dẫn (lực hút). Ngoài ra, ông còn có cống hiến to lớncho ngành quang học, toán học và là người đồng thời phát minh ra phép tính viphân cùng với Leubniz (nhưng hai nhà bác học hoàn toàn nghiên cứu độc lập,không hề trao đổi gì trong quá trình sáng tạo).Được chứng kiến sự thay đổi ngoạn mục của tri thức khoa học đương thời khiếnDescartes không tin vào những gì đã biết. Ông nghi ngờ tất cả! Còn nhữngthành tựu khoa học to lớn kia, trong đó có phần đóng góp đáng kể trí lực củaông thì sao? Chẳng lẽ lý trí của con người lại bất lực, không thể nhận thức chânlý ? Ông bừng tỉnh, nhắc nhở rằng: “Chúng ta phải tin vào lý trí của chúng ta”.Và ông tiếp tục bước lên các nấc thang của con đường khoa học, buông câutriết lý lừng danh: “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.Sang thế kỷ XVIII, những thành tựu to lớn tiếp tục nảy nở trên các lĩnh vực, đặtbiệt là việc thực hiện những phản ứng nguyên tử trong hoá học, đồng thời khoahọc bắt đầu có những thành tựu làm cơ sở để tìm tòi đi vào thế giới vi mô, nổibật ở các ngành: Vật lý học, Toán học, Sinh Vật học, Hoá học… với sự cống hiếncủa các nhà bác học tên tuổi như: Euler, d’Alembert, Bernouli, Laplace, F.Ray,K.Linné, B.Lamark, Cuvier, Lavoisier, Galvani, Dalton…Nhưng cuộc cách mạng khoa học diễn ra vào thời điểm từ thế kỷ XVII đến nửađầu thế kỷ XVIII chưa ảnh hưởng mạnh đối với kỹ thuật, phần lớn thành tựumang tác dụng lý giải quy luật tự nhiên và cải tiến kỹ thuật của các thế kỷtrước. Những cuộc cách mạng khoa học sau này sẽ gắn chặt với kỹ thuật, nênđồng thời với cách mạng khoa học đó chính là cách mạng khoa học - kỹ thuật,cách mạng sản xuất – công nghiệp.2. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ hai:Thời điểm: Đầu thế kỷ XVIII - Nửa đầu thế kỷ XIXPhạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ.Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ.Các lĩnh vực: Giao thông - vận tải, thông tin – liên lạc, sản xuất công nghiệp…Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, hệ thống khoa học cơ bản cổ điển đãđược xác lập, hoàn thành cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất trong lịch sửxã hội loài người, là tiền đề trực tiếp mở ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuậtnửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX. Đây cũng đồng thời là cuộc cáchmạng công nghiệp diễn ra mạnh mẽ ở Tây Âu.Những thành tựu có ý nghĩa như máy hơi nước (1712, do công của NewComen, người Anh), được James Wat hoàn thiện thành động cơ chạy bằng thanvà nước (năm 1784). Năm 1764, James Hargrever phát minh ra máy kéo sợi vànăm 1785 Exmon Carryter sáng chế ra máy dệt, đưa năng suất tăng lên gấp39 lần. Ngành luyện kim cũng mở ra chương mới khi Abraham Dary lần đầutiên dùng than cốc để nấu gang (1709), sau đó, hai cha con ông đã đưa nó vàosản xuất công nghiệp (1735). Đến 1784, Henry Cart và Onios đã luyện gangthành thép, một loại hợp kim cực kỳ quan trọng trong nền đại công nghiệp sắpsửa ló rạng. Trong lĩnh vực giao thông liên lạc, tàu hơi nước vượt đại dương đivào hoạt động (1815), trọng tải đạt hàng ngàn tấn. Năm 1814, Stephenson chếtạo tàu hoả chạy bằng hơi nước và sau đó tuyến đường sắt đầu tiên được xâydựng nối liền Darlington với Stockton ở nước Anh (1825). Đến 1858, thế giới đãcó 40.000 km đường sắt, trong đó Mỹ chiếm 40%. Phát minh ra điện báo (1832– 1835) của Samuel Mores cũng mang một ý nghĩa lịch sử cho sự ra đời củangành thông tin liên lạc trong thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩađang phát triển ào ạt. Năm 1851 đã có cáp quang qua biển Manche và đườngcáp qua Đại Tây Dương.Những thành tựu trên (trong thế kỷ XVIII) có ý nghĩa bước ngoặt trong các lĩnhvực mà khoa học gắn với kỹ thuật làm biến đổi ngành dệt may, giao thông,thông tin liên lạc, luyện kim, chế tạo máy… Từ đó hình thành nên hệ thống kỹthuật mới dựa trên máy hơi nước, than đá và sắt thép thay thế cho hệ thống kỹthuật trước đó chủ yếu dựa vào cơ bắp, sức nước và sức của động vật. Sangthế kỷ XIX, những thành tựu đó tiếp tục được cải tiến, cùng với sự ra đời cácphương tiện và công cụ sản xuất mới, tạo ra hệ thống máy móc ứng dụng vàosản xuất và đời sống, định hình nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa và xãhội công nghiệp ở các nước Anh, Pháp, Mỹ và sau này là hàng loạt các nướcTây Âu. Từ đây, xã hội công nghiệp đã thật sự trở thành một dòng chảy mớicủa nền văn minh, gõ cửa xông vào các quốc gia – dân tộc đang ở trong tìnhtrạng tiền công nghiệp.3. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ ba:Thời điểm: Cuối thế kỷ XIX - Nửa đầu thế kỷ XXPhạm vi: Châu Âu, Bắc Mỹ, Đông Á.Trung tâm: Tây Âu, Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản.Các lĩnh vực: Chế tạo máy, giao thông – liên lạc, vật liệu, năng lượng…Khi hệ thống kỹ thuật dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép truyền thốngđã tận dụng hết công suất của mình, nền công nghiệp muốn nhảy vọt thì phảicần đến một hệ thống kỹ thuật mới hiệu quả hơn, thôi thúc các ngành khoahọc – kỹ thuật sáng tạo nên những thành tựu thật xứng đáng trước các yêu cầucháy bỏng từ công cuộc phát triển chung của xã hội loài người – yêu cầu côngnghiệp hoá, xây dựng hình mẫu xã hội công nghiệp phát triển.Cái gì cần sáng tạo đã được sáng tạo: Năm 1862, Jean Leneir chế được xe chạybằng động cơ đốt trong; năm 1869, G.T.Grammer chế ra máy phát điện mộtchiều dyamo, sau đó là máy phát điện xoay chiều (1877); A.G.Bell phát minh ramáy điện thoại (1876), sau đó G.Marconi đã phát triển để liên lạc bằng sóngđiện từ giữa hai bờ biển Manche (1897); năm 1878 – 1879, J.Suan và T.Edisonphát minh ra bóng điện; năm 1895 động cơ diesel ra đời, để đến năm 1898 kỷnguyên ô tô xuất hiện (khi lần đầu tiên loài người được biết đến cuộc triển lãmô tô vào năm đó); năm 1903 – 1909, từ máy bay của anh em nhà Wringt (Mỹ)đến máy bay của Blériot (Pháp), đã mở ra thời đại hàng không… Ngoài ra,hàng loạt những thành tựu khác trên nhiều lĩnh vực đã hình thành nên một hệthống ký thuật mới dựa vào điện, dầu mỏ và hợp kim thay thế cho hệ thống kỹthuật trước đó dựa vào máy hơi nước, than đá và sắt thép; đồng thời làm xuấthiện thêm nhiều loại máy công cụ và phương tiện, vật liệu, hoá chất… thúcđẩy sản xuất và kinh tế phát triển lên một tầm cao mới – xác lập vững chắcnền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.Đáng chú ý nữa, đó là việc phát hiện ra hiện tượng phóng xạ của H.Becquerel(năm 1896) và của Mary Quyry (năm 1898) đã chỉ ra những khiếm khuyết lớntrong các định luật cơ bản của nền vật lý học cổ điển, đồng thời cho thấynguyên tử không phải là thành phần nhỏ nhất và không thể chia cắt của vậtchất. Cuộc khủng hoảng trong vật lý học diễn ra từ đó. Nhưng không lâu sau đãđược giải quyết bởi M.Planck thông qua Thuyết Lượng tử (năm 1900),A.Einstien thông qua Thuyết Tương đối (năm 1905) và cơ học lượng tử sau đó(1925 – 1926).Một trong những đặc điểm đáng lưu ý trong nền đại công nghiệp là dây chuyềnsản xuất hàng loạt - áp dụng nguyên lý quản trị của F.W.Taylor (đề xuất năm1909, ứng dụng vào thực tiễn năm 1913 – hãng Ford di tiên phong).Nhưng cũng chính từ nền đại công nghiệp gắn liền với phương thức sản xuất tưbản chủ nghĩa mà nhân loại phải gánh chịu những hệ luỵ kinh hoàng bởi haicuộc đại chiến thế giới (1914 – 1918 và 1939 – 1945), đồng thời làm cho đàphát triển khoa học - kỹ thuật chậm đi, mặc dù vẫn đạt được những tiến bộ tolớn như: Kỹ thuật hạt nhân, cùng nhiều phương tiện và công cụ hiện đại nhằmmục tiêu quân sự. Một khi đem chúng sử dụng vào mục đích chiến tranh thìhậu quả thật khủng khiếp.Nói tóm lại, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ ba đã đưa nhân loạilên trình độ văn minh công nghiệp, hay nói chính xác hơn, xác lập nên phươngthức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại, mà biểu hiện ra là nền sản xuất côngnghiệp tiên tiến, có khả năng tạo ra nguồn của cải vật chất và tinh thần đồ sộcho nhân loại. Nhưng cái giá phải trả quá đắt: Hai cuộc đại chiến thế giới đãhuỷ diệt 80 triệu con người, trong đó phải kể đến hai quả bom nguyên tử dộixuống Nagazaki và Hirosima (8/1945). Đồng thời, nó rung chuông cảnh báo vềmục đích sử dụng và năng lực làm chủ các thành tựu khoa học - kỹ thuật trêncon đường nhân loại đi về phía trước.***Trên đây, chỉ là sự lược tả một số nội dung, thành tựu cơ bản về khoa học và kỹthuật trong lịch sử, với ba giai đoạn phát triển mang tính cách mạng. Từ cuộccách mạng lần thứ ba trở đi, khoa học ngày càng gắn liền với kỹ thuật, đồngthời khoa học - kỹ thuật nhanh chóng trở thành yếu tố của công nghệ trongsản xuất, tạo ra sự thay đổi vượt bậc trong nền sản xuất vật chất và tinh thầncủa xã hội, đưa nền kinh tế nông nghiệp bao phủ xã hội loài người hàng xưanay lên nền kinh tế công nghiệp. Bước sang đầu thế kỷ XX, xã hội công nghiệpkhông chỉ được hình thành ở Anh, Pháp, Mỹ mà còn cả ở Liên Xô, Nhật, nhiềunước ở châu Âu.Tuy nhiên, cần phải chờ đến cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ tư, khikhoa học - kỹ thuật trở thành công nghệ, biểu hiện ra trên thực tế là cuộc cáchmạng khoa học – công nghệ đương đại, thì không những nền sản xuất côngnghiệp biến đổi về chất, mà cả đời sống con người - trên mọi phương diện cũng biến đổi sâu sắc hơn bao giờ hết. Nền văn minh con người đang rungchuyển, thay đổi và đổi thay với tốc độ chóng mặt• Con người đã có những giải pháp hạn chế các tác động tiêu cựccủa cmkhkt : Cùng nhau xây dựng môi trường xanh-sạch-đẹp ở mọi nơimọi lúc,cấm sản xuất vũ khí hạt nhân,cắt giảm các khí gây hiệu ứng nhà kính,hạn chế chất thải độc hại...bảo vệ những động vật quý hiếm đẻ bảo tồn và phát triển chophù hợpquy luật sinh tồn của tự nhiên.

Video liên quan

Chủ đề