Các yếu tố tác động đến ngành ngân hàng

(KTSG) – Dù dịch Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ lên nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng trong năm 2021, áp lực trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cho nợ xấu, nợ tái cơ cấu gia tăng về cuối năm, nhưng nhìn chung các ngân hàng tiếp tục có một năm duy trì đà tăng trưởng. Đâu là những yếu tố tác động đến lợi nhuận của các ngân hàng trong năm vừa qua?

Dù đã chủ động cắt giảm hơn 7.000 tỉ đồng lợi nhuận để triển khai hiệu quả nhiều giải pháp hỗ trợ khách hàng, nhưng lợi nhuận trước thuế riêng lẻ của VietinBank năm 2021 vẫn vượt mục tiêu kế hoạch đại hội đồng cổ đông giao cho ở mức 16.800 tỉ đồng. Ảnh: N.K

Tiếp tục phân hóa

Ngay từ những ngày đầu năm nay, nhóm các ngân hàng thương mại (NHTM) gốc quốc doanh đã sớm hé lộ kết quả lợi nhuận năm 2021 tại các buổi hội nghị triển khai nhiệm vụ kinh doanh năm 2022. Đơn cử như Vietcombank, với mục tiêu lợi nhuận trước thuế 25.200 tỉ đồng đặt ra cho năm 2021, ngân hàng này cho biết đã hoàn thành kế hoạch, dù trong năm đã trích 7.000 tỉ đồng lợi nhuận để giảm lãi suất cho vay, gấp hai lần quy mô hỗ trợ năm 2020. Tuy nhiên, kết quả này chỉ tăng nhẹ so với mức lãi trước thuế 23.000 tỉ đồng trong năm 2020.

Tương tự, VietinBank cũng đã chủ động cắt giảm hơn 7.000 tỉ đồng lợi nhuận để triển khai hiệu quả nhiều giải pháp hỗ trợ khách hàng, nhưng lợi nhuận trước thuế riêng lẻ vẫn vượt mục tiêu kế hoạch đại hội đồng cổ đông giao cho ở mức 16.800 tỉ đồng. Còn Agribank đạt lợi nhuận hơn 14.000 tỉ đồng trong năm 2021, trong khi số tiền hỗ trợ khách hàng là 7.000 tỉ đồng. Lãnh đạo Ngân hàng BIDV cũng cho biết lợi nhuận ngân hàng đạt mục tiêu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) giao là 13.000 tỉ đồng, dù cũng đã dành 7.900 tỉ đồng lợi nhuận hỗ trợ khách hàng. Nếu so với mức lãi trước thuế hơn 9.000 tỉ đồng của năm trước, lợi nhuận của BIDV tăng khá tốt là hơn 44%.

Việc tích cực trích lập dự phòng trong năm 2021 không chỉ giúp kết quả kinh doanh của các ngân hàng phản ánh thực chất hơn, mà còn hạn chế những chỉ trích nhắm vào ngành ngân hàng thời gian qua về việc các ngân hàng lãi lớn trong khi nền kinh tế và doanh nghiệp vẫn khó khăn.

Trong khi nhóm NHTM gốc quốc doanh phải chia sẻ nguồn lực để hỗ trợ khách hàng, ảnh hưởng đáng kể lên tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, nhóm NHTM cổ phần tư nhân lại chứng kiến sự phân hóa khá lớn về kết quả kinh doanh. Ở nhóm tăng trưởng mạnh mẽ, có thể kể đến MSB đạt lợi nhuận trước thuế 5.168 tỉ đồng, tăng vọt 110% so với năm 2020; LienVietPostBank đạt 3.638 tỉ đồng, tăng 50%; VIB lãi 8.000 tỉ đồng, tăng 38%; TPBank lãi 6.038 tỉ đồng, tăng 38%; Sacombank lãi 4.400 tỉ đồng, tăng 32%.

Ở nhóm ngân hàng có quy mô nhỏ hơn cũng cho thấy sự khởi sắc trở lại sau giai đoạn khó khăn những năm trước đây. Như ABBank có lãi trước thuế đạt 1.959 tỉ đồng, tăng 40% so với năm 2020; Bản Việt lãi 311 tỉ đồng, tăng 55%; PGBank lãi 329 tỉ đồng, tăng mạnh 55%; Bắc Á Bank lãi 908 tỉ đồng, tăng 24%; Saigon Bank lãi 154 tỉ đồng, tăng 27%. Ngược lại, ở chiều đi xuống chứng kiến EIB giảm 18% lợi nhuận trước thuế xuống còn 1.100 tỉ đồng, NCB lãi vỏn vẹn 2,3 tỉ đồng, giảm hơn 38% so với năm 2020.

Có thể thấy lợi nhuận năm 2021 của các ngân hàng đã công bố cho thấy trong khi có những ngân hàng vẫn duy trì được phong độ, lại có ngân hàng ghi nhận sụt giảm mạnh, thậm chí chỉ còn lãi vài tỉ đồng.

Những yếu tố tác động

Đầu tiên phải kể đến việc các ngân hàng tiếp tục tăng cường trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong năm 2021, không chỉ cho nợ xấu gia tăng mà còn cho các khoản vay tái cơ cấu, do Thông tư 14/2021/TT-NHNN đã yêu cầu các ngân hàng phải trích lập tối thiểu 30% đối với nợ tái cơ cấu cho khách hàng ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 ngay trong năm 2021. Hệ quả là nhiều ngân hàng chứng kiến con số trích lập dự phòng khá lớn vào cuối năm và ảnh hưởng đáng kể lên lợi nhuận quí 4 nói riêng và cả năm 2021 nói chung.

Cụ thể, trong năm 2021, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của LienVietPostBank tăng vọt 89% lên hơn 1.300 tỉ đồng so với năm 2020. Hay như TPBank phải trích lập hơn 2.900 tỉ đồng, tăng 63%, còn ABBank cũng tăng trích lập 34% lên con số 685 tỉ đồng. Thậm chí nhiều ngân hàng vì dồn trích lập vào cuối năm đã khiến quí 4 phải ghi nhận lỗ, như SaiGon Bank trích lập gần 113 tỉ đồng nên lỗ hơn 40 tỉ đồng, còn Bản Việt trích lập gần 128 tỉ đồng kéo quí 4 lỗ hơn 74 tỉ đồng.

Ngoài ra, trường hợp tại NCB trích lập riêng trong quí 4 là 423 tỉ đồng, trong đó phần lớn là các khoản xử lý theo đề án tái cấu trúc lên đến 326 tỉ đồng, dẫn đến lỗ trước thuế quí 4 hơn 203 tỉ đồng. Tương tự, lợi nhuận của Bắc Á Bank và PGBank cũng đi lùi trong quí 4 do phải tăng gấp đôi, gấp ba dự phòng rủi ro tín dụng.

Tuy nhiên, việc tích cực trích lập dự phòng trong năm 2021 có lẽ là điều cần thiết đối với các ngân hàng, không chỉ giúp kết quả kinh doanh của các ngân hàng phản ánh thực chất hơn, mà còn hạn chế những chỉ trích nhắm vào ngành ngân hàng thời gian qua về việc các ngân hàng lãi lớn trong khi nền kinh tế và doanh nghiệp vẫn khó khăn.

Thứ hai là cũng giúp các ngân hàng gia tăng bộ đệm dự phòng như là một “của để dành” cho tương lai khi thu hồi, xử lý được các khoản nợ này. Như BIDV đã có tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên đến 235%, mức cao nhất trong các năm gần đây. Còn tỷ lệ này tại Vietcombank đã đạt kỷ lục 424%, cao nhất ngành ngân hàng, theo đó ngân hàng này đã trích lập đủ cho nợ cơ cấu vì Covid-19 trước hai năm so với thời hạn. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của VietinBank cũng cải thiện hết sức tích cực ở mức 171%, tiếp tục lên mức cao hơn so với năm 2020.

Đáng lưu ý là dù các ngân hàng đã phải hy sinh một phần lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng cũng như phục vụ cho mục tiêu giảm lãi suất cho vay trong năm 2021, nhưng tăng trưởng tín dụng cao đã phần nào bù đắp lại được phần lợi nhuận bị mất đi này. Dù nhu cầu vay vốn trong năm 2021 khá chậm trong những tháng đầu năm, nhưng càng về cuối năm hoạt động tín dụng của các ngân hàng càng sôi động hơn, cá biệt có những ngân hàng đã ngược dòng tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ ngay từ đầu năm và liên tiếp được nới hạn mức tăng trưởng tín dụng trong năm.

Có thể thấy nhóm tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ cũng nằm trong nhóm đạt được tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao, như LienVietPostBank và TPBank đều có mức tăng trưởng tín dụng 18% trong năm 2021, trong khi Bản Việt là 16%. Ở nhóm NHTM gốc quốc doanh, Vietcombank đạt tăng trưởng tín dụng 15%, VietinBank 12,3% còn BIDV cũng tăng 11,8% lên mức 1,33 triệu tỉ đồng.

Ở mảng dịch vụ chứng kiến sự chuyển dịch quan trọng từ các nguồn thu, trong đó đóng góp lớn nhất là phí thu từ hoạt động bảo hiểm và thanh toán, đặc biệt là các dịch vụ trực tuyến trong bối cảnh dịch bệnh năm vừa qua đã làm thay đổi hành vi giao dịch của khách hàng. Đơn cử như ngân hàng có hoạt động chuyển đổi số mạnh mẽ nhất trong những năm qua là TPBank đã chứng kiến lãi từ hoạt động dịch vụ năm 2021 lên đến hơn 1.500 tỉ đồng, tăng mạnh 65% so với năm trước. Con số này cũng đóng góp hơn 25% lợi nhuận trước thuế của ngân hàng này. Hay như ABBank cũng chứng kiến mảng thu dịch vụ tăng trưởng đến 81%, còn PGBank là 61%.

Các hoạt động khác cũng ghi nhận thu nhập tăng trưởng mạnh mẽ. Như ở hoạt động kinh doanh ngoại hối, LienVietPostBank ghi nhận lãi thuần tăng 124%; ABBank tăng 36% còn SaiGonBank và Bắc Á Bank tăng tương ứng là 27% và 24%, dù thị trường ngoại hối trong năm qua tiếp tục được kiểm soát ổn định với tiền đồng có những thời điểm bất ngờ tăng giá so với đô la Mỹ.

Hay như ở hoạt động đầu tư chứng khoán, hầu hết các ngân hàng đều chứng kiến lợi nhuận tăng trưởng mạnh mẽ khi mặt bằng lãi suất trái phiếu chính phủ trong năm qua tiếp tục giảm xuống mức thấp kỷ lục mới, thúc đẩy nhiều ngân hàng chốt lời các trái phiếu đã đầu tư ở mức lãi suất cao những năm trước đây. Như Bắc Á Bank có lãi thuần từ mua bán chứng khoán đầu tư tăng vọt 262%, PGBank tăng 167% và TPBank tăng 98%.

{{news.Source}} - {{news.Date | date:'dd/MM/yyyy hh:mm:ss'}}

Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở dữ liệu báo cáo tài chính được kiểm toán công bố trên website của 24 ngân hàng thương mại niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2017 – 2020, sử dụng mô hình hồi quy OLS với biến phụ thuộc là tỷ số lợi nhuận trên tài sản (ROA) – đại diện cho hiệu quả hoạt động và các biến phụ thuộc được chia thành yếu tố bên trong và bên ngoài. Kết quả cho thấy, ROA thuận chiều với quy mô tài sản và tỷ lệ cho vay trên tiền gửi của khách hàng; đồng thời, nghịch chiều với tỷ lệ chi phí hoạt động, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và sở hữu ngân hàng.

Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

Hiện nay, chưa có mô hình thống nhất nào trong việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Almajali và cộng sự (2012) cho rằng, có nhiều thước đo khác nhau về hoạt động tài chính. Cohen, Chang và Ledford (1997) đo lường lợi nhuận kế toán bằng cách sử dụng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) cho thấy, ROA được các nhà phân tích thị trường sử dụng rộng rãi như một thước đo hiệu quả tài chính, vì nó đo lường hiệu quả của tài sản trong việc tạo ra thu nhập. ROA là tỷ lệ chính để đánh giá lợi nhuận của ngân hàng bởi vì ROA không bị bóp méo bởi hệ số vốn chủ sở hữu cao trong khi đó lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu - ROE lại coi nhẹ các rủi ro về đòn bẩy tài chính, hay nói cách khác, ROE không đề cập đến các khoản nợ (Tadesse Wubie Abate1 và Enyew Alemaw Mesfin, 2019). Elouali Jaouad và Oubdi Lahsen (2018) nghiên cứu hiệu quả hoạt động của ngân hàng dựa ROA, ROE (biến phụ thuộc) và các tổ hợp biến động lập bao gồm: Yếu tố quyết định của ngân hàng, quản trị ngân hàng, các yếu tố quyết định mang tính vĩ mô. Rina Adi Kristianti và Yovin (2016) lựa chọn biến phụ thuộc là ROA, các biến độc lập là: tỷ lệ an toàn vốn, tính hoạt động hiệu quả, lãi cận biên, nợ xấu, tỷ lệ dư nợ tín dụng/vốn huy động.

Võ Minh Long (2019) lựa chọn ROE là nhân tố đo lường hiệu quả hoạt động của ngân hàng và kết quả nghiên cứu là chi phí trên doanh thu có tác động tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng; tỷ lệ tiền gửi/ tiền cho vay tác động cùng chiều. Hoàng Phạm Đình Vũ (2014) lập luận về mô hình giả thuyết nghiên cứu dựa trên mô hình của Wooldridge (2010) với biến phụ thuộc ROA. Hanh, H. T. (2021) sử dụng ROA để đo lường khả năng sinh lời của các ngân hàng và kết quả quy mô vốn và khoản vay có ảnh hưởng tích cực và đáng kể đến lợi nhuận của ngân hàng, quy mô tài sản, tiền gửi, rủi ro thanh khoản và nợ xấu có tác động tiêu cực và đáng kể đến lợi nhuận của ngân hàng.

Trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và các nghiên cứu trước có liên quan, nhóm tác giả của nghiên cứu này lựa chọn mô hình nghiên cứu phân tích định lượng.

Mô hình nghiên cứu:

ROAit = β0it + β1SIZEit + β2CIRit + β3NPLit + β4LDRit + β5CVTSit + β6CPIit + β7 SOBit

Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA): Tadesse và Enyew (2019), Rina và Yovin (2016), Mumtaz và Sajjad (2017), Hoàng Phạm Đình Vũ (2014) đã chỉ ra rằng ROA là yếu tố đáng tin cậy được sử dụng để đánh giá lợi nhuận của NHTM do ROA không chịu ảnh hưởng bởi tác động tài chính cao. ROA bằng lợi nhuận sau thuế chia cho tổng tài sản bình quân.

Quy mô (SIZE): Mashayekhi và Bazaz (2008), Azeez (2015) và Olokoyo (2013) chỉ ra rằng quy mô công ty có liên quan tích cực đến hiệu quả hoạt động của công. Ngược lại, Klapper & Love (2004) lại cho rằng công ty lớn hơn có thể hoạt động kém hiệu quả dẫn đến hoạt động kém hiệu quả. Ong & Teh (2013) không tìm thấy ảnh hưởng của quy mô đến hiệu quả hoạt động. Quy mô được tính bằng logarit tổng tài sản.

H1: Quy mô tài sản có tác động thuận chiều đối với hiệu quả hoạt động.

Hệ số chi phí hoạt động (CIR): CIR được tính bằng chi phí hoạt động chia cho thu nhập hoạt động. Elouali Jaouad và Oubdi Lahsen (2018) đưa ra kết luận về sự tác động nghịch chiều của tỷ lệ này đối với hiệu quả hoạt động, tuy nhiên Tze San và Teh Boon Heng (2013), Võ Minh Long (2019) lại có những kết luận ngược lại.

H2: Chi phí hoạt động tác động ngược chiều đối với hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Tỷ lệ nợ xấu (NPL): Tại Việt Nam, theo quy định của NHNN, nợ xấu được định nghĩa là những khoản nợ được phân loại vào nhóm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn. Trong đó, nợ xấu được phân loại theo hai tiêu chí là định lượng và định tính.

H3: Nợ xấu ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động ngân hàng.

Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi khách hàng (LDR): Theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-NHNN của NHNN, ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải duy trì tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi tối đa 85%. RAJINDRA và cộng sự (2021) chỉ ra, LDR có ảnh hưởng tích cực và không đáng kể đến tỷ suất sinh lợi trên tài sản, trong khi đó Hoàng Phạm Đình Vũ (2014) lại chỉ ra mối quan hệ thuận chiều giữa hai yếu tố này.

H4: Tỷ lệ cho vay trên huy động có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Tỷ lệ cho vay/Tổng tài sản: Tỷ lệ cho vay/Tổng tài sản đo lường tổng dư nợ cho vay theo tỷ lệ phần trăm của tổng tài sản. Sufian và Chong (2008) chỉ ra, tổng số khoản vay và số dự phòng rủi ro cho vay thể hiện mức độ rủi ro tín dụng cao cho thấy mức độ sinh lời thấp. Sastrosuwito và Suzuki (2012) giải thích rằng, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản cao có xu hướng làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng.

H5: Tỷ lệ cho vay/Tổng tài sản tác động thuận chiều đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Chỉ số CPI chính là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá, sự thay đổi của mức giá và có thể dùng nó để đánh giá lạm phát. Pasiouras và Kosmidou (2007) cho rằng, lạm phát có thể có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến lợi nhuận của các ngân hàng.

H6: Lạm phát có ảnh hưởng xấu đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Tính chất sở hữu (SOB): Việc ngân hàng sở hữu tư nhân hay sở hữu nhà nước sẽ có những khác biệt trong những quy định, điều lệ, do vậy, hoạt động của các ngân hàng này cũng ảnh hưởng bởi điều này. Phạm Hoàng Đình Vũ (2014), DUONG, T. T. N và cộng sự (2020) đưa ra những kết luận không thống nhất về ảnh hưởng của yếu tố sở hữu đến hiệu quả hoạt động. Biến này là biến giả với 1 là ngân hàng có vốn nhà nước trên 50% và 0 là còn lại.

H7: Hình thức sở hữu có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng.

Kết quả và thảo luận

Nghiên cứu tiến hành phân tích hồi quy OLS, tập trung vào mối quan hệ giữa một biến phụ thuộc và nhiều biến độc lập. Hệ số R2 của mô hình là 0,66 cho thấy, các yếu tố kinh tế lựa chọn giải thích được đến gần 67% mô hình nghiên cứu. Hệ số DW là 1,05, nằm trong khoảng 1-3 nên các phần sai số không có tương quan chuối bậc nhất với nhau, điều này có nghĩa là dữ liệu thu thập tương đối tốt. Kiểm định ANOVA – Kiểm định F: Các biến độc lập với giá trị sig của kiểm định t đều nhỏ hơn mức ý nghĩa 5% nên có thể kết luận các yếu tố này với vai trò là biến độc lập có ý nghĩa thống kê trong mô hình.

Kết quả cho thấy, tỷ lệ nợ xấu (NPL) và lạm phát (tỷ số giá tiêu dùng) là không có ý nghĩa thống kê. Quy mô tài sản có tác động thuận chiều với hiệu quả hoạt động, ngân hàng có quy mô tài sản càng lớn càng có nhiều khả năng mở rộng kinh doanh và chống đỡ được những biến cố thị trường đặc biệt năm 2020 khi bệnh dịch COVID-19 gây ra nhiều tác động tiêu cực đến các ngành kinh tế.

Kết luận hỗ trợ những khẳng định của Elouali Jaouad và Oubdi Lahsen (2018), Hanh, H. T. (2021). Tỷ lệ cho vay trên tiền gửi của khách hàng tỷ lệ thuận với ROA có nghĩa là, tỷ lệ này càng lớn thì hiệu quả hoạt động ngân hàng càng cao. Hay nói cách khác, ngân hàng càng mở rộng cho vay nhiều hơn huy động vốn sẽ đem lại phần chênh lêch từ lãi vay và lãi tiền gửi càng lớn, dẫn đến lợi nhuận cao. Điều này cũng tương đồng với các nghiên cứu trước của Võ Minh Long (2019).

Ngược lại, tỷ lệ chi phí hoạt đông, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và hình thức sở hữu tác động ngược chiều với hiệu quả hoạt động. Cụ thể, tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập từ hoạt động càng tăng thì càng ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, tỷ lệ càng thấp thì càng cho thấy ngân hàng hoạt động hiệu quả (do tốn ít chi phí hoạt động hơn để tạo ra một đồng doanh thu). Đáng chú ý, trong giai đoạn 2017 – 2020, hệ số chi phí hoạt động CIR các ngân hàng có xu hướng giảm lý do là việc giãn cách xã hội trong năm 2020 kéo dài đến 2021 nhiều địa phương cũng khiến nhiều hoạt động truyền thống và trực tiếp của ngân hàng suy giảm, nhân viên nghỉ luân phiên, quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ giúp thay thế một phần con người cũng giúp ngân hàng cắt giảm chi phí đặc biệt là chi phí lương. Tương tự, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản cũng tác động ngược chiều với ROA. Sở hữu ngân hàng cũng là một yếu tố tác động nghịch với hiệu quả hoạt động.

Kết quả phân tích hồi quy cho thấy, quy mô (SIZE), tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động (CIR), tỷ lệ cho vay trên tiền gửi (LDR), tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản và sở hữu (SOB) có tác động đến hiệu quả hoạt động của các NHTM và có ý nghĩa thống kê. Từ đây, nhóm nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM Việt Nam gồm: (i) Tăng quy mô tài sản ngân hàng; (ii) Tăng cường cho vay nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động từ khoản thu chệnh lệch lãi cho vay và huy động; (iii) Giảm các chi phí hoạt động bằng cách đẩy mạnh ngân hàng số, tiết kiệm chi phí con người và vật chất; (iv) Đảm bảo tỷ lệ cho vay trên tài sản nhằm đảm bảo an toàn hoạt động và thanh khoản cho ngân hàng.

Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn, V. H. (2008), Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân;

2. DUONG, T. T. N., PHAN, H. T., HOANG, T. N., & VO, T. T. T. (2020), The effect of financial restructuring on the overall financial performance of the commercial banks in Vietnam, The Journal of Asian Finance, Economics, and Business, 7(9), 75-84;

3. Hanh, H. T. (2021), Analyzing Accounting Profit of Vietinbank under Effects of Internal Factors-A Case Study in Vietnam Listed Banks, Turkish Journal of Computer and Mathematics Education (TURCOMAT), 12(12), 4003-4010;

4. Cohen, S. G., Chang, L., & Ledford Jr, G. E. (1997), A hierarchical construct of self‐management leadership and its relationship to quality of work life and perceived work group effectiveness. Personnel psychology, 50(2), 275-308;

5. Jaouad, E., & Lahsen, O. (2018), Factors affecting bank performance: empirical evidence from Morocco. European Scientific Journal, 14(34), 255-267.

6. Saeed, M. S. (2014), Bank-related, industry-related and macroeconomic factors affecting bank profitability: A case of the United Kingdom. Research journal of finance and accounting, 5(2), 42-50…

Video liên quan

Chủ đề