Kitô giáo (thuật ngữ phiên âm) hay Cơ Đốc giáo (thuật ngữ Hán Việt) là một trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham,[1][2][gc 1] đặt nền tảng trên giáo huấn, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Giêsu Kitô như được ký thuật trong Kinh thánh Tân Ước.[3] Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) tin rằng Giêsu là Con của Thiên Chúa và là Đấng Messiah của người Do Thái như đã được tiên báo trong Kinh thánh Cựu Ước. Thuộc tôn giáo độc thần,[4] hầu hết Kitô hữu tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba thân vị (tiếng Hy Lạp: hypostasis) gọi là Ba Ngôi.[5] Kitô giáo đóng một vai trò quan trọng trong nền văn hóa phương Tây.
Trải qua hai thiên niên kỷ, các bất đồng về thần học và giáo hội học đã hình thành các hệ phái Kitô giáo khác nhau. Cảnh giáo và Chính thống giáo Cổ Đông phương tách khỏi Đại Giáo hội sau Công đồng Ephesus (431) và Công đồng Chalcedon (451). Công giáo Tây phương và Chính thống giáo Đông phương cắt đứt hiệp thông với nhau trong cuộc Ly giáo Đông–Tây năm 1054. Kháng Cách (thường gọi là Tin Lành), không phải là một hệ phái đơn nhất nhưng là thuật từ nhóm hợp, phát sinh từ cuộc Cải cách Kháng nghị thế kỷ 16.
Tính chung, Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới với khoảng 2,3 tỉ tín hữu, chiếm hơn 31% dân số thế giới.[6] Từ nguyên của "Kitô" là Χριστός (Khristos) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là "Đấng được xức dầu", dịch theo danh hiệu Messiah trong tiếng Hebrew. Trong tiếng Việt, người Công giáo dùng từ "Kitô" để gọi danh hiệu này của Giêsu, trong khi người Tin Lành thường dùng từ "Christ". Bên cạnh từ "Kitô" phiên âm qua tiếng Bồ Đào Nha được sử dụng bởi tín hữu Công giáo, còn có từ "Cơ Đốc" xuất phát từ chữ Nho (基督) và thường được tín hữu Tin Lành sử dụng. Ngoài ra, một số người cũng dùng cách gọi Thiên Chúa giáo để chỉ Công giáo nói riêng và Kitô giáo nói chung.
Theo Kinh thánh, Thiên Chúa là đấng đã sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài trong 6 ngày và ngày thứ 7 Ngài nghỉ ngơi. Ông Adam và bà Eva không nghe lời Thiên Chúa đã ăn trái của "cây biết điều thiện điều ác" (trái cấm) nên bị Thiên Chúa đuổi khỏi Vườn địa đàng. Hai người này truyền tội lỗi (gọi là tội tổ tông, nguyên tội) cho con cháu là loài người. Bởi loài người mang tội, Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và chịu khổ hình để loài người được hòa giải với Thiên Chúa.
Vậy tâm điểm việc cứu rỗi của Kitô giáo là Giêsu, do đó trọng tâm của cuộc sống Kitô hữu là niềm xác tín rằng Giêsu là Con Thiên Chúa giáng trần, là Đấng Mê-si-a. Danh hiệu "Messiah" có nguồn gốc từ tiếng Hebrew מָשִׁיחַ (māšiáħ), nghĩa là "đấng được xức dầu", chuyển ngữ sang tiếng Hy Lạp là Χριστός Khristos.[7] Kitô hữu tin rằng, là Đấng Messiah, Giêsu được Thiên Chúa xức dầu để tể trị và cứu rỗi nhân loại, Giêsu đến để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah trong Cựu Ước. Trọng tâm của đức tin Kitô giáo là qua sự chết và phục sinh của Giêsu, con người tội lỗi được phục hòa với Thiên Chúa, nhờ đó mà nhận lãnh sự cứu rỗi và lời hứa được hưởng sự sống đời đời. Trong khi những tranh luận thần học về bản thể của Giêsu vẫn đang tiếp diễn, thì phần lớn Kitô hữu tin rằng Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, Giêsu "là Thiên Chúa và là con người" trong ý nghĩa trọn vẹn của cả hai bản tính. Vì Giêsu là người nên phải trải qua những đau khổ và bị cám dỗ như con người bình thường, nhưng không hề phạm tội. Vì là Thiên Chúa, Giêsu đánh bại quyền lực sự chết và sống lại từ kẻ chết. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho Giêsu sống lại từ cõi chết,[8] đặt Giêsu ngồi bên hữu của Chúa Cha và Ngài sẽ trở lại để làm ứng nghiệm lời tiên tri về Đấng Messiah như sự phục sinh, sự phán xét sau cùng và sự thiết lập Vương quốc của Thiên Chúa. Kitô giáo được biết đến từ thế kỷ thứ nhất khi các môn đồ của Giêsu được gọi là Kitô hữu tại thành Antiochia xứ Syria (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ), nơi họ đến để lánh nạn và định cư sau những cuộc bức hại đầu tiên tại xứ Judea. Nền thần học của Kitô giáo sơ khai được thành lập và truyền bá bởi sứ đồ Phaolô và các sứ đồ khác. Theo Tân Ước, Giêsu tự xưng mình là Đấng Messiah mà dân Do Thái vẫn hằng mong đợi, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo Tôn giáo và Dân sự cũng như dân chúng chối từ và bị xem như là chống lại Đền thờ và luật lệ thời đó. Ngài cũng bị buộc tội phạm thượng do dám gọi Thiên Chúa là Cha và bị kết án tử hình bởi chính quyền La Mã vào năm 30. Tuy nhiên Giêsu được Pontius Pilatus, tổng trấn người La Mã, gọi là "Vua của dân Do Thái". Theo các sách Phúc âm, người La Mã buộc tội Giêsu vì muốn xoa dịu sự bất bình của giới cầm quyền Do Thái, nhưng một số học giả cho rằng đó là cách mà Đế chế La Mã trừng phạt những người chống đối họ. Kitô hữu tin rằng Cựu Ước đã tiên báo cái chết và sự sỉ nhục mà Giêsu phải chịu như đã chép trong Tân Ước. Sách Isaiah ngụ ý rằng Giêsu bị vả, nhổ, đấm vào mặt (Isaiah 50.6, 52.14-15; Matthew. 26.67-68; Mark 14.65), bị đánh bằng roi (Isaiah 53.5; John 19.1; Matthew 27.26) cũng như bị sỉ nhục. Kitô hữu xem sự phục sinh của Giêsu là nền tảng của đức tin và là biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại.[9] Theo Tân Ước, Giêsu là tâm điểm của Kitô giáo, bị đóng đinh trên thập tự giá, chết và mai táng trong mộ, đến ngày thứ ba thì sống lại.[10] Theo ký thuật của Tân Ước, sau khi sống lại, Giêsu, trong những lần khác nhau tại những địa điểm khác nhau, đã đến gặp mười một sứ đồ và các môn đồ, trong đó có lần xuất hiện trước sự chứng kiến của "hơn năm trăm người",[11] sau đó thì về trời. Các sứ đồ của Giêsu là nhân chứng về cuộc đời, lời giảng và sự sống lại của Giêsu. Ngoài ra còn có nhiều môn đồ (đến 70 người) trong đó có Giacôbê, Máccô, Luca, Maria Mađalêna..., những người này theo Giêsu trong các cuộc hành trình và họ chứng kiến khi Giêsu giảng dạy và làm nhiều phép lạ. Sau khi Giêsu bị đóng đinh, các sứ đồ và các môn đệ khác công bố rằng Giêsu đã sống lại từ cõi chết và họ khởi sự rao giảng thông điệp mới. Các sứ đồ và môn đệ này đã viết các sách Phúc âm và các Thư tín. Sứ đồ Phaolô viết thư tín. Trong số 27 sách của Tân Ước, nhiều quyển được viết bởi Phaolô. Ông là tác giả của mười bốn thư tín và một số truyền thuyết cho rằng ông cũng là tác giả của Thư gửi tín hữu Do Thái. Phúc âm Luca và sách Sách Công vụ Tông đồ được viết bởi Luca, người chịu ảnh hưởng trực tiếp của Phaolô. Phaolô là môn đồ của Gamaliel (Cv 22.3), một nhân vật có thanh thế trong toà công luận (Cv 5.34-40). Phaolô được xem như là nhà truyền giáo quan trọng nhất rao giảng thông điệp Kitô cho thế giới bên ngoài. Hội thánh sơ khaiTrong suốt ba thế kỷ đầu tiên, Kitô giáo lan truyền nhanh chóng trong khu vực Địa Trung Hải và được truyền bá ra cả bên ngoài Đế quốc La Mã:
Vào thuở Kitô giáo sơ khởi, một tín hữu có thể vẽ một cung trên đất khi gặp một người khác, nếu chia sẻ cùng niềm tin, người này sẽ vẽ tiếp một cung nữa để hoàn chỉnh hình con cá (Ichthys), một biểu trưng của Kitô giáo. Vào thời kỳ ban đầu, Hội thánh bao gồm hai cộng đồng: Do Thái và Hy Lạp. Trong khi cộng đồng Do Thái, phần đông là các tín hữu gốc Do Thái, muốn duy trì một số tập tục và nghi thức của Do Thái giáo (Judaism) như phép cắt bì và một số kiêng cữ khác thì cộng đồng Hy Lạp, những người chịu ảnh hưởng từ thế giới nói tiếng Hy Lạp, tin rằng thông điệp của Kitô giáo nên được truyền bá theo các phương pháp thích hợp hơn với thế giới Hellenistic bên ngoài. Một trong những nhà trước tác quan trọng đầu tiên của Kitô giáo, Tertullianus, đã viết cho một quan tổng đốc Đế chế La Mã về sự phát triển của Kitô giáo tại Carthago rằng mới hôm qua họ chỉ là một nhóm nhỏ, "nay có mặt khắp mọi nơi – các đô thị, hải đảo, trong thành lũy, thị trấn, chợ, ngay cả trong trại lính, tại các bộ tộc, lâu đài, nghị viện; chúng tôi chẳng để lại gì cho quý vị ngoại trừ các nơi thờ phụng các thần linh của quý vị mà thôi." (Bài biện giáo viết tại Carthago, năm 197). Trong vòng vài thế kỷ đầu tiên, các Giáo Phụ, là các nhà thần học và triết học khoa bảng, như Justinô Tử đạo, Origenes và Augustinus đã phát triển nền thần học và triết học Kitô giáo. Suốt thời kỳ này, trong khi đang phát triển mạnh mẽ, Hội thánh cũng phải trải qua các cơn bách hại. Ngay từ những ngày đầu tiên, Kitô giáo là mục tiêu của những sự bách hại, dẫn đến sự tử đạo của Stêphanô[12] và Giacôbê, con của Zêbêđê.[13] Những đợt bách hại ở quy mô lớn hơn, dù không thường xuyên nhưng dữ dội, xảy ra dưới thời trị vì của các hoàng đế La Mã như Nero, Valerianus, Diocletianus và Galerius. Cuộc đời của những người tử đạo, thà chết chứ không chối bỏ đức tin, trở nên biểu trưng cho đức hạnh cao quý nhất. Các bản dịch Kinh Thánh sớm nhất bắt đầu xuất hiện, danh sách quy điển Tân Ước được đồng thuận. Hệ thống phẩm trật được củng cố: các giám mục thành Roma, Alexandria và Antiochia đều được công nhận danh hiệu Trưởng phụ. Tượng Constantinus Đại đế tại York, Anh, gần địa điểm ông được tôn xưng hoàng đế năm 306. Hoàng đế La Mã Galerius, trước khi chết, ban chiếu chỉ Galerius ngưng mọi hoạt động bách hại. Hoàng đế Constantinus I gặp thị kiến năm 312 và một năm sau đó ban hành chiếu chỉ Milano hợp pháp hóa Kitô giáo. Dù vậy, các cuộc bách hại được tái lập dưới triều Julianus Kẻ bội giáo (361-363), người muốn phục hồi cựu giáo trên lãnh thổ đế quốc. Tuy nhiên, vào năm 380 dưới triều hoàng đế Theodosius I, Kitô giáo được công nhận làm quốc giáo với chiếu chỉ Thessalonica. Trước đó, điều tương tự đã xảy ra tại các xứ láng giềng Armenia và Gruzia, cũng như tại Ethiopia. Nhưng tại Đế quốc Ba Tư vốn luôn đối nghịch với Đế quốc La Mã, Kitô hữu phải chịu nhiều áp bức từ Nhà Sassanid muốn củng cố lại địa vị của Hỏa giáo. Tại Đế quốc Ba Tư, vào năm 410 giám mục thành Seleucia-Ctesiphon miền Assyria đã thay thế Thượng phụ thành Antiochia để giữ thẩm quyền cao nhất trong Giáo hội Phương Đông (Cảnh giáo). Trong thời kỳ ly giáo Nestorian, giáo hội này cắt đứt quan hệ với phương Tây. Trong suốt một thiên niên kỷ đã trở thành giáo hội có nhiều ảnh hưởng tại châu Á với các giáo phận được thành lập tại những nơi xa xôi như Trung Á, Ấn Độ, Java và Trung Hoa. Các giáo hội quốc giaMartin Luther năm 1529, tranh của Lucas Cranach Cải cách Kháng nghị Kháng Cách
Sự khẳng định thần tính của Giêsu luôn là vấn đề trọng tâm đối với Kitô hữu thời sơ khai. Nhiều nhà trước tác, bao gồm Justinus và Tertullianus chứng thực niềm tin Giêsu là Thiên Chúa,[14][15][16][17][18] trong khi một số các nhóm Kitô giáo khác từ chối chia sẻ niềm xác tín này. Sự việc lên đến đỉnh điểm khi Arius thuyết phục được nhiều người rằng Giêsu chỉ là một tạo vật, dù là tạo vật đầu tiên và cao trọng nhất. Cuộc tranh luận được giải quyết tại Công đồng Nicaea, được hoàng đế Constantinus I triệu tập, nơi học thuyết của Athanasius, một học giả theo thuyết Ba Ngôi, được công nhận là giáo lý chính thức của Hội thánh (xem tín điều Nicaea, tín điều Athanasius). Dù Constantinus I ra lệnh đốt sách của Arius và trục xuất ông, học thuyết của ông vẫn tiếp tục phát triển trong đế quốc suốt vài thập niên và trong vòng các bộ tộc người Goth trong gần hai thế kỷ sau đó. Các công đồng vẫn tiếp tục được triệu tập để giải quyết các vấn đề thần học. Trong khi các công đồng bàn luận nhằm hợp nhất Kitô giáo thì các hoàng đế ủng hộ các công đồng nhằm bảo vệ sự ổn định chính trị. Một số thuật ngữ thần học được sử dụng tại các công đồng đã bị hiểu nhầm bởi các giáo hội mà ngôn ngữ chính là tiếng Syriac, tiếng Copt hay tiếng Armenia, làm tăng thêm khác biệt và dẫn đến các cuộc ly giáo giúp hình thành các giáo hội quốc gia mà sau này được gọi chung là Chính thống giáo Cựu Đông phương. Những bất đồng về thần học đều được giải quyết tại các công đồng đại kết, và Kitô giáo đã duy trì được sự đồng thuận về các giáo lý nền tảng trong thiên niên kỷ đầu tiên. Tuy nhiên, trong thiên niên kỷ sau, các bất đồng về thần học và kỷ luật ngày càng trở nên trầm trọng. Cuộc Đại Ly giáo năm 1054 chia cắt Giáo hội thành hai nửa Tây phương và Đông phương. Trong khi giáo hội Tây phương với tên gọi Công giáo Rôma dần dần củng cố quyền lực tập trung vào Rôma thì giáo hội Đông phương với danh xưng "Chính thống" cam kết bảo tồn các truyền thống và đề kháng với mọi thay đổi. Cho đến nay Chính thống giáo Đông phương vẫn duy trì lập trường không đặt giáo hội dưới quyền cai trị của một giám mục duy nhất. Giáo hội Đông phương công nhận Thượng phụ thành Constantinopolis là "người đứng đầu nhưng bình đẳng" với các giám mục khác đang cai quản các giáo hội tự trị trong gia đình Chính thống giáo.[19] Tại Âu châu, chịu ảnh hưởng từ cuộc Cải cách Kháng nghị (Protestant Reformation) vào thế kỷ 16 nhiều giáo hội đã từ chối thần phục Tòa Thánh vì họ cho rằng có sự lạm dụng trong cơ cấu quyền lực được tập trung vào ngai Giáo hoàng cũng như bên trong cấu trúc quyền lực này đã nảy sinh nhiều sai lạc về thần học và sống đạo.[20] Các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận sau này được tóm tắt trong năm mệnh đề sola (xem Năm Tín lý Duy nhất):
Từ cuộc cải cách khởi phát một cuộc tranh chấp dữ dội nhằm thu phục người dân Âu châu. Các cuộc tranh luận giữa người Công giáo và người Kháng Cách dẫn đến những cơn bách hại cũng như các cuộc chiến, kể cả các cuộc nội chiến. Đức tin Công giáo và Kháng Cách (Tin Lành) đặt chân đến châu Mỹ (và sau đó là châu Úc) bởi các di dân đến từ châu Âu. Không theo mô hình trung ương tập quyền như người Công giáo, cũng không tổ chức bộ máy giáo hội trên quy mô quốc gia, các tín hữu Kháng Cách thuộc về hàng chục, và sau này hàng ngàn hệ phái độc lập với nhau. Đức tin Công giáo và Kháng Cách cũng đến châu Phi Hạ Sahara và Viễn Đông cùng lúc với người Âu châu đi mở rộng thuộc địa, đặc biệt là từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Vào cuối thế kỷ 18, Chính thống giáo du nhập vào vùng Alaska thuộc Bắc Mỹ qua các di dân đến từ Nga. Và về sau, vào thế kỷ 20, số lượng di dân Chính thống giáo từ Đông Âu sang các nước phương Tây còn lớn hơn nhiều. Bắt đầu từ thế kỷ 19, nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng Kitô giáo, đặc biệt tại Tây Âu, ngày càng trở nên thế tục.
Kitô giáo ngày nayMột số Kitô hữu nổi tiếng Kitô giáo là tôn giáo có đông tín hữu nhất thế giới, với những con số ước tính từ 1,5 tỉ đến 2,1 tỉ người[22] xưng nhận niềm tin Kitô giáo trong thập niên 1990. Theo Pew Research Center, vào năm 2010, Kitô giáo có khoảng 2,2 tỉ tín hữu (chiếm 32% tổng dân số thế giới), theo sau là Hồi giáo với 1,6 tỉ (23%); Ấn Độ giáo có 1 tỉ (15%); Phật giáo có gần 500 triệu (7%); có hơn 400 triệu người (6%) theo các tín ngưỡng dân gian hay bản địa; trong khi những người không tôn giáo có khoảng 1,1 tỉ (16%).[23] Kitô giáo chia ra nhiều nhánh, bao gồm hơn 1,1 tỉ người Công giáo,[24] khoảng 800 triệu người theo các hệ phái Kháng Cách (trong đó có 85 triệu tín hữu Anh giáo), 300 triệu người Chính thống giáo, và những giáo hội "ngoại vi" (Nhân chứng Jehovah, Giáo hội Cơ Đốc Phục lâm An thất nhật, Giáo hội Mormon...) có hơn 40 triệu tín hữu. Các giáo phái này tự nhận mình thuộc Kitô giáo nhưng họ không được công nhận bởi cộng đồng Kitô giáo vì cớ các học thuyết không chính thống của họ. Tuy Kitô giáo là tôn giáo lớn nhất thế giới[25] và đang duy trì nhiều nguồn lực cho việc truyền giáo, mức độ tăng trưởng của Kitô giáo chỉ xấp xỉ mức chung của thế giới. Theo dự đoán, vào nửa sau thế kỷ 21, số lượng dân số Hồi giáo sẽ vượt qua Kitô giáo để trở thành tôn giáo lớn nhất thế giới.[26] Không phải mọi người xưng nhận mình là Kitô hữu (Cơ Đốc nhân) đều chấp nhận tất cả, hoặc ngay cả hầu hết, các quan điểm thần học của giáo hội của họ. Giống như người Do Thái giáo, Kitô hữu phương Tây chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi Phong trào Khai sáng (Enlightenment) từ cuối thế kỷ 17 tới thế kỷ 18. Có lẽ sự thay đổi quan trọng nhất đối với họ là nguyên tắc phân ly giữa giáo hội và nhà nước, chấm dứt những ưu đãi tôn giáo được nhà nước bảo hộ đã hiện hữu lâu đời tại nhiều nước Âu châu. Ngày nay một người, như là một công dân tự do, có thể bất đồng với giáo hội của mình về các vấn đề khác nhau và có quyền rời bỏ giáo hội tuỳ ý muốn. Trên thực tế, nhiều người đã bỏ giáo hội và phát triển các hệ thống triết lý tôn giáo khác như Thần giáo tự nhiên (Deism), Nhất vị giáo (Unitarianism), hoặc trở thành người vô thần (atheist), bất khả tri (agnostic), hay là chủ nghĩa nhân văn thế tục (secular humanist). Một số người ở lại giáo hội đề xuất chủ nghĩa tự do (liberalism) bên trong nền thần học Kháng Cách. Trong Giáo hội Công giáo, chủ nghĩa tân thời (modernism) xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 cũng cổ xúy các quan điểm và hình thức trình bày mới không theo truyền thống giáo hội. Tại Hoa Kỳ và châu Âu, trào lưu thần học tự do góp phần phát triển tình trạng thế tục hoá trong toàn xã hội. Nhiều Kitô hữu ngưng thực hành các bổn phận tôn giáo, mỗi năm chỉ đến nhà thờ vài lần vào những dịp lễ lớn, hôn lễ hoặc tang lễ. Nhiều người trong số họ lớn lên trong những gia đình mà các giá trị Kitô giáo không còn được xem trọng. Bên trong họ là một tình cảm pha trộn đối với đức tin Kitô giáo. Một mặt họ tiếp tục buộc mình vào các giá trị cổ truyền vì lý do bản sắc, mặt khác ảnh hưởng của chủ nghĩa thế tục phương Tây và sự sao lãng do nhịp sống hiện đại bứt giật họ ra khỏi ảnh hưởng còn sót lại của Kitô giáo truyền thống. Hôn nhân giữa Kitô hữu và người không phải Kitô hữu, từng là điều hiếm gặp, nay trở nên phổ biến. Tại một số quốc gia Công giáo lâu đời, nhiều người trở nên bất khả tri[27] hoặc có thái độ dửng dưng tôn giáo (religious indifference). Kitô giáo theo tỷ lệ dân số. Vào đầu thế kỷ 20, trào lưu tự do phát triển mạnh tại Âu châu và Bắc Mỹ, đến thập niên 1960, kiểm soát nhiều giáo phái chính lưu (mainline) tại Hoa Kỳ và Canada. Dù vậy, ngày nay trào lưu này đã thoái trào. Vào đầu thế kỷ 21, tuy thế giới thế tục, đặc biệt là các phương tiện truyền thông vẫn xem các nhà thần học tự do như là đại biểu và phát ngôn viên cho Kitô giáo, các nhà thờ theo khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần. Một phần là do những nỗ lực của khuynh hướng Phúc âm, phần khác là vì nhiều người trong số họ đang trở lại với các giá trị Kitô giáo truyền thống. Một vấn nạn của Kitô giáo là họ đánh mất khả năng chuyển giao các giá trị Kitô giáo cho thế hệ kế tiếp. Trong khi các giáo phái chính lưu tại Hoa Kỳ, ngoại trừ Baptist Nam phương (Southern Baptist), đang thoái trào thì các định chế tôn giáo theo khuynh hướng Phúc âm (Evangelical) đang phát triển mạnh, đặc biệt là vào hạ bán thế kỷ 20. Tạp chí Christian Century (Thế kỷ Kitô giáo) có khuynh hướng tự do đang thu hẹp dần để bị thay thế bởi đối thủ đang lớn mạnh có khuynh hướng phúc âm là tạp chí Christianity Today (Kitô giáo Ngày nay). Tại phương Đông Phong trào Khai sáng không tạo lập được nhiều ảnh hưởng. Đối diện với nhiều áp lực từ các xã hội thế tục, giáo hội phải bám trụ vào các xác tín truyền thống để tồn tại. Ngày nay, tại Đông Âu và Nga, đang diễn ra tiến trình hồi sinh (phấn hưng). Sau nhiều thập kỷ hưng thịnh của thuyết vô thần, nhiều người bắt đầu quan tâm đến Kitô giáo cũng như các tôn giáo khác. Nhiều nhà thờ và tu viện Chính thống giáo được trùng tu và được lấp đầy bởi các tín hữu và tu sĩ. Các giáo phái Kháng Cách cũng tìm đến để truyền bá Phúc âm và thành lập giáo hội. Giáo hội Công giáo tiết lộ họ đã từng có các giáo phận bí mật và nay đang tiến hành các bước nhằm công khai hỗ trợ các nhà thờ tại đây. Tại Nam Mỹ và Châu Phi, các giáo phái Phúc âm (Evangelical) và Ngũ tuần (Pentecostal) đang tăng trưởng mạnh và bắt đầu gởi các nhà truyền giáo đến Châu Âu và Bắc Mỹ. Tình trạng tương tự cũng đang xảy ra tại một số nước châu Á. Bên trong nhà thờ Crystal Cathedral, từng là một đại giáo đoàn tiêu biểu Hạ bán thế kỷ 20 chứng kiến chủ nghĩa tân thời phát triển thành chủ nghĩa tiêu dùng (consumerism). Xảy ra cùng lúc nhưng theo hướng ngược lại là sự phát triển của hiện tượng Đại Giáo đoàn (Megachurch) - tập chú vào tính linh động của các phương pháp trình bày thông điệp Kitô cho người đương thời. Giáo trình Alpha (Alpha Course) là một điển hình cho trào lưu mới này của Kitô giáo. Một phong trào có ảnh hưởng lớn và đang phát triển mạnh, đặc biệt ở phương Tây và Hoa Kỳ là phong trào Tin Lành hay chủ nghĩa Phúc âm. Họ có mặt và hoạt động tích cực trong hầu hết các giáo phái Kháng Cách, trong một số trường hợp họ là thành phần đa số. Những người Phúc âm thường chủ trương "xuyên giáo phái", họ thích tạo lập các mối quan hệ chính thức hoặc không chính thức với những người Phúc âm trong các giáo phái khác hơn là quan hệ với những người không Phúc âm trong vòng giáo phái của họ. Tín hữu Phúc âm nhấn mạnh đến sự cần thiết phải có kinh nghiệm quy đạo của mỗi cá nhân và tin Giêsu là Cứu Chúa và Thiên Chúa. Họ tin vào sự tái lâm của Chúa Kitô, tính chân xác của Thánh Kinh và tin vào phép mầu. Kitô hữu xem Kitô giáo là sự kế thừa và hoàn chỉnh của Do Thái giáo.[28][29] Kitô giáo mang theo mình nhiều điều từ thần học và lễ nghi của Do Thái giáo như thuyết độc thần, niềm tin vào Đấng Messiah cùng với một vài hình thức thờ phượng như cầu nguyện, xướng đọc Kinh Thánh, chức vị tư tế (dù hầu hết người Kháng Cách tin rằng chức vị tư tế được ban cho tất cả tín hữu), và ý tưởng cho rằng sự thờ phượng trên đất là "hình bóng" cho sự thờ phượng trên thiên đàng. Những xác tín căn cốt của Kitô giáo tập chú vào sự nhập thể làm người, sự đền tội cho nhân loại, sự chết trên thập tự giá và sự sống lại của Giêsu để cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết.[30] Nhiều Kitô hữu tin rằng sự tuyển chọn mà Thiên Chúa dành cho dân Do Thái được ứng nghiệm trọn vẹn qua Giêsu: người Do Thái nào không chấp nhận Giêsu không còn là người được chọn vì họ đã khước từ Ngài như là Đấng Messiah và Con Thiên Chúa. Quan điểm này đang được làm giảm nhẹ hay ngay cả loại trừ tại một số giáo hội nơi người Do Thái được thừa nhận là có một địa vị đặc biệt vì cớ giao ước của Thiên Chúa dành cho dân tộc này. Bài giảng trên núi, tranh của Carl Heinrich Bloch, thế kỷ 19. Trọng tâm của Kitô giáo đặt vào yếu tố Thiên Chúa sai Con Một của mình đến thế gian để cứu nhân loại, tạo ra sự khác biệt lớn lao giữa Kitô giáo và các tôn giáo khác, vì các tôn giáo ấy thường nhấn mạnh đến vai trò của con người tự nỗ lực cho sự cứu độ của bản thân mình. Nền thần học được xác lập vững chắc từ ban đầu và được chấp nhận rộng rãi giữa ba nhánh chính của Kitô giáo – Công giáo, Chính thống giáo và Kháng Cách – khẳng định những xác tín căn bản của Kitô giáo bao gồm:
Đức tin Kitô giáo được đúc kết trong các tín điều, quan trọng nhất là Tín điều Các Sứ đồ và Tín điều Nicaea. Các bản tín điều này được hình thành trong vòng vài thế kỷ sau công nguyên nhằm phản bác các học thuyết dị giáo. Dù vẫn còn tranh luận về vài điểm khác nhau của các bản tín điều, chúng được dùng rộng rãi để bày tỏ các xác tín căn bản của nhiều Kitô hữu.
Văn hóa phương Tây trải qua lịch sử đã hầu như tương đương với văn hóa Kitô giáo. Các ý niệm về "châu Âu" và "Thế giới phương Tây" được liên hệ hết sức mật thiết với "Kitô giáo và Thế giới Kitô giáo", nhiều người thậm chí còn coi Kitô giáo là mối liên kết tạo nên một căn tính Âu châu thống nhất.[39] Mặc dù văn hóa phương Tây trong thời kỳ đầu bao gồm một số tôn giáo đa thần dưới các đế quốc Hy Lạp và La Mã nhưng khi chính quyền trung ương La Mã suy yếu, vị thế của Giáo hội Công giáo là định chế kiên vững duy nhất tại châu Âu.[40] Trong tình trạng bất ổn khi đế quốc dần suy tàn, các tu viện xuất hiện kịp thời đã bảo tồn ngôn ngữ viết và một phần truyền thống cổ điển.[41] Cho tới Thời kỳ Khai sáng,[42] văn hóa Kitô giáo đã dẫn dắt triết học, văn học, nghệ thuật, âm nhạc và khoa học.[40][43] Cách riêng, Kitô giáo sau này đã phát triển các chuyên ngành tương ứng của mình. Kitô giáo có một ảnh hưởng quan trọng lên giáo dục, khoa học và y học khi mà giáo hội đã tạo dựng nên các nền tảng của hệ thống giáo dục phương Tây,[44] cùng với đó Kitô giáo là nhà bảo trợ cho việc hình thành các đại học trong thế giới phương Tây, với việc viện đại học được xem là một thể chế có nguồn gốc Kitô giáo thời Trung Cổ.[45][46] Xuyên suốt dòng lịch sử, nhiều giáo sĩ Công giáo, đặc biệt các tu sĩ Dòng Tên,[47][48][49] hoạt động trong lĩnh vực khoa học và có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của khoa học.[50][51] Các hệ phái Tin Lành cũng có tác động lên khoa học. Theo Luận thuyết Merton, có mối quan hệ tích cực giữa Thanh giáo Anh và phong trào Sùng tín Đức với khoa học thực nghiệm. Ảnh hưởng của Kitô giáo lên nền văn minh có thể kể đến phúc lợi xã hội,[52] thành lập các bệnh viện,[53] kinh tế (như đạo đức lao động Tin Lành),[54][55] chính trị,[56] kiến trúc,[57] văn học[58] và đời sống gia đình.[59] Các Kitô hữu Đông phương, nhất là tín hữu Cảnh giáo, đã đóng góp cho nền văn minh Hồi giáo Ả Rập dưới các triều đại Nhà Ummayad và Nhà Abbas với việc dịch tác phẩm của các triết gia Hy Lạp cổ đại sang tiếng Syriac và sau đó là tiếng Ả Rập.[60][61][62] Họ cũng là những nhân vật ưu tú trong triết học, khoa học, thần học và y học.[63][64] Các Kitô hữu có rất nhiều đóng góp trong phạm vi rộng lớn và đa dạng các lĩnh vực, gồm khoa học, nghệ thuật, chính trị, văn học và kinh doanh.[65] Theo 100 Years of Nobel Prizes, xem xét các giải Nobel được trao trong giai đoạn từ 1901 tới 2000 cho thấy rằng có 65,4% Khôi nguyên Nobel xác định tôn giáo của mình là Kitô giáo thuộc các hệ phái.[66] Hậu Kitô giáo là thuật ngữ dùng để chỉ sự suy giảm của Kitô giáo trong thế kỷ 20 và 21, đặc biệt là tại châu Âu, Canada, Úc và ở mức độ ít hơn tại các nước Viễn Nam của châu Mỹ, có liên quan tới thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại. Nó đề cập đến việc Kitô giáo mất vị trí độc tôn trong các giá trị và thế giới quan so với các xã hội Kitô giáo trước đây. Các Kitô hữu văn hóa là những người thế tục có di sản Kitô giáo, có thể không tin theo các giáo lý nhưng còn duy trì thiện cảm với văn hóa đại chúng, nghệ thuật và âm nhạc Kitô giáo nên vẫn còn mối liên hệ. Thuật ngữ này còn dùng trong việc phân biệt các nhóm chính trị trong khu vực đa tôn giáo.
|