Bắc kỳ 2 nút là gì

TỪ H� NỘI ĐẾN S�I G�N 1954 - 1975

Lữ Tuấn

Th�ng 6 năm 1954 đ�ng 50 năm về trước, l� l�c mọi người trong v�ng kiểm so�t của ch�nh phủ Quốc Gia ở Bắc Việt cực kỳ lo lắng v� hoang mang sau khi cứ điểm Điện Bi�n Phủ thất thủ ng�y 7 th�ng 5 năm 1954. Nhiều tin đồn tr�i ngược c�ng l�m cho mọi người th�m sợ h�i. Khoảng 20 th�ng 6, tại Nam Định v� c�c tỉnh phụ cận, c� tin đồn được lan truyền nhanh ch�ng n�i rằng qu�n đội Ph�p v� qu�n đội Quốc Gia sẽ r�t khỏi Nam Định v� c�c tỉnh ph�a Nam H� Nội. Từ h�m ấy, h�ng loạt doanh trại được th�o gỡ vội v�ng, xe vận tải qu�n sự chở vật liệu nặng bắt đầu theo nhau từ B�i Chu, Ninh B�nh, Th�i B�nh đổ về Nam Định c�ng c�c xe cộ từ Nam Định nối nhau đi H� Nội. Kho đạn Nam Định cho ph� h�ng loạt đạn s�ng cối v� đạn ph�o binh ở v�ng đất hoang ph�a t�y th�nh phố..

Bộ Tư Lệnh Ph�p v� ch�nh quyền Bảo Đại kh�ng hề l�n tiếng về t�nh h�nh tại Bắc Việt. Bộ Chỉ Huy Ph�p tại Nam Định vẫn tiếp tục c�ng việc chuẩn bị cuộc diễn binh h�ng hậu v�o ng�y quốc kh�nh Ph�p, 14 th�ng 7 năm 1954 m� họ đ� loan b�o trước. V�o l�c n�y, đ� c� tin đồn �ng Ng� Đ�nh Diệm sẽ về nước l�m thủ tướng. Những truyền đơn đầu ti�n k� t�n Phong Tr�o C�ch Mạng Quốc Gia ủng hộ �ng Diệm xuất hiện l�c đ�c ở Nam Định.

Ba ng�y cuối c�ng phi cơ qu�n sự l�n xuống li�n tiếp. Khi đ� chuy�n chở gần hết vật dụng v� người, trạm h�ng kh�ng qu�n sự Nam Định bắt đầu cho mọi người tự do l�n phi cơ C-47 c�n trống nhiều chỗ để đi H� Nội.

Nam Định bắt đầu hoảng hốt thực sự từ ng�y 28 th�ng 6 khi điện bị cắt. Th�nh phố tối m�. Nhiều người chen ch�c mua v� xe hoặc thu� xe di tản về H� Nội. Nam Định l� nơi số doanh trại v� binh l�nh dầy đặc nhất Việt Nam. Trước đ� từ 9 giờ khuya l� giờ giới nghi�m, th�nh phố vắng vẻ kh�ng một b�ng người tr�n phố x�. Nay đột nhi�n tất cả ch�m trong kh�ng gian đen thui, nhưng lại cựa m�nh mạnh hơn trong b�ng tối. Tr�n đường phố người ta đi lại đ�ng đ�c kh�c thường qu� cả giờ giới nghi�m.


Đường phố H� Nội, h�nh chụp v�o th�ng 7 năm 1954.
(H�NH ẢNH: VNCTLS sưu tầm)

Gia đ�nh t�i l�c ấy đang ở một căn cư x� c�ng chức nơi mẹ t�i l�m việc. L�c 7 giờ s�ng, một anh l�nh tống thư vi�n người Ph�p v�o sở đưa một giấy b�o di chuyển, ghi đ�ng số người thuộc quyền sở n�y v� gia đ�nh nh�n vi�n kể cả 4 gia đ�nh ở cư x�. Tất cả mau lẹ tập trung đợi xe. Sau đ� chừng 15 ph�t, một tiểu đội Bảo Ch�nh Đo�n dẫn 4 xe vận tải trưng dụng của tư nh�n đến nơi v� cho biết đ�ng 8 giờ k�m 15 mọi người phải c� mặt đầy đủ tr�n xe.

Việc di tản c� vẻ đ� được chuẩn bị nhiều tuần lễ trước đ�. Số người ngồi tr�n xe thoải m�i rộng r�i v� kh�ng ai mang theo đồ đạc g� nhiều ngo�i một v�i chiếc valise v� t�i x�ch tay gọn nhẹ.

Lệnh di chuyển cho biết đo�n xe n�y phải qua trạm kiểm so�t ph�a bắc hướng đi Phủ L�-H� Nội v�o khoảng giờ nhất định m� t�i nhớ l� sau 8 giờ v� trước 8 giờ 10 ph�t. Lệnh n�y cũng cảnh c�o nếu xe n�o đến sớm qu� hay muộn qu� theo giờ ấn định sẽ bị ủi ra khỏi mặt đường để tr�nh nhiễu loạn giao th�ng.

Hồi đ� t�i c�n l� học tr�. Vội v�ng xếp quần �o, h�nh ảnh, giấy tờ cần thiết, cuống cuồng kh�ng biết phải mang theo g� v� phải bỏ lại m�n n�o. L�c c�n chừng 25 ph�t, t�i xin ph�p mẹ t�i chạy ra phố n�i l� để ch�o mấy thằng bạn. C� ruột t�i , người nu�i nấng t�i từ nhỏ kh�ng chịu v� sợ t�i chậm trễ e sẽ kẹt lại. Nhưng mẹ t�i hiểu �, mỉm cười can thiệp n�i, �Chị cứ cho n� đi, n� kh�ng d�m về muộn đ�u.�

Mẹ t�i thừa biết t�i đi đ�u. T�i đạp xe với tốc độ kh�ng thua c�c tay đua v�ng quanh Đ�ng Dương, xẹt qua trước nh� c� bạn m� t�i thương vụng nhớ thầm từ năm 17 tuổi v� chưa hề mở lời y�u đương.

N�ng đang ngồi chải t�c ở cửa sổ tr�n lầu. Kh�ng r� n�ng c� nh�n thấy t�i hay kh�ng, nhưng t�i vội v�ng đ�nh bạo thu hết can đảm h�n gi� tr�n b�n tay phải n�m về ph�a cửa sổ rồi lao xe như gi� về nh�, trước giờ xe chạy khoảng 10 ph�t. Ở miền Bắc hồi ấy trai g�i c�n nh�t nh�t, phải can đảm lắm mới d�m l�m như thế v� t�i linh cảm chuyến đi n�y sẽ l�u lắm., c� thể l� cả đời. Sau n�y trong đời l�nh chưa bao giờ t�i phải vận dụng can đảm cao độ như vậy d� gặp nhiều t�nh thế rất kh� khăn nguy hiểm.

Qu�n cảnh Ph�p thi h�nh đ�ng giờ giấc như quy định. Tại trạm kiểm so�t Cổng Hậu, từng đo�n xe gồm năm mười chiếc c� l�nh hộ tống được cho khởi h�nh. Một v�i xe đến muộn phải đậu một b�n đường chờ giải quyết sau. Tr�n đường đi, tại mỗi c�y cầu đều c� một to�n C�ng Binh đặt sẵn chất nổ. Một trung sĩ C�ng Binh Việt Nam cho biết họ phải ph� nổ c�c cầu n�y khi đơn vị cuối c�ng đi qua.

Buổi trưa đo�n xe ch�ng t�i đi đến H� Nội. Gia đ�nh t�i về ở nh� người th�n. Đ�m h�m ấy thị x� Phủ L� bị một sư đo�n Việt Minh tấn c�ng. Th�nh phố đ� hư hại sẵn nay lại chịu t�n ph� gần hết những g� c�n lại.

Cuộc r�t lui n�y tuy ti�u biểu cho việc Ph�p thua trận nhưng lại l� cuộc r�t lui th�nh c�ng. Dựa v�o t�i liệu của Ph�p v� thực tế quan s�t thấy tại chỗ, cho thấy Đại T� Vanuxem chỉ huy trưởng Ph�n Khu Nam đ� điều động cuộc r�t lui mau lẹ, c� trật tự với tổn thất nhẹ kh�ng đ�ng kể. Đo�n qu�n r�t lui vượt qua n�t Phủ L� trước khi bị địch đ�nh chận.

Kế hoạch tỉ mỉ do bộ tham mưu Ph�p b� mật soạn thảo, trong đ� chỉ c� c�c sĩ quan từ đại �y mới được cho tham dự. Mọi việc đ�nh m�y, chuyển nhận c�ng điện, văn thư t�i liệu đều do c�c cấp sĩ quan từ đại �y trở l�n đ�ch th�n thi h�nh. B� mật được giữ đến ph�t ch�t. Chỉ c� một điều đ�ng tiếc l� nhiều đội d�n qu�n tự vệ ở nhiều l�ng mạc c�c tỉnh v�ng n�y kể cả quanh những trung t�m chiến lược như Ph�t Diệm, B�i Chu bị Ph�p bỏ rơi. Nhiều d�n qu�n chạy kh�ng kịp bị Việt Minh bắt v� giết hại.

H� Nội vốn y�n tĩnh, l�c đ� đang sống thanh b�nh kh�ng nghe tiếng s�ng. Những vũ trường, h�ng qu�n sang trọng v� độc đ�o với những thắng cảnh nổi tiếng đầy b�ng d�ng người đẹp thướt tha. Cuộc di tản 4 tỉnh ph�a Nam l�m cho đường phố H� Nội đ�ng người th�m nhưng vẫn kh�ng mất vẻ mỹ lệ của đất Thăng Long ng�n năm văn vật.

L�c ấy hội nghị Geneve bắt đầu họp. Ai cũng thấy phe Cộng Sản đang nắm ưu thế. Những người c� quan t�m đều lo ngại kh�ng biết sẽ đ�nh chiến kiểu n�o. C� thể l� hai b�n ngưng bắn xen kẽ m� sau n�y năm 1972-73 người ta gọi l� �giải ph�p da beo.� Cũng c� thể l� chia đ�i đất nước th�nh hai miền Nam v� Bắc. Người ta cũng b�n t�n gay go về ranh giới đ�nh chiến sẽ nằm ở vĩ tuyến n�o? Vĩ tuyến 13, 16 hay 19?

Đầu th�ng 7, �ng Diệm ra H� Nội. Một số đ�ng đảo d�n ch�ng ch�o đ�n �ng, v� nhiều người hy vọng vị nh�n sĩ n�y sẽ cứu v�n t�nh h�nh. Sau đ� ng�y 7 th�ng 7 năm 1954 �ng Diệm ch�nh thức nhậm chức thủ tướng. �ng th�nh lập Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt. C�c đo�n thể, đảng ph�i chống Cộng đều ủng hộ đường lối n�y. Nhiều sĩ quan, binh sĩ cũng sẵn s�ng tham gia việc ph�ng thủ l�nh thổ phe quốc gia đang nắm giữ. Một số đ�ng đảo đặt niềm hy vọng lớn lao v�o sự trợ gi�p của Hoa Kỳ thay thế người Ph�p.

Nh�m ch�ng t�i l� đảng vi�n Đại Việt v� Quốc D�n Đảng đều hăng h�i tham gia tuy�n truyền vận động ủng hộ chủ trương giữ Bắc Việt. Đ�m đ�m, ch�ng t�i đi n�m truyền đơn ở khu Hồ T�y, Cổ Ngư, Ngọc Sơn v� nhiều nơi kh�c kể cả những nơi c� l�nh Ph�p lui tới. H� Nội bắt đầu c� kh�ng kh� căng thẳng v� phảng phất m�i chiến tranh.

Đường phố H� Nội về khuya lần đầu ti�n c� những b�ng d�ng cảnh s�t v� trang s�ng trận Mas-36 v� qu�n phục t�c chiến đi tuần tiễu. Nhưng c�c cơ sở d�n sự cơ yếu v� doanh trại quan trọng của Qu�n Đội Quốc Gia đều thấy c� l�nh Maroc hoặc da đen canh g�c, r� r�ng l� Ph�p đang ph�ng ngừa ch�nh biến chống lại họ.

Ng�y 14 th�ng 7, qu�n đội Ph�p tổ chức diễn binh ờ Bờ Hồ ph�a T�a Thị Ch�nh. Th�ng c�o v� b�ch chương của Ph�p vẽ h�nh nắm đấm được thấy khắp nơi. Ph�p giải th�ch rằng r�t 4 tỉnh ph�a Nam l� b�n tay trước kia x�e ra nay nắm lại để đ�nh mạnh hơn. Tất nhi�n �t ai tin v�o luận điệu n�y.

Đ�m học sinh ch�ng t�i từ Nam Định chạy về nhiều đứa t�nh nguyện v�o Kh�a 5 Sĩ Quan Trừ Bị v� lục tục l�n đường khoảng trước ng�y 15 th�ng 7 năm 1954. Phần c�n lại thường t�m gặp nhau trao đổi tin tức v� b�n luận về t�nh h�nh đất nước.

Chiều 21 th�ng 7 năm 1954 khi bọn t�i đang tụ họp th� c� tin tr�n đ�i Con Nhạn (Hirondelle) của qu�n đội Ph�p vang l�n lời loan b�o �Hiệp Định Đ�nh Chiến đ� được k� kết.� Tờ b�o của qu�n đội Ph�p cũng đăng c�u ấy tr�n trang nhất bằng chữ lớn. Mọi người b�ng ho�ng d� biết trước thế n�o việc n�y cũng sẽ đến. B�o n�y cho hay đất nước ph�n chia ở s�ng Bến Hải, Vĩ Tuyến 17.

T�n Thủ Tướng Ph�p Mend�s-France nhậm chức ng�y 17/6/54, đ� tuy�n bố rằng �ng ta sẽ từ chức nếu kh�ng đạt được thỏa hiệp trước ng�y 20 th�ng 7 năm 1954. V� thế hiệp định Geneve về Đ�ng Dương được k� l�c s�ng sớm ng�y 21 nhưng nh� cầm quyền Ph�p đ� cho đồng hồ ngưng chạy từ đ�m trước để l�m như l�c ấy vẫn c�n l� ng�y 20. Tại Việt Nam thời điểm n�y l� trưa ng�y 21.

H� Nội liền thay đổi r� rệt. Niềm hy vọng giữ Bắc Việt lịm tắt dần v� d�n ch�ng n�ng l�ng về tin tức sẽ c� cuộc di cư. Một số b�i tr�n b�o ch� đang từ th�i độ chống cộng quay dần sang ủng hộ Việt Minh. Người c�c tỉnh đổ về H� Nội đ�ng đảo. C�n bộ Việt Minh cấp thấp ra v�o H� Nội dễ d�ng. Đồ chơi trẻ em b�y b�n trước dịp Trung Thu c� những chiếc m�y bay, xe thiết gi�p, xe chở l�nh, t�u thủy được sơn cờ đỏ sao v�ng. C�c cơ quan an ninh chẳng ai th�m để �.

Một số c�n bộ Việt Minh quen biết gia đ�nh t�i đến thăm v� khuy�n gia đ�nh t�i n�n ở lại nhưng mẹ t�i v� t�i đ� dứt kho�t ra đi. Sau đ� 4 th�ng, ch�ng t�i gặp lại v�i người trong số c�n bộ n�y ở S�i G�n. Ch�nh họ cũng đ� mau ch�ng nhận r� thực chất của Cộng Sản v� kịp thời ra đi trước khi cảng Hải Ph�ng đ�ng cửa th�ng 3 năm 1955.

Những gia đ�nh chuẩn bị di cư đem đồ đạc b�y b�n dọc bờ hồ Thiền Quang l�m th�nh một thứ chợ trời. Một buổi s�ng sớm khi những người đầu ti�n đang lục tục khu�n đồ đạc đến chợ th� thấy c� một l� cờ đỏ sao v�ng treo tr�n t�ng c�y cao chừng ba bốn m�t. Một thanh ni�n nổi n�ng tr�o l�n giật l� cờ n�m xuống đất.

Một trung t� người Ph�p đi bộ ngang qua hung hăng can thiệp, lớn tiếng đại � n�i đ� l� quốc kỳ của một nh� nước, kh�ng được x�c phạm. �ng ta kh�ng ngờ những người b�n chợ trời đều kh�ng ưa l� cờ m�u ấy. Thế l� x� x�t xẩy ra, kết quả vi�n trung t� bị trọng thương v� gạch đ� gậy gộc cho đến l�c xe qu�n cảnh Ph�p cấp cứu.

Tin tức về di cư được loan b�o ch�nh thức v�o đầu th�ng 8. Nhiều nh� giầu đ� đi v�o Nam bằng phương tiện ri�ng. Đại đa số c�n lại đợi ghi danh di cư bằng phi cơ v� t�u biển. Trong nh�m ch�ng t�i từ Nam Định l�n, phần đi Kh�a 5 Thủ Đức, số c�n lại một phần tham gia đo�n c�n bộ x� hội được gửi v�o Nam để phụ tr�ch c�c trại tiếp cư do Bộ X� Hội thiết lập. T�i ở trong số n�y. Buổi chiều ng�y 11 th�ng 8 năm 1954 bốn đứa bọn t�i đi bộ thăm tất cả c�c di t�ch v� thắng cảnh quanh H� Nội lần cuối.

H�nh chụp v�o th�ng 9 năm 1954 với một số người Bắc di cư tr�n t�u USS Bayfield khi t�u vừa cặp bến Saigon. Sau Hiệp Định Geneve, t�u USS Bayfield l� một trong những vận-chuyển hạm của Hải Qu�n Hoa Kỳ được giao ph� nhiệm vụ chở người tị nạn từ Bắc v�o Nam. (H�NH ẢNH: Trung T�m Qu�n Sử Hải Qu�n Hoa Kỳ).

S�ng sớm 12 th�ng 8 khi qua cửa kiểm so�t phi trường Gia L�m, một trung �y Nhảy D� người Ph�p hỏi chuyện ch�ng t�i v� thấy 25 đứa trong đo�n c�n bộ x� hội to�n l� thanh ni�n c�n trẻ. Sau khi nghe ch�ng t�i n�i r� lập trường v� mục đ�ch ra đi, �ng ta nắm tay ch�ng t�i giọng x�c động n�i rằng, �Nước Ph�p đ� li�n tiếp sai lầm để c�c bạn chịu hậu quả đau đớn h�m nay.� N�i xong kh�ng ai ngờ vi�n trung �y trẻ dưới 30 n�y bật kh�c, nước mắt chảy d�i tr�n m�.

Ch�ng t�i cũng cảm động tuy nhi�n vẫn c�n cầm được nước mắt. Nhưng khi phi cơ lượn một v�ng lấy cao độ, tất cả đều ng� xuống. Giữa tấm thảm m�y mưa x�m xịt che k�n b�n dưới phi cơ c� một khoảng trống vu�ng vắn hiện ra Hồ Gươm v� 36 phố phường. Cảnh tượng tuy tầm thường nhưng lại g�y x�c động mạnh, khiến đứa n�o cũng rưng rưng nước mắt. Đ�y l� lần ch�ng t�i vĩnh biệt H� Nội. Vĩnh biệt miền Bắc.

Sau những giờ bay d�i phi cơ đến T�n Sơn Nhất, cảnh những con rạch đỏ ngầu giữa hai h�ng dừa xanh l�m ch�ng t�i tươi vui hơn. Được đưa về nhận việc tại trại Bệnh Viện B�nh D�n dưới quyền Bộ X� Hội, ng�y h�m sau ch�ng t�i được ph�n phối đi c�c trại tiếp cư khắp S�i G�n, Chợ Lớn v� Gia Định. Đợt đầu ti�n đồng b�o di cư bằng cầu vận chuyển của ch�nh phủ v� c�c nước trợ gi�p đ� v�o S�i G�n từ đầu th�ng 8 năm 1954.

Nhờ v�o dịp h�, c�c trường học v�ng S�i G�n, Chợ Lớn, Gia Định được trưng dụng để đ�n nhận người di cư đến bằng phi cơ qu�n v� d�n sự, c�c qu�n vận hạm Mỹ như Marine Serpent v� Marine Addler, c�c mẫu hạm Anh v� Ph�p. Trại tiếp cư lớn nhất v�ng S�i G�n l� trại Ph� Thọ Lều (s�t trường đua Ph� Thọ, gồm h�ng trăm lều vải lớn mỗi lều chứa bốn năm gia đ�nh do qu�n đội Mỹ dựng. Gọi l� Ph� Thọ Lều để ph�n biệt với trại Học Sinh Di Cư Ph� Thọ ở gần kế đ�. Trại Ph� Thọ Lều chứa tr�n 10 ng�n người.

Trợ cấp tiền mặt một ng�y cho mỗi người lớn 12 đồng, trẻ em 6 đồng, dư để ăn ba bữa tươm tất. L�c ấy một b�t phở hay một t� hủ tiếu gi� 3 đồng, một bữa cơm ở qu�n ăn x� hội hai m�n canh v� mặn gi� 5 đồng. Chai bia 3 đồng kể cả nước đ�, một g�i thuốc l� Ruby 8 đồng. Lương gi�o vi�n tiểu học khoảng hơn 4,000 đồng, lương trung sĩ 2,200 đồng, lương c�n bộ ngang lương thấp l� 1,500 đồng. Một căn nh� gỗ lợp t�n 4�20 m�t ở mặt đường khoảng chợ H�a Hưng gi� chừng 30,000 đồng.

Đời sống trong c�c trại tiếp cư rất đa dạng. Sống chật chội chung đụng v� ồn �o, l�m nảy sinh nhiều vui buồn, đụng chạm, kết bạn, r� bạn, tạo ra những mối t�nh �i lăng nhăng xấu tốt đủ cỡ đủ kiểu. Những cảnh �u yếm giao t�nh nặng nhẹ b�n bờ bụi gần trại trong đ�m khuya vắng vẻ của trai g�i, vợ chồng đủ lứa tuổi, l� những n�t sinh hoạt rất sống động c� đủ vui, buồn, y�u, giận, ph�t kh�c v� nực cười.

Từ th�ng 8 năm 1954, mỗi ng�y c� trung b�nh h�ng ng�n người từ H� Nội v� Hải Ph�ng v�o S�i G�n bằng đường h�ng kh�ng v� nhiều ng�n người mỗi tuần bằng t�u chiến. C�ng việc định cư được tiến h�nh song song v� khẩn thiết. Phủ Tổng Ủy Di Cư l�c ấy đ� thay thế bộ X� Hội trong nhiệm vụ chuy�n biệt n�y.

Thời gian tạm cư k�o d�i đến cuối năm 1954 v� c�c trường học được trả lại cho học sinh. Trại Ph� Thọ Lều giải t�n. Người di cư theo nhau đi định cư khắp nơi, ở nh� tư hoặc ở c�c trại định cư khắp c�c tỉnh. T�nh đến chuyến t�u sau c�ng th�ng 3 năm 1955 c� khoảng 950,000 người từ bắc Vĩ Tuyến 17 di cư v�o Nam.

Nếu t�nh theo giấy tờ, con số n�y c� thể l�n tới hơn 1 triệu v� c� sự gian lận sổ s�ch của một số vi�n chức c�n bộ lợi dụng thủ tục khai v� l�nh tiền trợ cấp dễ d�ng. V� kh�ng phải 90% người di cư l� t�n đồ C�ng Gi�o như nhiều người nhận định. Số đồng b�o C�ng Gi�o di cư c� lẽ chỉ chiếm khoảng 70% tổng số.

Một điểm đ�ng ghi nhận l� đ�ng lẽ số người di cư c�n cao hơn nữa nhưng v� vụ tướng Nguyễn Văn Hinh chống �ng Diệm v� những cuộc giao tranh giữa qu�n ch�nh phủ v� lực lượng B�nh Xuy�n đầu năm 1955 ở S�i G�n n�n nhiều người Bắc kh�ng d�m v�o Nam. Tin tức về vụ n�y l�m một số rất nhiều người đ� định ra đi nhưng v� e ngại loạn lạc m� đổi �.

N�i chung, sự xuất hiện của �ng Ng� Đ�nh Diệm v� th�i độ can dự của người Mỹ đ� g�y được tin tưởng trong một số đ�ng đảo người miền Bắc khiến họ y�n t�m v�o Nam. Đại đa số th�nh phần tr� thức, chuy�n vi�n cao cấp như kỹ sư, b�c sĩ, chuy�n vi�n trung cấp, thợ giỏi, đ� rời bỏ đất Bắc khiến ch�nh quyền �ng Hồ Ch� Minh gặp kh� khăn lớn trong mục ti�u x�y dựng một đội ngũ chuy�n vi�n kỹ thuật m� họ cho l� xương sống của nền kinh tế v� khoa học kỹ thuật X� Hội Chủ Nghĩa.

Cuộc di cư năm 1954 tạo ra những thay đổi s�u rộng trong lịch sử Việt Nam. Xin ghi lại một v�i sự kiện nổi bật xảy ra v� những n�t đặc biệt của cuộc di cư sau Hiệp Định Geneve 1954 điển h�nh tại v�ng thủ đ� S�i G�n.

Trước hết phải nh�n nhận cuộc di cư đ� gi�p h�n gắn những chia c�ch đ�ng buồn giữa hai miền trong nước. T�nh trạng chia rẽ do hậu quả của những năm d�i dưới chế độ thuộc địa Ph�p đ� ti�u tan mau ch�ng. Những dị biệt về phong tục, ng�n ngữ v� ngăn c�ch, l�u ng�y được san bằng gần hết. Những ngăn c�ch v� hiểu lầm c�n lại kh�ng g�y hậu quả n�o nghi�m trọng. Về mặt ch�nh trị v� x� hội, sau nhiều biến chuyển v� chiến tranh, cuộc di cư vĩ đại năm 1954 đ� g�p phần thay đổi bộ mặt bề ngo�i cũng như nếp sống của d�n ch�ng đến chỗ tốt đẹp, phong ph� hơn.

Trước th�ng 10 năm 1954, ch�nh quyền địa phương c�n gần y nguy�n như thời Ph�p Thuộc. Văn thư, giấy tờ, t�n c�ng sở, phố x� c�n d�ng tiếng Ph�p. Từ khi ch�nh phủ Ng� Đ�nh Diệm nắm to�n quyền sau những �m mưu đảo ch�nh bất th�nh, luật lệ được thi h�nh nghi�m chỉnh. Nhiều cải c�ch h�nh ch�nh đ� l�m giảm hẳn nạn giấy tờ nhi�u kh�. Văn thư, giấy tờ đều bắt đầu d�ng tiếng Việt. Xin Tư Ph�p L� Lịch b�y giờ chỉ mất một tuần thay v� đợi 3 th�ng. Xin chứng nhận bản sao đợi lấy ngay hay sau v�i giờ thay v� một tuần lễ. C�c cuộc cải tổ mạnh mẽ được tiến h�nh c� kết quả tốt nhờ phần n�o ở sự ủng hộ t�ch cực của đồng b�o di cư đối với ch�nh phủ.

Cuộc đổi tiền Đ�ng Dương th�nh tiền Việt Nam năm 1955 trong 3 ng�y kh�ng giới hạn số lượng l� một đ�n bất ngờ v� hiệu h�a h�ng tỷ bạc Đ�ng Dương m� ch�nh quyền Hồ Ch� Minh thu gom được ở miền Bắc v� họ kh�ng kịp chuyển v�o Nam để đổi lấy tiền miền Nam mới. Đợt đổi tiền n�y cũng chấm dứt lu�n th�i quen ti�u d�ng coi nửa tờ giấy bạc 1 đồng như 5 cắc (h�o). Khi cần x�i hay trả lại 5 cắc, chỉ cần x� đ�i tờ giấy bạc một đồng. Đ�nh rằng tập tục n�y kh�ng �p dụng cho những giấy bạc mệnh gi� tr�n một đồng.

L�c ấy ảnh hưởng tuy�n truyền của Cộng Sản rất mạnh ở nam phần ngay tại S�i G�n. Nhiều người mở đ�i H� Nội c�ng khai m� kh�ng ai bắt bớ. Nhiều người miền Nam �t hiểu biết về thực tế Cộng Sản đ� thật th� hỏi mấy đồng b�o di cư mới gặp gỡ rằng �Ngo�i Bắc đ� độc lập rồi, mấy thầy c� d� đ�y l�m chi?� Do đ� đ� xẩy ra một số đụng chạm nhỏ trong th�ng đầu. Dần dần đồng b�o miền Nam mới nh�n đồng b�o di cư một c�ch c� thiện cảm hơn.

Trong bối cảnh ấy, lực lượng học sinh di cư đ� dẫn đầu cuộc biểu t�nh v�o dịp 20 th�ng 7 năm 1955 đ�i tống xuất c�c đo�n đại biểu của qu�n đội Cộng Sản từ H� Nội tr� đ�ng tại hai kh�ch sạn Majestic v� Galli�ni (đường Trần Hưng Đạo). Khi bị khi�u kh�ch, cuộc biểu t�nh biến th�nh bạo động, g�y thiệt hại nặng cho hai kh�ch sạn nhưng kh�ng c� thương vong quan trọng. Những h�nh vi cương quyết của quần ch�ng khiến bọn th�n Cộng Sản kh�ng c�n nhởn nhơ tuy�n truyền b�n c�ng khai như trước.

Người di cư tiếp x�c, trao đổi với d�n ch�ng địa phương mau ch�ng tạo ra những hiểu biết v� th�ng cảm. Về kinh tế thương mại, người Bắc v�o Nam đ� mở mang thương trường, ra c�c cửa h�ng nhất l� h�ng ăn. Năm 1954 hầu hết cửa tiệm ăn do người Hoa kinh doanh, v� họ d�nh độc quyền ng�nh l�a gạo cũng như c�c sạp thịt ở mọi chợ. Đời sống dễ d�ng ở miền Nam khiến người Việt �t muốn cạnh tranh, ngay như ng�nh c�ng chức cũng kh�ng hấp dẫn nhiều người. B� con lao động x�ch l� kiếm đủ tiền ti�u trong ng�y nhiều khi đẩy xe l�n lề dưới b�ng c�y l�m một giấc, kh�ch gọi mấy cũng từ chối. C�ch biệt giầu ngh�o ở Nam Việt l�c ấy rất �t.

C�c tầng lớp d�n di cư cần c� chịu đựng tham gia thị trường lao động đ� l�m cho đời sống kinh tế miền Nam l�n cao nhưng lại buộc mọi người phải l�m ăn chăm chỉ hơn. Một số người địa phương kh�ng h�i l�ng v� nếp sống thong thả l� ph� cũ đ� mất đi kh�ng c�n trở lại.

H�nh chụp tại Saigon v�o th�ng 10 năm 1954 trong một trại định cư với h�ng trăm căn lều. L�c đ�, một trong những trại định cư lớn nhất ở Saigon l� trại Ph� Thọ Lều được thiết lập tại Quận 10 s�t b�n trường đưa Ph� Thọ. Trại n�y c� l�c đ� chứa đến 10,000 người di cư. (H�NH ẢNH: VNCTLS sưu tầm).

Trang phục phụ nữ hai miền kh�c nhau, nổi r� nhất l� giới nữ sinh trung học tuổi đ�i t�m. Nữ sinh H� Nội l�m d�ng sớm hơn, quần hẹp, �o d�i nở v�ng số một. Nữ sinh S�i G�n vận quần trắng rộng, �o b� ba trắng nhiều hơn �o d�i được may v�ng số 1 tương đối phẳng phiu c� lẽ v� đ� l� c�ch tỏ ra l� con nh� nghi�m t�c. Sau hơn một năm c�c c� hai miền tự nhi�n h�a hợp c�ch ăn mặc, bọn thanh ni�n sinh vi�n học sinh ch�ng t�i kh�ng c�n ph�n biệt được gốc g�c c�c c� qua y phục nữa. Điều quan trọng v� dễ thương hơn hết l� những c�u chuyện t�nh Bắc duy�n Nam đ� nhiều khi h�a giải rất nhiều cho những m�u thuẫn văn h�a ch�nh trị.

C�c trường ph�a Bắc di chuyển v�o S�i G�n giữ gần y nguy�n ban gi�m hiệu v� tổ chức ri�ng. Từ H� Nội v�o, Chu Văn An tiếp tục tại cơ sở cạnh Petrus K�. Trưng Vương học chung cơ sở nhưng kh�c giờ với Gia Long� sau hai ba năm mới ra học ở c�c cơ sở ri�ng trước Thảo Cầm Vi�n. Mấy năm sau nữa th� học sinh gốc hai miền dần dần pha trộn.

Chuyện đ�ng nhớ l� năm 1955 học sinh Bắc v�o Nam v� c�c bạn gốc miền Nam mở chiến dịch ph� bỏ t�n đường tiếng Ph�p. Nhờ đ� m� việc đặt t�n đường mới, vốn l� việc mất nhiều c�ng sức, đ� được T�a Đ� Ch�nh S�i G�n thực hiện trong v�ng khoảng một th�ng.

Về mặt văn h�a v� b�o ch�, c�c nh� văn, nh� thơ, nh� b�o từ Bắc v�o Nam đ� h�a hợp với đồng nghiệp miền Nam tạo ra sinh kh� mới, lối viết v� văn phong, sắc th�i trong s�ng, c� sức truyền đạt hơn. Sau một thời gian ngắn người đọc chỉ c� thể nhận thấy một số kh�c biệt �t ỏi giữa b�i vở s�ch b�o do c�c t�c giả gốc từ c�c miền kh�c nhau viết ra.

Đặc biệt l� về t�n nhạc, lớp nhạc sĩ v� ca sĩ cũng như những người y�u nhạc từ miền Bắc v�o Nam đ� l�i cuốn được phong tr�o �m nhạc mới ph�t triển mạnh để tiến đến tới cao điểm nghệ thuật ca nhạc trong c�c thập ni�n sau. V� ngược lại số người Bắc di cư h�m mộ ca nhạc kịch cải lương cũng gia tăng nhiều.

Về mặt ăn chơi, sự thay đổi r� rệt hơn. S�ng bạc Kim Chung, Đại Thế Giới, khu mại d�m B�nh Khang bị đ�ng cửa đầu năm 1955. Giữa năm 1954 cả S�i G�n h�nh như chỉ c� 2 hay 3 tiệm phở Bắc. Chỉ sau v�i th�ng số tiệm phở tăng đến h�ng chục. C�c qu�n c� ph� cũng lục tục ra đời c�ng với c�c ng�nh bu�n b�n kh�c. C�c xuất gọi l� phụ diễn t�n nhạc trước khi chiếu phim ch�nh ra đời dần dần tiến đến những buổi tr�nh diễn �m nhạc chuy�n nghiệp gọi l� �nhạc hội� gi�p v�o việc phổ biến �m nhạc s�u rộng hơn. Trước đ� hoạt động �m nhạc chỉ được biết qua c�c chương tr�nh ca nhạc v� c�c cuộc thi h�t, tuyển lựa ca sĩ của c�c đ�i ph�t thanh quốc gia, đ�i qu�n đội v� đ�i Ph�p � c�ng hai đ�i Huế v� H� Nội.

Ng�n ngữ hai miền sau cuộc di cư cũng thay đổi v� pha trộn về từ ngữ tuy vẫn giữ những n�t độc đ�o của từng v�ng m� kh�ng lai giọng. Điểm đ�ng lưu � l� sau nhiều năm gia đ�nh gốc g�c miền Bắc di cư c� con c�i đứa th� n�i giọng địa phương (Nam hay Trung), đứa th� n�i giọng Bắc, đứa th� n�i cả hai ba giọng t�y theo m�i trưởng x�m giềng v� trường học. Nhưng kh�ng mấy ai n�i lẫn lộn c�ng một l�c c�c giọng kh�c nhau.

Về mặt đời sống x� hội, người di cư dần dần v� chậm chạp chịu ảnh hưởng bởi lối sống ph�ng kho�ng, ch�n thật, thẳng thắn của d�n miền Nam. Sau một thế hệ, t�nh nết người Bắc di cư kh�c hẳn t�nh nết của đồng hương của họ c�n ở lại qu� nh�. Đến sau 30 th�ng 4 năm 1975 người ta c�ng thấy điều n�y r� rệt hơn khi gặp đợt Bắc Kỳ mới v�o Nam.

Trong đời sống tinh thần, c� hai sự kiện đ�ng nhớ trong thời gian ấy. Một l� trước ng�y Việt Minh tiếp thu H� Nội th� ch�a Một Cột, di t�ch qu� b�u nhất của Việt Nam bị kẻ v� danh ph� bằng chất nổ. Rất may ch�a chỉ hư hại một g�c. Nghe tin ấy ch�ng t�i đều hết sức buồn phiền. Hai l� giữa l�c nhịp độ di cư đang l�n cao th� Ho�ng Dương, em nhạc sĩ Ho�ng Trọng cho ra đời ca kh�c Hướng Về H� Nội với lời ca tha thiết �H� Nội ơi, hướng về th�nh phố xa x�i� m�i trường phượng vĩ d�ng hoa, d�ng chiều ủ b�ng ti�n nga� biết đ�u ng�y ấy anh về.� Ca kh�c n�y khiến lứa tuổi 18, 19 ch�ng t�i cảm thấy r� điều m� c�c văn thi nhạc sĩ gọi l� �tan n�t c�i l�ng..�

Dĩ nhi�n trong ng�t một triệu người Bắc di cư c� đủ mọi th�nh phần tốt xấu kể cả đầu trộm đu�i cướp, quan lại tham nhũng, trọc ph� bất lương, tay sai thực d�n v� nội tuyến Cộng Sản. Nhưng so với số c�c phần tử tinh hoa của x� hội, số người y�u nước, chuy�n vi�n giỏi c�c loại, c�c nh�n sĩ, tr� thức, chiến sĩ quốc gia ch�n ch�nh, th� những phần tử xấu xa n�i tr�n chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ b�.

Một số người cho rằng người miền Bắc di cư đ� l� chứng nh�n lịch sử khiến đồng b�o miền Nam hiểu r� bản chất của chế độ Cộng Sản. Điều đ� c� thể đ�ng một phần nhỏ. Phần quan trọng hơn l� ch�nh v� thực tế những đường lối m� Cộng Sản thi h�nh tại miền Nam tại n�ng th�n từ khoảng năm 1961 trở đi. Từ đ� họ đ� thấy rằng chế độ Cộng Sản đi ngược lại quyền lợi v� sự an h�a của nh�n d�n ta nhất l� giai cấp ngh�o khổ ở n�ng th�n

T�i v� c�c bạn c�ng lứa tuổi di cư v�o ở miền Nam gần 40 năm t�nh đến năm 1990 qua di tr� sang Hoa Kỳ. Tuy sinh ra tr�n đất Bắc nhưng chỉ ở Bắc dưới 20 năm trong đ� mới biết chuyện đời được dăm ba năm. V� thế ch�ng t�i c� hai miền qu� qu�n. Qu� qu�n thứ nhất ở miền Bắc c�n ở trong tim nhiều hơn. Qu� qu�n thứ hai ở miền Nam sau ng�y di cư năm 1954 mới thực sự chứa đựng nhiều vui buồn, y�u thương, giận dỗi, vinh quang v� tủi nhục v� trải qua qu�ng đường đời d�i 40 năm với biết bao nhi�u l� kỷ niệm.

Lữ Tuấn

Chủ đề